Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Đảng bộ huyện an lão (thành phố hải phòng) lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------------------

VŨ THỊ HỒNG THÚY

ĐẢNG BỘ HUYỆN AN LÃO (THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG)
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------------------

VŨ THỊ HỒNG THÚY

ĐẢNG BỘ HUYỆN AN LÃO (THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG)
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60220315

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Kim Đỉnh


Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu nêu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày

tháng

Tác giả

Vũ Thị Hồng Thúy

năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc tới PGS.TS Trần Kim
Đỉnh, người đã tận tình hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn
thành luận văn tốt nghiệp này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn toàn thể thầy, cô giáo trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Thư viện trường và các
bạn trong tập thể lớp Cao học Lịch sử Đảng QH – 2015 đã giúp đỡ em trong
quá trình thực hiện luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ, nhân viên kho lưu trữ văn
phòng Huyện ủy,Văn phòng HĐND & UBND, Phòng kinh tế,…của huyện
An Lão đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình khai thác và tìm kiếm tư liệu.

Em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã hỗ trợ, động
viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình em học tập, nghiên cứu và làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn

Tác giả

Vũ Thị Hồng Thúy


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

UBND: Ủy ban nhân dân
HĐND: Hội đồng nhân dân
NTM: nông thôn mới
NN&PTNT: Nông nghiệp và phát triển nông thôn
MTQG: mục tiêu quốc gia
BCĐ: ban chỉ đạo
Nxb: Nhà xuất bản
TƯ: Trung ương
CP: Chính phủ


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, nông nghiệp, nông dân và nông thôn có vai trò rất quan trọng
trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần
thứ VII của Đảng năm 1991 đã nhấn mạnh: Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với
công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn mới là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu để ổn định kinh tế, xã hội. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng nhấn mạnh: Hiện nay và trong nhiều năm tới đây vấn đề nông

nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến lược quan trọng…Xây dựng hoàn chỉnh các
quy hoạch phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Thực hiện chương trình xây
dựng mới nhằm xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống ấm no, văn minh, sạch
đẹp, gắn với việc hình thành các khu dân cư đô thị hóa. Phát huy dân chủ, xây dựng
nếp sống văn minh, bài trừ các tệ nạn xã hội ở nông thôn. Trong hơn 30 năm qua, nông
nghiệp, nông dân và nông thôn lại đi trước mở đường trong quá trình đổi mới, tạo điều
kiện để đất nước vươn lên. Chính vì vây mà Đảng và Nhà nước luôn có những chính
sách hỗ trợ, xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn một cách có hiệu
quả và bền vững.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã
đạt được những thành tựu khả quan và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với
tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số hàng xuất khẩu chiếm
vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng
công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất liên tục đổi mới.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa xứng tầm với tiềm năng, lợi thế và chưa
đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp còn phát triển kém bền vững, tốc độ tăng
trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho
phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học – công nghệ và đào tạo
nguồn nhân lực còn hạn chế. Nông nghiệp, nông thôn phát triển thiếu quy hoạch,
kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng

1


lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất còn thấp,
chưa đồng đều giữa các vùng.
Trước những yêu cầu mới, Đảng và Nhà nước đã đề ra chương trình mục tiêu
phát triển nông thôn mới nhằm giải quyết tốt những vấn đề trên và đạt được mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chính vì vậy, xây dựng

nông thôn mới chiếm vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
An Lão là một trong những huyện trọng điểm sản xuất lương thực của Thành
phố Hải Phòng, với diện tích tự nhiên là 11.490,53 ha, mật độ dân cư đông gồm 2
thị trấn và 15 xã, 39.702 hộ dân, ruộng đất bằng phẳng, mạng lưới giao thông thuận
tiện …đã đem lại cho huyện An Lão nhiều lợi thế, tạo điều kiện để phát triển kinh tế
- xã hội. Những chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước cùng với sự chỉ đạo của Đảng
bộ Thành phố Hải Phòng và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ huyện An Lão, đã
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được,
huyện An Lão còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế, cơ sở vật
chất - kỹ thuật còn thấp kém. Vì vậy, giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân và
nông thôn càng trở nên cấp thiết.
Đảng bộ huyện An Lão đã tập trung lãnh đạo, đề ra những chủ trương, chính
sách, biện pháp phù hợp để giải quyết vấn đề này, trong đó đặc biệt quan trọng là
chủ trương lãnh đạo xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện.
Phân tích, đánh giá một cách đầy đủ, khách quan quá trình lãnh đạo xây
dựng nông thôn mới của Đảng bộ huyện An Lão là một vấn đề có ý nghĩa quan
trọng đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của huyện nói riêng và của thành
phố Hải Phòng nói chung. Bởi vì chỉ có thông qua phân tích, đánh giá khách quan
đặc điểm tình hình, thuận lợi, khó khăn, thành tựu, hạn chế trong quá trình lãnh đạo
xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ huyện mới có cơ sở khoa học, căn cứ thực
tiễn để tiếp tục xác định phương hướng, nhiệm vụ, những giải pháp hữu hiệu nhằm
thực hiện tốt công cuộc xây dựng nông thôn mới ở An Lão trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay và trong tương lai.

2


Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của vấn đề đó, tác giả chọn
đề tài “Đảng bộ huyện An Lão (Thành phố Hải Phòng) lãnh đạo xây dựng nông
thôn mới từ năm 2008 đến năm 2015” làm luận văn thạc sĩ khoa học Lịch sử,

chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Trong nhiều năm qua, vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết
các vấn đề nông dân là những chủ đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học ở nhiều góc độ khác nhau như:
GS. Phạm Xuân Nam (Chủ biên) (1997), Phát triển nông thôn, Nxb Khoa
học xã hội. Đây là một công trình nghiên cứu chuyên sâu về phát triển
nông thôn. Trong công trình này, tác giả đã phân tích khá sâu sắc một số nội
dung về phát kinh tế - xã hội nông thôn nước ta như dân số, lao động, việc
làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; vấn đề sử dụng và quản lý nguồn lực tài
nguyên thiên nhiên; vấn đề phân tầng xã hội và xoá đói giảm nghèo…
PGS,TS. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời
kỳ

đổi

mới,

Nxb

Thống

kê.

Đây



công


trình

nghiên

cứu

rất

công phu của tác giả bởi ngoài những phân tích có tính thuyết phục về quá
trình đổi mới nông nghiệp Việt Nam sau gần 20 năm, công trình còn cung cấp
hệ thống tư liệu về phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta như là một Niên
giám thống kê nông nghiệp thu nhỏ. Công trình đã luận giải rõ quá trình đổi
mới, hoàn thiện chính sách nông nghiệp, nông thôn nước ta trong những năm
đổi mới, những thành tựu và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Những gợi mở về những vấn đề cần giải
quyết của phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta như vấn đề đầu tư, vấn
đề phân hoá giàu nghèo, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh, xuất khẩu
nông sản... đã được tác giả lý giải với nhiều luận cứ có tính thuyết phục.
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu khác như: PGS,TSKH Lê Đình
Thắng (Chủ biên) (1998), “Chính sách nông nghiệp, nông thôn sau Nghị quyết X

3


của Bộ Chính trị”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; GS. Phan Đại Doãn và PGS.
Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên) (1994), “Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn
Việt Nam trong lịch sử”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; GS. TS Phùng Hữu Phú
(Chủ biên) (2009), “Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, kinh nghiệm Việt
Nam, kinh nghiệm Trung Quốc”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; “Hội nhập kinh
tế quốc tế và tác động của nó đến phát triển nông nghiệp Việt Nam” là một dự án

nghiên cứu tập thể do TS. Nguyễn Từ phụ trách.
Các công trình luận văn nghiên cứu trực tiếp về vấn đề Đảng lãnh đạo xây
dựng nông thôn mới ở các tỉnh, huyện trong nước, có thể kể đến một số công trình
như: Vũ Thị Mười (2012): Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo xây dựng nông thôn
mới từ năm 2001 đến năm 2010, Luận văn Thạc sĩ, Trung tâm đào tạo bồi dưỡng
giảng viên lý luận chính trị; Đỗ Thùy Dung (2013): Đảng bộ huyện Sóc Sơn lãnh
đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2001 đến năm 2012, Luận văn Thạc sĩ, Trường
ĐH KHXH&NV; Phạm Anh Đào (2013): Đảng bộ Bắc Giang lãnh đạo xây dựng
nông thôn mới từ năm 2001 đến năm 2012, Luận văn Thạc sĩ, Trường ĐH
KHXH&NV…Các công trình này đã đi sâu tìm hiểu về thực trạng và nêu lên
phương hướng, giải pháp xây dựng nông thôn mới tại các địa phương.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu trên, còn có những bài viết, bài đăng
trên các báo, tạp chí của trung ương và địa phương cũng đề cập đến nội dung liên
quan đến vấn đề nông thôn mới.
Những công trình trên đã cung cấp những luận cứ, luận chứng, những
dữ liệu rất quan trọng cho việc hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp,
nông thôn và giải quyết vấn đề nông thôn trong thời kỳ mới ở nước ta. Song
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu quá trình triển khai, áp dụng các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc xây dựng nông thôn mới ở huyện
An Lão.

4


Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu trên chính là cơ sở lý luận và thực tiễn
quan trọng mà tác giả tiếp thu, sử dụng trong quá trình hoàn thành luận văn này và
trong những công trình nghiên cứu của mình về sau.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu làm rõ Đảng bộ huyện An Lão (Thành phố Hải Phòng)

lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2015, trên cơ sở đó nêu
nhận xét những ưu điểm, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn phân tích những cơ sở để Đảng bộ huyện An Lão lãnh đạo xây
dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2015.
Luận văn trình bày có hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Thành ủy Hải Phòng về xây dựng nông thôn mới.
Luận văn làm rõ quá trình Đảng bộ huyện An Lão vận dụng quan điểm, chủ trương
của Đảng về xây dựng nông thôn mới vào điều kiện địa phương từ năm 2008 đến năm
2015.
Luận văn trình bày chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ và kết quả thực hiện
quá trình xây dựng nông thôn mới của huyện An Lão từ năm 2008 đến năm 2015.
Đồng thời, nêu những ưu điểm, hạn chế từ đó phân tích một số kinh nghiệm được
rút ra từ quá trình trên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đảng bộ huyện An Lão lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến
năm 2015.

5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận văn nghiên cứu trên địa bàn huyện An Lão (Hải Phòng).
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu từ năm 2008 (Ban chấp hành TW Đảng
khóa X ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5/8/2008 về Nông nghiệp, nông
dân, nông thôn) đến năm 2015 (kết thúc việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
huyện An Lão lần thứ VI nhiệm kỳ 2010-2015). Nhưng để làm rõ hơn quá trình
lãnh đạo của Đảng bộ trong giai đoạn này, luận văn có sử dụng một số tư liệu có
liên quan trước năm 2008.

Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tế quá trình lãnh đạo xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện An Lão (Hải Phòng).
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê,… để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
5.3. Nguồn tư liệu
Các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, VII, VIII, IX, X,
XI; các nghị quyết, chỉ thị, quyết định.... của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư các khóa VI, VII, VIII, IX, X, XI và Chính phủ về Nông nghiệp,
nông dân, nông thôn.
Các văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố Hải Phòng từ Đại hội XIII đến Đại
hội XV; các nghị quyết chuyên đề, báo cáo, quyết định, chỉ thị, công văn, thông
báo, kết luận.... của Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân .

6


Các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện An Lão từ Đại hội IV đến Đại hội VI;
các nghị quyết chuyên đề, báo cáo, quyết định, chỉ thị, công văn, thông báo, kết
luận.... của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện; báo cáo nhiệm
kỳ hàng năm và tổng kết 05 năm của các sở, ban ngành đặc biệt là Phòng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện.
Các công trình nghiên cứu liên quan đến luận văn: Sách, tạp chí, các bài báo,
luận văn, luận án….
6. Đóng góp của luận văn
Hệ thống hóa các tư liệu về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,

Thành phố Hải Phòng và Đảng bộ huyện An Lão trong xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống, khái quát chủ trương, biện pháp của Đảng bộ huyện An Lão vận
dụng quan điểm của Đảng và Thành ủy Hải Phòng trong xây dựng nông thôn mới.
Từ tổng kết thực tiễn, phân tích đánh giá những kết quả đạt được đã rút ra
được những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện
An Lão.
Luận văn đóng góp tư liệu cho lịch sử địa phương và có thể sử dụng làm tài
liệu tham khảo.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn kết cấu
gồm 3 chương:
Chương 1: Những cơ sở để Đảng bộ huyện An Lão lãnh đạo xây dựng nông
thôn mới từ năm 2008 đến năm 2015
Chương 2: Đảng bộ huyện An Lão lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm
2008 đến năm 2015
Chương 3: Nhận xét và những kinh nghiệm được rút ra trong quá trình lãnh
đạo xây dựng nông thôn mới

7


CHƢƠNG 1
NHỮNG CƠ SỞ ĐỂ ĐẢNG BỘ HUYỆN AN LÃO LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2015
1.1.Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa-xã hội
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
An Lão là một huyện ngoại thành, có vị trí quan trọng trên các lĩnh vực chính
trị - kinh tế, văn hóa - xã hội và quốc phòng - an ninh của thành phố Cảng Hải
Phòng. Địa danh An Lão có từ lâu đời nhưng trong lịch sử đã nhiều lần thay đổi do
điều chỉnh địa giới hành chính, chia tách, sáp nhập và được tái lập vào ngày 8/8/1988 theo

Quyết định số 100/HĐBT ngày 6/6/1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng.
Huyện An Lão nằm ở phía Tây Nam, cách trung tâm thành phố khoảng 18
km, gần trung tâm đô thị và các khu công nghiệp, có vị trí từ kinh độ 1060 27'30''
đến 1060 41'15'', vĩ độ Bắc từ 200 42'30'' đến 200 52'30'', phía Bắc giáp huyện An
Dương, phía Nam giáp huyện Tiên Lãng, phía Đông giáp quận Kiến An, phía Đông
Nam giáp huyện Kiến Thụy, phía Tây Tây Bắc giáp huyện Nam Thanh - Kinh Môn
Hải Dương. Đến năm 2003, An Lão có diện tích tự nhiên là 11.458,45 ha chiếm
7,4% diện tích Hải Phòng, gồm thị trấn An lão, thị trấn Trường Sơn và 15 xã: An
Thái, An Thắng, An Thọ, An Tiến, Bát Trang, Chiến Thắng, Mỹ Đức, Quang Hưng,
Quang Trung, Quốc Tuấn, Tân Dân, Tân Viên, Thái Sơn, Trường Thành, Trường
Thọ.
An Lão là huyện đồng bằng Duyên hải Bắc Bộ, đặc trưng địa lý của huyện là
ở giữa vùng đồng bằng có 1 dãy núi chạy từ Tây Bắc xuống Đông Nam với nhiều
điểm cao trên 100m. Trong đó có Núi Voi với diện tích gần 300ha nằm ở các xã An
Tiến và Trường Thành bên bờ sông Lạch Tray. Khí hậu địa phương huyện An Lão
thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình 28,80C, độ ẩm 85%, lượng mưa
1.470 - 1.820mm/ năm, lượng mưa chênh lệch rất lớn vào hai mùa. Bình quân có từ
3 - 5 trận bão/ năm vào tháng 5 - tháng 9, là vùng nhạy cảm với bão và xâm nhập

8


mặn bởi vì huyện An Lão bao bọc trực tiếp bởi hệ thống sông Thái Bình (Văn Úc,
Lạch Tray, Đa Độ) và chịu ảnh hưởng của thuỷ triều.
Trên địa bàn huyện, hệ thống sông ngòi phân bố đều: phía bắc là sông Lạch
Tray, chịu ảnh hưởng lớn của thủy triều. Sông Đa Độ còn gọi là sông Cửu Biều,
chảy từ tây - bắc xuống đông - nam uốn khúc theo nhiều vùng giữa huyện dài 33 km
đổ ra biển ở cửa Cổ Trai, từ năm 1960 đã đắp đập ngăn lại mang tên đập Cổ - Tiểu
để ghi tên hai cửa biển Cổ Trai, Cửa Tiểu của hai Tỉnh Kiến An - Gò Công kết nghĩa
thời kỳ chống Mỹ. Đây là dòng dẫn nước chính của huyện, chiếm khoảng 4 đến 7

triệu m3. Sông Văn Úc, ranh giới tự nhiên giữa An Lão và Tiên Lãng dài 23 km có
lưu lượng lớn, nhất là về mùa mưa. Do ảnh hưởng của chế độ nhật triều, mực nước
bình quân vụ chiêm xuân ở vùng trung tâm từ 1,36 m đến 1,76 m. Sông ngòi ở đây
cung cấp nguồn nước tưới dồi dào, dẫn phù sa làm mầu mỡ đồng ruộng và là nơi
nuôi thả, khai thác thủy sản đồng thời là hệ thống giao thông đường thủy thuận tiện
phục vụ vận tải, du lịch.
Về mạng lưới giao thông: đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, đoạn qua
huyện dài 13,6 km; tuyến QL 10 qua huyện dài 8,5 km; hệ thống tỉnh lộ 354, 360,
362, 357 và hàng chục tuyến đường phố và đường nông thôn được kiên cố hóa với
tổng chiều dài gần 180 km. Do huyện có đầy đủ các tuyến giao thông từ giao thông
nội đồng đến giao thông liên tỉnh, cao tốc đi qua, trong đó lại có cả đường sông lẫn
đường bộ mà hệ thống này đang ngày càng được nâng cấp và mở rộng. Điều này đã
góp phần không nhỏ vào việc thu hút các khu công nghiệp, thành phần kinh tế tham
gia vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, tạo nên một môi trường cạnh tranh
lành mạnh, giúp các kênh, các luồng marketing hoạt động có hiệu quả.
Huyện An Lão với tổng diện tích tự nhiên là 11.490,99 ha, trong đó diện tích
đất nông, lâm nghiệp năm 2013 là 8.192 ,96 ha, chiếm 71,3% diện tích đất tự nhiên,
tuy nhiên diện tích đất nông nghiệp giảm dần trong tổng diện tích đất tự nhiên, năm
2014 là 69,66%, năm 2015 là 68,78% [67, tr.3]. Theo nguồn gốc phát sinh đất đai
của huyện được chia thành các nhóm sau:

9


- Đất phù sa được bồi đắp hàng năm: Chủ yếu là cửa sông Văn Úc và sông
Đa Độ, đất khá tốt, rất thích hợp cho trồng màu, cây công nghiệp ngắn ngày. Tuy
vậy, thường xảy ra lũ lụt, cần xây dựng kế hoạch mùa vụ thích hợp.
- Đất phù sa không được bồi thêm hàng năm: Lượng đất này có địa hình vàn
cao, vàn trong đê của các con sông. Loại đất này khá tốt, có thành phần cơ giữ thịt,
thịt trung bình, thịt nhẹ, hàm lượng chất dinh dưỡng khá, còn giữ được tính chất phù

sa gốc, tơi xốp thích hợp cho nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây màu, các loại rau.
- Đất bạc màu do thời tiết nóng, mưa tập trung theo mùa làm cho đất rửa trôi,
bạc màu. Loại đất này chiếm tỷ trọng nhỏ, độ dày tầng canh tác từ 10 - 20cm, một
số chân ruộng ở sâu từ 40 - 50 cm độ có kết vón.
Đất đai huyện An Lão thích hợp cho việc trồng cây lương thực, đảm bảo
vững chắc cho việc giải quyết vấn đề lương thực trên địa bàn huyện. Những diện
tích đất trống cần được cải tạo bằng biện pháp thuỷ lợi hoá, chuyển đổi sang nuôi
trồng thuỷ sản. Vùng đất cao, xấu không thích hợp cho sản xuất lương thực lại thích
hợp đối với cây trồng lâu năm như: nhãn, vải... hoặc thuận lợi cho việc phát triển
các ngành nghề khai thác, cung cấp vật liệu xây dựng...
Như vậy với đặc điểm về điều kiện tự nhiên như trên đã tạo thuận lợi cho việc
phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có nguồn gốc tự nhiên từ nhiều nguồn địa lý khác
nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, thương
mại, dịch vụ và phát triển nông nghiệp bền vững, góp phần vào công cuộc xây dựng
nông thôn mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của huyện.
1.1.2. Đặc điểm dân cư, kinh tế, văn hóa - xã hội
+ Tình hình dân số và lao động:
Trải qua lịch sử lâu dài hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc ta,
miền đất An Lão, do điều kiện thiên nhiên thuận lợi đã sớm có người Việt sinh
sống. Địa danh huyện An Lão và cùng Giang Nam Triệu là tên đơn vị hành chính
cấp huyện và tương đương cấp huyện cổ nhất của địa bàn Hải Phòng ngày nay. Cư

10


dân An Lão thuần Việt, có tính chất đặc trưng của dân tộc Việt: cần cù, siêng năng
lao động, bất khuất kiên cường trong đấu tranh chống thiên tai, địch họa. Hầu hết
những cuộc chiến tranh giữ nước chống các thế lực ngoại xâm của dân tộc ta, người
dân An Lão đều tham gia đóng góp sức người, sức của. Địa bàn An Lão nhiều lần là
chiến trường ác liệt, nóng bỏng. Ở vùng ven biển, sông nước bao quanh, đất đai

chật hẹp, mật độ dân số cao nhưng dân An Lão bất chấp bão tố, hồng thủy, hạn hán
đã cải tạo đất chua mặn thành ruộng vườn màu mỡ, xây dựng những thôn làng sầm
uất, đông vui.
Huyện An Lão là một huyện tập trung đông dân cư, trong đó chủ yếu là dân
tộc kinh. Năm 2005 toàn huyện có 125.597 nhân khẩu, bình quân năm 2005 - 2007
tăng 1,34%, tổng số lao động là 74.390 người (trong đó số người có khả năng lao
động là 71.740 người, số người mất khả năng lao động là 2.650 người). Trong đó,
lao động nông lâm nghiệp thuỷ sản chiếm 62,19%, lao động công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và xây dựng cơ bản chiếm 25,46%, lao động dịch vụ thương mại chiếm
12,35%. Tổng số lao động bình quân năm 2005-2006 tăng 1,55% [5, tr.4]. Trong
đó, lao động nông lâm nghiệp thuỷ sản, lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
xây dựng cơ bản và lao động dịch vụ đều tăng. Tỉ lệ lao động CN - TTCN, XDCB,
lao động TM - DV ngày càng tăng lên là một dấu hiệu đáng mừng trong chiến lược
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Tuy nhiên, trình độ lao động còn thấp, lực
lượng lao động chưa qua đào tạo rất lớn ảnh hưởng không nhỏ đến giá trị sản xuất
của các ngành.
+ Về tình hình kinh tế - xã hội:
Giai đoạn 2005 – 2006, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 10,85%/năm. Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ trọng nông nghiệp, thuỷ sản giảm
còn 26,13%; công nghiệp - xây dựng tăng mạnh, đạt 51,97%; dịch vụ đạt 21,90%.
Thu nhập bình quân đầu người năm 2008 đạt 20 triệu đồng/người/năm, gấp gần 2
lần so với năm 2005. Tổng vốn đầu tư trên địa bàn trung bình hàng năm đạt trên
600 tỷ đồng, tăng bình quân từ 10 đến 12%/năm. Thu ngân sách trên địa bàn tăng

11


bình quân 5 năm 2005 – 2010 là 9,94%/năm. Chi ngân sách cơ bản đáp ứng các
nhiệm vụ chi thường xuyên, phát sinh, đột xuất, chi phục vụ các nhiệm vụ chính trị
và an sinh xã hội [5, tr.2].

Lĩnh vực văn hoá - xã hội được quan tâm, chất lượng nâng lên; công tác an
sinh xã hội được đảm bảo, đạt hiệu quả rõ rệt. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm
non cho trẻ 5 tuổi; duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học, THCS và
phổ cập giáo dục bậc trung học và nghề. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc
gia được chú trọng, đã có 28/55 trường đạt chuẩn quốc gia, tăng 11 trường so với
năm 2010.
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân có chuyển biến tiến bộ. Đội
ngũ y, bác sỹ được tăng cường, bình quân có 04 bác sỹ/10.000 dân, gấp hơn 2 lần so
với đầu nhiệm kỳ. Bệnh viện Đa khoa và Trung tâm y tế huyện được công nhận là
đơn vị sự nghiệp y tế hạng II; có 17/17 xã, thị trấn đạt chuẩn y tế quốc gia; tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên ổn định ở mức 1,34%/năm. Huyện có 3 di tích lịch sử được xếp hạng
cấp quốc gia, 43 di tích xếp hạng cấp thành phố [5, tr.6]. Giải quyết việc làm và thực
hiện các chính sách xã hội có chuyển biến tích cực. Công tác xóa đói, giảm nghèo
đạt kết quả tốt. Triển khai thực hiện tốt các chính sách bảo đảm an sinh xã hội. An
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện cơ bản ổn định và giữ
vững, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy, những điều kiện về tự nhiên, kinh tế, văn hóa – xã hội đã tạo điều
kiện và yếu tố quan trọng để huyện An Lão tiến hành xây dựng nông thôn mới như:
phát triển nền kinh tế nông – lâm - ngư nghiệp đạt hiệu quả cao, có nguồn nhân lực
đóng góp sức mạnh dồi dào về chất xám và lao động để thực hiện các chương trình xây
dựng nông thôn mới. Phát triển kinh tế của huyện chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Nông
dân của huyện có truyền thống cần cù, có trình độ thâm canh trong sản xuất nông nghiệp.
Huyện có điều kiện và tiềm năng phát triển đô thị và thúc đẩy công nghiệp hoá, đón đầu
các hoạt động dịch vụ phục vụ công nghiệp, dịch vụ đô thị, du lịch, phát triển nguồn
nhân lực và giải quyết việc làm. Ba con sông Văn Úc, Lạch Tray và Đa Độ chảy qua địa

12


bàn huyện là điều kiện tự nhiên sinh thái thuận lợi cho phát triển cây trồng, vật nuôi

phong phú, đa dạng theo phương thức sản xuất nông nghiệp sạch, công nghệ cao.
1.2. Nông thôn huyện An Lão trƣớc năm 2008 và những vấn đề đặt ra
Tình hình phát triển kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản của huyện
An Lão khá ổn định. Cơ cấu tổng sản phẩm trong huyện đã chuyển dịch theo hướng
tiến bộ: khu vực nông - lâm - thuỷ sản giảm dần nhưng vẫn tăng về số tuyệt đối,
khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ đã tăng đáng kể. Sản xuất nông nghiệp
vượt qua nhiều khó khăn về thiên tai, dịch bệnh, giữ vững ổn định và có bước phát
triển mới, giá trị sản xuất bình quân trên 1 ha canh tác đạt 36 triệu đồng/ha/năm, đã
có nhiều diện tích cánh đồng đạt thu nhập 50 triệu đồng/ha/năm [6, tr.2].
Về trồng trọt: đã thực hiện có kết quả chương trình chuyển dịch cơ cấu mùa vụ,
chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi, đưa tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản
xuất, năng suất, sản lượng lương thực tăng, cơ bản đảm bảo cân đối được lương thực ở
khu vực nông thôn. Mặc dù diện tích gieo trồng cây lương thực có giảm do chuyển đổi
mục đích sang làm khu công nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng tổng sản lượng
luơng thực những năm qua ổn định, năng suất lúa bình quân đạt 105 - 115tạ/ha.
Trong phát triển kinh tế nông nghiệp, huyện có chủ trương chuyển đổi mạnh cơ
cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển nền kinh tế đa cây, đa con tạo hiệu quả bền vững,
mặc dù giảm giá trị tỷ trọng trong cơ cấu tổng thu nhập GDP, nhưng nông nghiệp vẫn
được coi là nhân tố ổn định. Nhờ vậy, cơ cấu cây trồng, vật nuôi có sự chuyển biến
mạnh. Trên địa bàn huyện đã chuyển đổi diện tích trồng lúa thuộc vùng đất bãi, vùng
cao sang trồng màu và trồng cây công nghiệp. Ở một số xã đã hình thành một số mô
hình chính như: Bưởi, nhãn, vải muộn, rau an toàn và chăn nuôi tập trung ở các xã An
Thắng, Tân Dân, Bát Trang, Trường Thành, Quang Trung, Quốc Tuấn...
Chăn nuôi: lãnh đạo huyện tích cực tuyên truyền, chuyển giao khoa học kỹ
thuật, phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm, không để phát dịch trên địa
bàn, ổn định, dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, chú trọng phát triển chăn nuôi gia

13



súc, gia cầm theo quy mô trang trại, mang tính sản xuất hàng hoá, nâng cao hiệu
quả kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn. Tỷ trọng chăn
nuôi trong nông nghiệp từ 42,5% năm 2005 lên 45,7 % năm 2007. Toàn huyện có
đàn lợn với tổng số gần 130 nghìn con, đàn trâu, bò hơn 23 nghìn con, gia cầm có 3
triệu con/năm. Mô hình chăn nuôi theo quy mô trang trại được mở rộng, phát triển
thêm 6 trang trại gà thịt tại các xã Tân Viên, Quốc Tuấn và An Thắng; thực hiện có
hiệu quả mô hình nuôi gà sinh học tại xã An Thái và Chiến Thắng [6, tr.3].
Thuỷ sản: Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng, nhiều loại giống mới có giá trị
kinh tế cao được đưa vào nuôi theo phương thức thâm canh như: cá vược, ba ba,
lươn, ếch, tôm càng xanh. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản 415 ha; đạt sản lượng
1.800 tấn. Chuyển đổi 60ha từ đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy
sản và cây trồng khác có giá trị kinh tế cao (trong đó 35 ha nuôi trồng thủy sản, 25
ha trồng cây có giá trị kinh tế cao) [6, tr.3].
Mặt khác, sự phát triển của các làng nghề đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn, góp phần thay đổi diện mạo của huyện theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống ở
nông thôn từng bước được phục hồi, đến năm 2007 đã có 28 làng được Ủy ban nhân
dân thành phố Hải Phòng công nhận đạt danh hiệu làng nghề. Năm 2007, tổng giá
trị sản lượng ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 917 tỷ đồng, vượt 39,8%
so với kế hoạch đề ra. Tạo điều kiện chuyển trên 5.000 hộ sang sản xuất công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thu hút và giải quyết việc làm thời vụ cho trên 10
nghìn lao động trong huyện [61, tr.4].
Hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn của huyện đã được quan tâm đầu tư. Đến
năm 2007, cơ bản các tuyến đường giao thông chính liên xã đã được kiên cố hoá;
các tuyến đường giao thông đã trải cấp phôi 100%; thảm nhựa, bê tông hoá hơn
50% (riêng đường trục huyện trên 80%); hệ thống giao thông đường thuỷ sông Úc,
sông Đa Độ cũng khá thuận tiện, tạo điều kiện để huyện phát triển kinh tế - xã hội
và đảm bảo công tác an ninh, quốc phòng. Hệ thống kênh mương tưới tiêu cấp 2,
cấp 3 về cơ bản đều được xây kiên cố, bảo đảm chủ động tưới tiêu, chống úng, hạn


14


góp phần tăng năng suất, sản lượng cây trồng.
Hệ thống các trường học, trạm y tế, hạ tầng về điện, thông tin liên lạc được đầu tư,
cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập, chữa bệnh, sinh hoạt của nhân dân; 50% trường
học được kiên cố hóa, 10% trường đạt chuẩn quốc gia, 46% số xã đạt chuẩn quốc
gia về y tế [6, tr.4]. Hệ thống đê điều, các công trình thuỷ lợi thường xuyên được
đầu tư và nâng cấp cơ bản đáp ứng được yêu cầu phục vụ cho công tác phòng chống
lụt bão và tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Công tác quy hoạch phát triển
các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, điểm công nghiệp và các điểm dân cư, xử
lý rác thải, vệ sinh môi trưởng có nhiều tiến bộ đang từng bước tạo dựng lên bộ mặt
nông thôn mới theo hướng văn minh, hiện đại, phù hợp với quy hoạch của thành
phố mở rộng.
Trước khi huyện An Lão tiến hành thực hiện chương trình xây dựng nông
thôn mới, nông nghiệp, nông thôn huyện cũng đã nhận được sự quan tâm của các
cấp uỷ Đảng. Đến khi Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) ban hành cùng với bộ tiêu
chí quốc gia về nông thôn mới, chiếu theo 19 tiêu chí trong bộ tiêu chí thì nông
nghiệp, nông thôn huyện An Lão cũng đã có những điểm nổi bật.
Kinh tế nông thôn phát triển chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, chuyển được một số dự án về đầu tư và xây
dựng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở khu vực nông thôn. Tỷ trọng nông nghiệp
đã giảm dần trong cơ cấu kinh tế chung của huyện. Việc chuyển dịch cơ cấu sản
xuất nông nghiệp đã trở thành phong trào rộng khắp các xã, hộ nông dân, đã xác
định được nhiều loại cây trồng có lợi thế, xây dựng được nhiều mô hình chuyển
dịch cơ cấu sản xuất đạt giá trị kinh tế cao. Các hình thức tổ chức sản xuất ở nông
thôn tiếp tục được đổi mới, phát triển đa dạng, đã huy động và sử dụng có hiệu quả
hơn các nguồn lực ở nông thôn, cư dân nông thôn có thêm nhiều việc làm và tăng
thu nhập.

Hệ thống chính trị ở nông thôn do Đảng lãnh đạo được tăng cường, dân chủ
cơ sở được phát huy, vị thế của giai cấp nông dân được nâng cao, an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông
15


thôn ngày càng được cải thiện.
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, việc triển khai thực hiện Chương trình xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện còn gặp nhiều khó khăn và những vấn đề
đặt ra cần được giải quyết đó là: Qua khảo sát, đánh giá, tổng hợp theo 19 tiêu chí
tại Quyết định số 491 của Thủ Tướng chính phủ vào năm 2008 tại 15 xã, cho thấy
xuất phát điểm của huyện còn quá thấp, bình quân trên toàn huyện mới chỉ đạt 6,87
tiêu chí/xã. Cụ thể: có 01 xã đạt 10 tiêu chí (6,67%), 02 xã đạt 8 tiêu chí (13,33%),
05 xã đạt 6 tiêu chí (53,33%), 05 xã đạt 5 tiêu chí (13,33%) và 02 xã đạt 3-4 tiêu chí
(13,33%) 15/15 xã chưa có quy hoạch và thực hiện quy hoạch [8, tr.3].
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật gồm: công trình trụ sở, trạm y tế, đường giao
thông, trường học, bưu điện, lưới điện, công trình cấp nước, xử lý rác thải, nước
thải… phần lớn chưa đủ về quy mô hoặc đang xuống cấp. Công trình phục vụ sản
xuất: kênh mương, trạm bơm, công trình thủy lợi, công trình cấp thoát nước, đường
phục vụ sản xuất, bờ vùng, bờ thửa vừa thiếu vừa xuống cấp. Các công trình phục
vụ đời sống văn hóa, thể thao, giải trí: nhà văn hóa, trung tâm văn hoá, thể thao, khu
vui chơi giải trí xã, thôn phần lớn thiếu diện tích, đã xuống cấp hoặc chưa đáp ứng
yêu cầu.
Nông thôn An Lão chưa có quy hoạch tổng thể. Bức tranh nông thôn vẫn còn
là làng mạc, cánh đồng xen kẽ với các công trình hạ tầng kỹ thuật đang bị xuống
cấp, thiếu đồng bộ, chưa có sự liên kết khoa học, hợp lý. Nhiều mô hình kinh tế
nông nghiệp, nông thôn phát triển tự phát, thiếu sự định hướng của chính quyền địa
phương. Công tác quy hoạch vùng sản xuất tập trung còn nhiều bất cập, quản lý nhà
nước về hoạt động của trang trại bộc lộ một số hạn chế, yếu kém, nhất là công tác
quản lý về đất đai, vệ sinh môi trường.

Phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu, chất lượng
một số sản phẩm còn thấp; việc đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất tuy
có cố gắng, song còn hạn chế; chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm; kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội còn yếu, nhất là hạ tầng giao thông xuống cấp nghiêm trọng. Sản
xuất nông nghiệp vẫn còn nhỏ lẻ, phân tán, thiếu tập trung chuyên canh; nhiều nông
16


dân còn thiếu thông tin, vốn, kinh nghiệm sản xuất, kiến thức về khoa học kỹ thuật
và vệ sinh an toàn thực phẩm; sức cạnh trạnh của sản phẩm hàng hóa trên thị trường
không cao. Môi trường sống nông thôn chưa được bảo đảm, đang bị ô nhiễm; việc
tổ chức thu gom rác thải, vệ sinh, môi trường còn nhiều hạn chế. Thu nhập của dân
cư nông thôn nhìn chung còn thấp; đời sống vật chất, tinh thần còn khó khăn và
thiếu thốn.
Hệ thống chính trị tuy đã có bước chuyển biến tiến bộ, song đội ngũ cán bộ ở
cơ sở nhất là cán bộ quản lý chưa theo kịp sự phát triển, năng lực, trình độ, chuyên
môn còn hạn chế.
Sở dĩ có những yếu kém trên là do những nguyên nhân sau:
Về khách quan, do điểm xuất phát của nền kinh tế thấp, nhu cầu đầu tư cho
phát triển nông nghiệp, nông thôn lớn song khả năng đáp ứng của các nguồn lực còn
thấp. Tư duy về kinh tế thị trường của đại bộ phận nông dân còn nhiều hạn chế. Khu
vực nông nghiệp, nông thôn chịu nhiều tác động của thiên tai, dịch bệnh, rủi ro.
Về chủ quan, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của hệ thống
chính trị nói chung nhất là ở cơ sở nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu; khả năng
tham mưu, đề xuất, cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và cấp
trên còn yếu. Thiếu đội ngũ cán bộ giỏi về xây dựng nông thôn mới làm nòng cốt
chỉ đạo thực hiện ở cơ sở.

17



Xây dựng nông thôn thiếu định hướng do chưa có quy hoạch tổng thể, chưa thể
hiện các đặc trưng của nông thôn thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; chưa
có hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật làm chuẩn cho xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế
- xã hội nông thôn. Hệ thống cơ chế, chính sách về phát triển nông thôn thiếu đồng bộ
và còn nhiều vưỡng mắc. Công tác đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao nhận thức, dạy nghề
cho nông dân chưa được coi trọng. Phát triển các lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục ở
nông thôn, nhất là bậc học mầm non, xây dựng thiết chế văn hoá làng xã, bảo tồn và
phát triển văn hoá truyền thống chưa được quan tâm đúng.
Trước khó khăn trên lãnh đạo huyện An Lão đã đề ra một số giải pháp chủ
yếu đó là: Tăng cường công tác tư tưởng để tạo sự thống nhất cao giữa nhận thức và
hành động của toàn Ðảng bộ, quân và dân trong huyện, tạo sự đồng thuận, quyết
tâm, tạo sự tin tưởng của quần chúng nhân dân, phấn đấu hoàn thành toàn diện và
vượt mức các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, các nhiệm vụ đã đề ra. Kịp thời nắm bắt
những thời cơ thuận lợi mới, chủ động tháo gỡ những khó khăn để khai thác và phát
huy có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của huyện. Tiếp tục chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng nông thôn mới từ
năm 2008 đến năm 2015
Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khóa X diễn ra từ ngày 09/7
đến ngày 17/7/2008 tại Hà Nội, đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày
5/8/2008 “về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” được coi như “luồng gió mới”,
tạo đà cho sự phát triển của nông nghiệp, nông dân, nông thôn, xác định nông dân là
chủ thể, xây dựng nông thôn mới là căn bản, phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông
nghiệp là then chốt. Hội nghị khẳng định: “Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn” phải được giải quyết đồng bộ gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và là nhân tố bảo đảm thành công của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,phù hợp


18


với điều kiện của từng vùng và cả nước; khai thác thuận lợi trong hội nhập quốc tế;
phát huy cao nội lực trong nông thôn, đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước;
ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học công nghiệp, phát triển nguồn nhân lực,
nâng cao dân trí. Sau hơn 20 năm đổi mới, đây là lần đầu tiên Đảng có một Nghị
quyết toàn diện nhất về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong điều kiện kinh tế
thị trường hội nhập.
Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5/8/2008 đã nêu một cách tổng quát về mục
tiêu, nhiệm vụ cũng như phương thức tiến hành quá trình xây dựng nông thôn mới
phù hợp với điều kiện thực tiễn phát triển của đất nước. Quan điểm đó của Đảng là
sự kế thừa và phát huy những bài học kinh nghiệm lịch sử về phát huy sức mạnh
toàn dân, huy động mọi nguồn lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp xây dựng nông thôn
mới.
Nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 7 khóa X, Thủ tướng Chính
phủ ban hành “Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn” tại Nghị quyết số 24/2008/NQ_CP. Mục tiêu của chương trình nhằm xây
dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa
lớn, có năng suất, chất lượng hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Chương trình tập
trung đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp
sang công nghiệp và dịch vụ, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông
thôn; đồng thời nhấn mạnh: Nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của
dân cư nông thôn, nhất là các vùng còn nhiều khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi để
nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn vào quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Hoàn thiện đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn;
xây dựng nông thôn mới bền vững theo hướng văn minh giàu đẹp, bảo vệ môi trường
sinh thái, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Xây dựng nông thôn mới trở thành vấn đề cấp bách và cần thiết. Ngày
16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 800/QĐ-Ttg và ban hành Bộ
tiêu chí quốc gia về nông thôn mới bao gồm 19 tiêu chí. Đây là căn cứ để các địa

19


phương chỉ đạo việc xây dựng, phát triển nông thôn mới; là cơ sở để đánh giá, công
nhận xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới. Bộ tiêu chí gồm 5 nhóm với 19 tiêu chí đề
cập tới tất cả các vấn đề kinh tế - xã hội như: Quy hoạch và thực hiện quy hoạch,
giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở văn hóa, cơ cấu lao động, môi trường,
chợ nông thôn, bưu điện, nhà ở, thu nhập, tỷ lệ hộ nghèo….Đến ngày 4/6/2010,
Quyết định số 800/QĐ-Ttg về Phê duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia về xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 được ban hành.
Mục tiêu chung xây dựng nông thôn mới được xác định là: “Xây dựng nông
thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và
các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông
thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo
vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày
càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [75, tr.2].
Nội dung của chương trình xây dựng nông thôn mới được ban hành bao gồm
11 nội dung: quy hoạch xây dựng nông thôn mới; phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội;
chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập; giảm nghèo và an sinh xã
hội; đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn;
phát triển giáo dục đào tạo ở nông thôn; phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân
nông thôn; xây dựng đời sống văn hóa, thông tin và truyền thông nông thôn, cấp
nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; nâng cao chất lượng tổ chức đảng,
chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội trên địa bàn; giữ vững an ninh trật tự xã hội
nông thôn [75, tr.3].

Bên cạnh đó, Quyết định số 800/QĐ-Ttg cũng nêu ra các giải pháp chủ yếu để
thục hiện chương trình như: điều hành và quản lý chương trình; đào tạo cán bộ
chuyên trách để triển khai chương trình mục tiêu quốc gia; hợp tác quốc tế trong xây
dựng nông thôn mới; thực hiện cuộc vận động xã hội sâu rộng về nông thôn mới…

20


×