Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Khởi tố vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.83 KB, 116 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

H VNH NAM

KhởI Tố Vụ áN HìNH Sự
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT
NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố
Hải Phòng)

LUN VN THC S LUT HC


HÀ NỘI - 2018


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

H VNH NAM

KhởI Tố Vụ áN HìNH Sự
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT
NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố
Hải Phòng)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 8380101.03

LUN VN THC S LUT HC



Ngi hng dn khoa hc: GS.TS NGC QUANG


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hồ Vĩnh Nam


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ cáo viết tắt
Danh mục các bảng


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Ký hiệu


Nội dung

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

TTHS:

Tố tụng hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

BLHS:

Bộ luật hình sự

CHLB:

Cộng hòa liên bang

CQCSĐT: Cơ quan Cảnh sát điều tra


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng


Trang

Bảng 2.1

Số liệu về quyết định khởi tố, quyết định không khởi
tố vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng từ
năm 2010 đến tháng 6/2018

Error:
Referen
ce
source
not
found

Bảng 2.2

Số liệu về quyết định khởi tố, quyết định không khởi tố Error:
vụ án hình sự của Các cơ quan điều tra trên địa bàn Referen
thành phố Hải Phòng từ năm 2010 đến tháng 6 năm
ce
2018
source
not
found

Bảng 2.3

Thống kê số liệu án đình chỉ điều tra trên địa bàn thành
phố Hải Phòng từ năm 2010 đến tháng 6 năm 2018


Error:
Referen
ce
source
not
found


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta xác định một trong
những phương hướng trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN là: … Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình
sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo
đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người…
Do vậy, nhiệm vụ của các ngành, các cấp trong giai đoạn hiện nay tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ cho công cuộc đổi mới trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội được coi là một trong những nhiệm vụ cấp
bách của Nhà nước ta, tiến tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Trong Nhà nước pháp quyền, pháp luật luôn luôn là một công cụ quan
trọng để Nhà nước thực hiện sự quản lý đối với toàn xã hội, đồng thời pháp
luật cũng là một công cụ để củng cố và bảo vệ sự tồn tại của Nhà nước. Điều
đặc biệt hơn chính là quyền con người, quyền công dân được coi trọng và bảo
đảm và đã được đề cập trong một Chương II của Hiến pháp mới năm 2013.
Mọi hoạt động của Nhà nước, của cá nhân nào đó đi ngược lại với lợi ích hợp

pháp của con người, xâm phạm tới quyền công dân đã được Hiến pháp và
pháp luật quy định đều phải bị lên án và bị xử lý nghiêm khắc. Ngoài ra,
Đảng ta đã khẳng định:
Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng

1


và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân
sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo
đảm tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp
luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp...
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của hoạt động tố tụng hình
sự, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định có hay không dấu hiệu tội phạm
để quyết định đưa vụ việc giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự với nguyên
tắc "Mọi hình vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lí nhanh chóng,
công minh, theo đúng pháp luật". Trên tinh thần đó, Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 tại Điều 1 quy định: Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ
tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự... nhằm chủ động
phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý
công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội.
Bộ luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa bảo vệ
lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân
thủ pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự,
đây là giai đoạn đầu tiên, mở đầu cho các giai đoạn tiếp theo của tố tụng hình
sự trong vụ án hình sự. Giai đoạn này bắt đầu từ việc tiếp nhận và phát hiện

các nguồn thông tin về tội phạm và kết thúc bằng việc cơ quan có thẩm quyền
ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Khởi tố vụ án hình sự
có căn cứ đúng pháp luật là cơ sở cho các hoạt động tiếp theo, ngược lại khởi
tố không có căn cứ pháp luật sẽ dẫn đến tình trạng làm oan người vô tội hoặc
bỏ lọt tội phạm. Các qui định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về khởi tố
vụ án hình sự nói chung và căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự nói riêng là cơ

2


sở pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền thực thi có hiệu quả quyết định đưa
sự việc giải quyết bằng thủ tục tố tụng hình sự. Đồng thời nó cũng là những
công cụ để bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự góp phần thực hiện
đấu tranh phòng ngừa tội phạm có hiệu quả.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự đã bộc lộ những
hạn chế trong các qui định của pháp luật, như: các quy định về trách nhiệm
tiếp nhận thông tin về tội phạm, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết thông tin
về tội phạm; các quy định về trách nhiệm xác định dấu hiệu tội phạm, trách
nhiệm quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình
sự, công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra hoạt động khởi tố vụ án hình sự và
chế độ bảo mật và bảo vệ người cung cấp thông tin về tội phạm còn hạn chế.
Ngoài ra, trong hoạt động tố tụng hình sự vẫn còn tình trạng các cơ quan có thẩm
quyền xác định không đúng căn cứ và cơ sở khởi tố vụ án hình sự nên dẫn đến
tình trạng bỏ lọt tội phạm, bắt, giữ, giam, truy tố oan sai người vô tội. Thực trạng
đó làm ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước mà trước hết là uy tín của các cơ
quan bảo vệ pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với nền tư pháp xã hội chủ nghĩa.
Thành phố Hải Phòng là thành phố trực thuộc trung ương, có kinh tế xã
hội phát triển, dân số đông đúc, với địa bàn rộng lớn và nhiều phức tạp. Tuy
nhiên, trong thời gian vừa qua, tình hình tội phạm và các vi phạm pháp luật

khác trên địa bàn Hải Phòng có nhiều diễn biến phức tạp. Số lượng các vụ án
nghiêm trọng, rất nghiệm trọng, đặc biệt nghiêm trọng diễn ra ngày càng nhiều.
Trước tình hình đó, các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát đã tích cực khởi tố các vụ án hình sự để thực hiện việc điều tra,
truy tố, xét xử. Tuy nhiên, chất lượng khởi tố trên địa bàn còn nhiều hạn chế, số
lượng các vụ án khởi tố sai thẩm quyền, sai thời hạn, sai trình tự, thủ tục, sai về
tội danh vẫn còn xảy ra và cần được khắc phục trong thời gian tới.

3


Từ những lý do nêu trên, nên tôi quyết định chọn đề tài Khởi tố vụ án
hình sự trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn
tại địa bàn thành phố Hải Phòng) làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Về quy định Những căn cứ khởi tố vụ án hình sự trong Luật tố tụng
hình sự đã có một số công trình nghiên cứu nhưng chưa nhiều, nội dung
nghiên cứu mới chỉ tập trung vào một vài khía cạnh của quy định về: những
căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Các công trình nghiên cứu có một phần nội
dung trực tiếp đề cập đến quy định về những căn cứ khởi tố vụ án hình sự chủ
yếu là các cuốn: Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 do
GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. Công an nhân dân, năm 2004; cuốn
Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự (Học viện Khoa học xã hội, Nxb.
Tư pháp, Hà Nội, năm 2013) và một số giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam của các cơ sở đào tạo luật như: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam
(Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, năm 2014 do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên); Giáo trình Luật tố
tụng hình sự Việt Nam (Trường Đại học Luật Hà Nội Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội, năm 2011 do PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên); v.v.... Bên
cạnh đó, quy định về những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự còn được đề

cập một cách trực tiếp trong một số bài viết được đăng trên các tạp chí pháp
luật: Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự và một số quy định liên quan (TS.
Phan Thị Thanh Mai, Tạp chí Luật học số 7/2010); Hoàn thiện quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự về không khởi tố vụ án hình sự (Ths. Hoàng Duy Hiệp,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng 8(269)/2014).
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có tác giả nào trực tiếp
nghiên cứu về vấn đề khởi tố vụ án hình sự trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam năm 2015 và so sánh sự khác nhau về vấn đề khởi tố vụ án hình sự giữa

4


Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 dưới
góc độ một luận văn thạc sĩ luật học, cũng như đánh giá thực tiễn áp dụng trên
địa bàn một địa phương cụ thể là thành phố Hải Phòng.
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích làm sáng tỏ về mặt lý luận các trường hợp khởi
tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam và việc áp dụng vào thực
tiễn trên địa bàn Hải Phòng, từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện Bộ luật tố tụng
hình sự của nước ta, cũng như kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng,
qua đó, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu đã nêu, luận văn có phạm vi nghiên cứu
là các vấn đề lý luận và thực tiễn về những thủ tục, căn cứ khởi tố vụ án hình
sự trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, đồng thời đánh giá thực tiễn áp dụng
việc khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn Hải Phòng, từ đó chỉ ra một số tồn tại,
hạn chế và các nguyên nhân cơ bản để đề xuất kiến nghị hoàn thiện Bộ luật tố
tụng hình sự, đồng thời có những kiến nghị khác nâng cao hiệu quả áp dụng,
góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định về khởi tố vụ án
hình sự trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn
thành phố Hải Phòng.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
1) Làm rõ khái niệm khởi tố vụ án hình sự, bản chất pháp lý và phân tích
các đặc điểm cơ bản, các mối liên hệ của nó với các quy định có liên quan
trong Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam;

5


2) Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về khởi
tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945 đến nay;
3) Nghiên cứu quy định này trong Bộ luật tố tụng hình sự một số nước
trên thế giới để rút ra nhận xét;
4) Phân tích quy định về khởi tố vụ án hình sự trong Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam và đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải
Phòng của các cơ quan tiến hành tố tụng, từ đó chỉ ra các tồn tại, hạn chế và
những nguyên nhân cơ bản;
5) Luận chứng và đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định về khởi tố vụ
án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam;
6) Kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về khởi tố
vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà

nước ta trong đấu tranh phòng và chống tội phạm,… Đồng thời dựa trên
những thành tựu của khoa học như: Triết học, Luật hình sự, Luật tố tụng hình
sự, Tội phạm học...
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ thống… để tổng hợp các tri thức khoa
học Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng
được nghiên cứu. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn điều
tra, truy tố các vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng trong những
năm gần đây trên địa bàn thành phố Hải Phòng

6


6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự và phân biệt khởi tố vụ án hình sự
với khởi tố bị can
1.2. Vị trí, nội dung hoạt động tố tụng trong khởi tố vụ án hình sự và
thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc của việc khởi tố vụ án hình sự
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về khởi tố vụ án
hình sự trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
1.4. Khởi tố vụ án hình sự các mô hình tố tụng điển hình của một số quốc
gia trên thế giới
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về khởi tố vụ án

hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự 2003
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình
sự tại địa bàn thành phố Hải Phòng từ năm 2010 đến 2016
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về khởi tố vụ án hình sự
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án
hình sự
3.3. Các giải pháp đối với những người tiến hành tố tụng có liên quan
đến khởi tố vụ án hình sự
3.4. Các giải pháp khác
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự và phân biệt khởi tố vụ án
hình sự với khởi tố bị can
1.1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
Theo pháp luật tố tụng của hầu hết các quốc gia cũng như ở Việt Nam
thì, mỗi giai đoạn tố tụng có những nhiệm vụ tố tụng nhất định. Trong đó,
nhiệm vụ chung cơ bản của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự là phát hiện, xử
lý kịp thời, đúng đắn, khách quan, công minh tội phạm. Để hoàn thành được
nhiệm vụ chung này, quá trình tố tụng được thực hiện qua các giai đoạn khác
nhau với mỗi nhiệm vụ cụ thể riêng của mình: nhiệm vụ giai đoạn khởi tố vụ
án là xác định dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hay không khởi tố
vụ án; nhiệm vụ giai đoạn điều tra là xác định các tình tiết của tội phạm và
người phạm tội để ra quyết định khởi tố bị can, kết thúc điều tra đề nghị truy

tố hoặc đình chỉ điều tra… Trong đó, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu
tiên trong chuỗi các hoạt động để giải quyết vụ án hình sự nên việc xác định
thẩm quyền trong hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng. Mặc dù pháp luật đã
có quy định rất cụ thể và chi tiết, tuy nhiên trên thực tế, việc áp dụng thực
hiện thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự vẫn còn tồn tại nhiều bất cập.
Hiện nay, trong khoa học luật tố tụng hình sự, thuật ngữ “khởi tố vụ án
hình sự” có thể được hiểu ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, thông thường
thì thuật ngữ “khởi tố vụ án hình sự” được hiểu dưới góc độ là một giai đoạn
độc lập của quá trình tố tụng hình sự.
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) thì:
“Khởi tố vụ án hình sự là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng xác định
có sự việc phạm tội để tiến hành điều tra phát hiện tội phạm” [18, tr.429]. Với

8


khái niệm này đã nêu được bản chất cũng như căn cứ của việc khởi tố đó là
khi “có sự việc phạm tội” ban đầu, hay có những nghi vấn của tội phạm xảy
ra thì mới tiến hành khởi tố vụ án để làm cơ sở cho việc tiến hành điều tra.
Tuy nhiên, khái niệm đưa ra lại hoàn toàn chưa chính xác khi đề cập đến chủ
thể tiến hành các hoạt động để xác minh sự việc phạm tội. Theo đó, bên cạnh
các cơ quan tiến hành tố tụng thì hoạt động khởi tố vụ án hình sự còn được
thực hiện bởi một số các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra nếu phát hiện về sự việc có dấu hiệu tội phạm xảy ra như:
Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển...
Theo, giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra định nghĩa khởi tố vụ án hình sự như sau:
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập của quá
trình chứng minh vụ án hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền
xác định có hay không dấu hiệu tội phạm để quyết định khởi tố

hoặc quyết định không khởi tố vụ án. Giai đoạn khởi tố bắt đầu từ
việc tiếp nhận thông tin về tội phạm hoặc phát hiện dấu hiệu tội
phạm và kết thúc bằng một quyết định khởi tố hoặc không khởi tố
vụ án hình sự [17, tr. 330].
Với định nghĩa này có ưu điểm là không giới hạn phạm vi chủ thể tham
gia vào hoạt động xác minh sự việc phạm tội, và chỉ rõ thời điểm bắt đầu cũng
như thời điểm kết thúc của nó, cũng như việc chỉ rõ được cơ sở để khởi tố vụ
án hình sự là khi có dấu hiệu của tội phạm. Tuy vậy, việc cho rằng khởi tố vụ
án hình sự là một giai đoạn trong quá trình chứng minh là chưa chính xác.
Tại giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật
Hà Nội tuy đưa ra ngắn gọn hơn nhưng lại khá đầy đủ về bản chất và nội dung
của giai đoạn khỏi tố vụ án hình sự, theo đó Giáo trình định nghĩa như sau:
“Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của trình tự tố tụng, trong đó cơ

9


quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không
để quyết định khởi tố hay quyết định không khởi tố vụ án hình sự” [16, tr. 233].
Như vậy, theo định nghĩa trên thì khởi tố vụ án hình sự được xem là giai đoạn
đầu tiên, mở đầu cho quá trình tố tụng hình sự. Giai đoạn điều tra tiếp theo có
được tiếp tục nếu trong giai đoạn khởi tố vụ án đã xác minh được dấu hiệu tội
phạm thể hiện bằng Quyết định khởi tố vụ án. Ngược lại nếu Quyết định
không khởi tố vụ án được đưa ra thì chứng tỏ rằng không có dấu hiệu tội
phạm và như vậy cũng không bước sang giai đoạn điều tra tiếp theo.
Ngoài các định nghĩa trong các giáo trình nói trên thì cũng có nhiều các
chuyên gia luật học đã đưa ra quan điểm của mình về khái niệm khởi tố vụ án.
Tiêu biểu cho rất nhiều các học giả đó, có GS.TSKH Lê Cảm, theo đó:
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên
mà trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào

các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác
định có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành
quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự
liên quan đến hành vi đó [1, tr.21].
Trong định nghĩa này, có một điểm chưa hoàn toàn chính xác đó là
Giáo sư đã khẳng định chủ thể tiến hành hoạt động là cơ quan tư pháp, do đó
lại vẫn bỏ sót các chủ thể có thể tiến hành hoạt động xác minh các dấu hiệu
phạm tội khác như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh
sát biển... như đã nói đến trong phân tích định nghĩa về khởi tố vụ án hình sự
trong từ điển Luật học. Tuy nhiên, trong định nghĩa này Tiến sĩ đã đưa vào
một yếu tố rất quan trọng, đó là các cơ quan tư pháp hình sự phải “căn cứ vào
các quy định của pháp luật tố tụng hình sự” khi tiến hành việc xác định có
hay không các dấu hiệu của tội phạm. Bởi lẽ, hoạt động xác minh chỉ có giá

10


trị chứng minh và được sử dụng làm chứng cứ khi hoạt động đó tuân thủ các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Như vậy, trong các định nghĩa về khởi tố vụ án hình sự nêu trên có một
số điểm chung thống nhất mà tác giả luận văn này cũng hoàn toàn nhất trí như sau:
Thứ nhất, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên,
mở đầu cho quá trình tố tụng hình sự.
Thứ hai, trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, nhiệm vụ của các cơ
quan có thẩm quyền là tiếp nhận các nguồn tin về các vụ án có dấu hiệu tội
phạm. Sau đó, tiến hành xác minh, thẩm tra các nguồn tin này để từ đó ban
hành mộ trong hai quyết định: Quyết định khởi tố vụ án hình sự sau khi xác
định hành vi có dấu hiệu của tội phạm hoặc Quyết định không khởi tố vụ án
hình sự sau khi xác định hành vi không có dấu hiệu của tội phạm.

Trên cơ sở tiếp thu các khái niệm về khởi tố vụ án nêu trên, cùng với
những điểm chung thống nhất đó, tác giả đưa ra khái niệm như sau: Khởi tố
vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, được bắt đầu từ khi tiếp
nhận thông tin về tội phạm, để cơ quan hoặc người có thẩm quyền căn cứ vào
các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự xác định có hay không
dấu hiệu tội phạm từ đó ban hành quyết định khởi tố hoặc quyết định không
khởi tố vụ án.
1.1.2. Phân biệt khởi tố vụ án hình sự với khởi tố bị can
Khởi tố vụ án và khởi tố bị can có điểm giống nhau đó là cơ sở bắt đầu
cho việc điều tra công khai theo trình tự thủ tục mà Luật TTHS quy định,
nhưng khác nhau về thời điểm và căn cứ khởi tố. Đối với Quyết định khởi tố
vụ án không đặt nhiệm vụ yêu cầu xác định ai là nghi phạm cần chứng minh
hành vi phạm tội. Trong khi đó, quyết định khởi tố bị can là phải xác định
chính xác một người hoặc pháp nhân cụ thể bị tình nghi thực hiện hành vi
phạm tội. Khởi tố bị can không chỉ được tiến hành ở giai đoạn khởi tố vụ án

11


mà còn được thực hiện trong giai đoạn điều tra hay trong giai đoạn truy tố nếu
phát hiện có người thực hiện tội phạm. Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can là
những hành vi đầu tiên của quá trình tố tụng mà thẩm quyền ban hành các
quyết định này chỉ được giao cho các cơ quan có khả năng điều tra thu thập
chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Để phân biệt khởi tố vụ án và khởi tố bị can trong TTHS, cần dựa vào
ba tiêu chí sau đây:
Thứ nhất, về căn cứ khởi tố, nếu khởi tố vụ án hình sự muốn đưa ra
quyết định khởi tố được thì phải căn cứ vào ít nhất một trong năm căn cứ
được quy định tại Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, đó là dựa vào tố
giác của công dân hoặc tin báo của cơ quan, tổ chức, hay tin báo trên phương

tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra, kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước
hay việc Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu
tội phạm cũng là những căn cứ quan trọng để khởi tố vụ án. Một căn cứ nữa
để thực hiện việc khởi tố vụ án đó là việc người phạm tội tự thú. Đối với khởi
tố bị can thì phải dựa vào việc sau khi đã có quyết định khởi tố vụ án, cơ quan
điều tra sẽ tiến hành điều tra vụ án. Nếu quá trình điều tra này mà thu thập
được những chứng cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi mà Bộ luật
hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can.
Quyết định khởi tố bị can này phải được sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân
dân cùng cấp với cơ quan điều tra.
Việc cơ quan có thẩm quyền ban hành các quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can còn giúp cho cơ quan có chức năng kiểm sát, giám sát hoạt
động điều tra nắm được diễn biến tình hình tội phạm và công tác điều tra tội
phạm để có thể đặt ra các yêu cầu trong công tác phòng ngừa, đấu tranh, truy
tố, buộc tội người phạm tội, góp phần quan trọng trong công tác giữ gìn an
ninh trật tự đất nước.

12


Thứ hai, về thời điểm kết thúc việc khởi tố, theo Luật tố tụng hình
sự Việt Nam coi khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng, được bắt đầu kể từ khi cơ
quan có thẩm quyền nhận được những thông tin tội phạm từ các nguồn khác
nhau về một sự việc, sự kiện có dấu hiệu phạm tội. Sau khi tiếp nhận các nguồn
tin về dấu hiệu tội phạm từ các kênh thông tin khác nhau này, các cơ quan có
thẩm quyền sẽ tiếp tục thẩm tra, xác minh nội dung của nó. Theo đó, thời điểm
kết thúc của giai đoạn khởi tố vụ án được tính từ khi ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự (trong trường hợp xác định có dấu hiệu tội phạm), hoặc quyết định
không khởi tố vụ án hình sự (khi xác định không có dấu hiệu tội phạm).
Đối với khởi tố bị can, khởi tố bị can không phải là giai đoạn tố tụng

như khởi tố vụ án, mà nó chỉ là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền. Cụ
thể, tại giai đoạn điều tra người có thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố bị can
sau khi đã xác định được một người cụ thể bị tình nghi về việc thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, để có căn cứ
tiến hành các hoạt động điều tra đối với họ theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự. Và như vậy, thông thường quyết định khởi tố bị can sẽ thực hiện
sau thời điểm khởi tố vụ án. Tuy nhiên, trong thực tế giải quyết vụ án hình sự,
những cơ quan có thẩm quyền có thể ban hành hai quyết định này cùng một
thời điểm, nếu tại sự việc, sự kiện phạm tội có dấu hiệu tội phạm và cũng
đồng thời xác định được ngay người thực hiện hành vi phạm tội. Chẳng hạn,
trong các vụ án liên quan đến các tội về tham nhũng hay các tội về đánh bạc,
hoặc các vụ án mà được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại như tội hiếp
dâm, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác...
thì thường xác định được ngay dấu hiệu tội phạm và người thực hiện hành vi
phạm tội do đó, việc tiến hành hai quyết định khởi tố cùng một lúc là có cơ
sở. Khi ra quyết định khởi tố bị can đối với một con người bị tình nghi thực
hiện một tội phạm thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp quyền và lợi ích hợp pháp của

13


họ. Người bị khởi tố đó có thể bị bắt để tạm giam hoặc áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác để bảo đảm cho hoạt động điều tra như khám xét nơi ở, nơi
làm việc; hoặc có thể bị tạm đình chỉ chức vụ mà họ đang đảm nhiệm; bị triệu
tập để hỏi cung và các biện pháp điều tra khác. Cho nên, việc khởi tố nói
chung và khởi tố bị can nói riêng phải hết sức thận trọng làm sao để khởi tố
đúng người đúng tội là điều quan trọng nhất.
1.2. Vị trí, nội dung hoạt động tố tụng trong khởi tố vụ án hình sự
và thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc của việc khởi tố vụ án hình sự
1.2.1. Vị trí của khởi tố vụ án hình sự trong các giai đoạn tố tụng

hình sự
Xuất phát từ các khái niệm khoa học đã được đưa ra trong phần trên về
khởi tố vụ án hình sự, chúng ta có thể nhận thức về bản chất pháp lý của nó.
Với tính chất là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của tố tụng hình sự, giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể. Khởi
tố vụ án hình sự là hoạt động đầu tiên của Nhà nước đối với hành vi phạm tội,
để thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng của Luật tố tụng hình sự
là phát hiện, điều tra và xử lý kịp thời và có căn cứ, đảm bảo xử lý đúng
người, đúng hành vi phạm tội.
Để minh chứng cho vấn đề xác định vị trí của hoạt động khởi tố vụ
án hình sự trong các giai đoạn tố tụng, có thể dẫn chứng một phát ngôn giá
trị của một chuyên gia gạo cội, đáng tin cậy trong Khoa học luật tố tụng
hình sự như sau:
Tố tụng hình sự Việt Nam được xác định như một hệ thống
các giai đoạn thực hiện các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng mà giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn kế sau và giai đoạn
kế đó là hệ quả của giai đoạn trước nó. Theo sơ đồ này, ở Việt Nam
đã hình thành một quan điểm chung về các giai đoạn tố tụng gồm:

14


Giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; giai đoạn truy tố; giai
đoạn xét xử sơ thẩm; giai đoạn xét xử phúc thẩm, giai đoạn thi hành
bản án và quyết định của Tòa án [24].
Như vậy, khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự đầu
tiên, cơ bản và quan trọng, để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do
của công dân trước khi khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của
giai đoạn điều tra, cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có
hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội. Khởi

tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu quá trình tố tụng và là giai đoạn tố tụng
độc lập bởi giai đoạn này có nhiệm vụ riêng mang đặc thù về chủ thể tố tụng,
hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Chủ thể có quyền khởi tố vụ án hình sự là
những cơ quan có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS. Trong đó, nhiệm
vụ riêng của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là xác định có hay không có dấu
hiệu tội phạm để từ đó ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.
Bên cạnh đó, hoạt động khởi tố vụ án hình sự còn tạo cơ sở pháp lý cho những
hoạt động tiếp theo.Trong đó, trước hết góp phần ngăn chặn kịp thời những sai
sót trong truy cứu hình sự ở giai đoạn điều tra tiếp theo, như điều tra không có
căn cứ đối với những hành vi không chứa đựng dấu hiệu của tội phạm hoặc
thực hiện không khách quan các biện pháp, điều tra hay ngăn chặn như khám
xét, bắt, giam giữ,… gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của cá nhân.
1.2.2. Nội dung hoạt động tố tụng trong khởi tố vụ án hình sự
Việc khởi tố vụ án hình sự kịp thời, đúng pháp luật sẽ tạo bước đi đúng
hướng cho toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, đảm bảo mọi hành vi phạm tội
đều được phát hiện nhanh chóng. Do đó, việc nắm vững các quy định của
pháp luật về hoạt động tố tụng trong khởi tố vụ án hình sự có ý nghĩa và liên
quan chặt chẽ đến việc đảm bảo pháp chế và bảo đảm một số quyền cơ bản
của công dân mà Hiến pháp đã quy định.

15


Về Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự được Bộ luật tố tụng
hình sự quy định như sau:
Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng có trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp do Bộ
luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội,
pháp nhân phạm tội. Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ

và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định.
Các nội dung của hoạt động khởi tố vụ án hình sự đó lần lượt được quy
định một cách cụ thể, đầy đủ như sau:
Về Căn cứ khởi tố vụ án hình sự, theo quy định tại Điều 100 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003, thì chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu
tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên 5 căn cứ, bao gồm:
Thứ nhất là dựa vào tố giác của công dân, đó là việc công dân tố cáo
hành vi vi phạm pháp luật của một người nào đó mà họ cho rằng là tội
phạm. Việc tố giác của công dân này có thể thực hiện bằng bất cứ phương
tiện thông tin nào (có thể bằng miệng, bằng văn bản hoặc bằng các hình
thức khác), và cũng không nhất thiết phải tố giác trực tiếp đến cơ quan điều
tra, viện kiểm sát hay tòa án mà có thể tố giác đến bất cứ cơ quan, tổ chức
nào thuận tiện nhất. Tuy nhiên, dù việc tố giác thực hiện bằng hình thức
nào, thì khi tiếp nhận các thông tin này, các cơ quan chức năng không chỉ
lập biên bản hoặc vào sổ ghi nhận về sự việc được tố giác, mà còn yêu cầu
người tố giác ký xác nhận hoặc được ghi lại họ, tên, địa chỉ và số điện thoại
của người tố giác. Với quy định như vậy, có thể thấy ưu điểm của nó là làm
cho cá nhân ý thức hơn về trách nhiệm đảm bảo sự thật của mình đối với
nội dung tố giác, mặt khác giúp các cơ quan chức năng dễ dàng liên hệ để
thu thập thông tin và xác minh thêm thông tin khi cần thiết. Nhưng một

16


thực tế đáng ngại diễn ra hiện nay là, tình trạng người tố giác bị trù dập, trả
thù sau khi thực hiện hành vi tố giác đang diễn ra nhức nhối ở nhiều địa
phương, do sự cấu kết của tội phạm với các cơ quan nhà nước. Vì vậy, với
quy định trên đã làm giảm đi “năng lượng” và nhiệt huyết của cá nhân
trong phong trào toàn dân cùng đấu tranh chống tội phạm. Thiết nghĩ, nên
chăng ngoài việc quy định về thông tin cá nhân của người tố giác thì cần có

thêm quy định về trách nhiệm và chế tài của người có thẩm quyền và cơ
quan nhà nước khi làm lộ thông tin cá nhân của người tố giác.
Căn cứ thứ hai, là dựa vào tin báo của cơ quan, tổ chức. Tin báo của cơ
quan, tổ chức là những thông tin về tội phạm do các cơ quan, tổ chức phát
hiện hoặc nhận được tố giác của cá nhân và báo cáo bằng văn bản đối với cơ
quan điều tra. Nếu như tố giác của cá nhân chỉ là việc báo tin của họ về tội
phạm với bất cứ cá nhân nào và bằng bất cứ hình thức nào thì tin báo đòi hỏi
thêm những điều kiện chặt chẽ hơn, thể hiện ở chỗ tin báo là việc báo tin về
tội phạm của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân chỉ với cơ quan điều tra và phải
bằng văn bản. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 tại Điều 101 thì tin báo
của cơ quan, tổ chức gồm hai loại:
Một là, cơ quan, tổ chức phát hiện ra các thông tin về tội phạm và báo
tin cho cơ quan có thẩm quyền để nhanh chóng kiểm tra, xác minh phát hiện
tội phạm.
Hai là, cơ quan, tổ chức tiếp nhận tố giác tội phạm của công dân và báo
tin bằng văn bản cho cơ quan điều tra có thẩm quyền.
BLTTHS chưa đưa ra khái niệm để phân biệt tố giác với tin báo về tội
phạm. Thông qua quy định của BLTTHS thì tố giác và tin báo về tội phạm
khác nhau ở yếu tố chủ thể (chủ thể của tố giác là công dân, chủ thể của tin
báo là cơ quan, tổ chức) và hình thức báo tin (công dân có thể tố giác dưới
nhiều hình thức khác nhau nhưng cơ quan, tổ chức thì phải báo tin cho cơ
quan điều tra có thẩm quyền bằng văn bản).

17


×