Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Các chế độ trợ cấp cho người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.12 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HÀ THỊ THỦY

CÁC CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
KHI CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2018

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HÀ THỊ THỦY

CÁC CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
KHI CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành:

Luật Kinh tế

Mã số:


8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hữu Chí

HÀ NỘI – 2018

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Hà Thị Thủy

3


MỤC LỤC


MỤC LỤC........................................................................................................4

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật lao động

:

BLLĐ

Bảo hiểm xã hội

:

BHXH

Bảo hiểm thất nghiệp

:

BHTN

Hợp đồng lao động

:

HĐLĐ

Người lao động

:


NLĐ

Người sử dụng lao động

:

NSDLĐ

Quan hệ lao động

:

QHLĐ

Xã hội chủ nghĩa

:

XHCN

4


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tình hình tham gia và thu bảo hiểm thất nghiệp
Bảng 2.2: Tình hình người lao động hưởng trợ cấp thất nghiệp
Bảng 2.3: Tình hình chi trả trợ cấp thất nghiệp

5



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việc làm là một trong những vấn đề được Nhà nước và toàn xã hội đặc biệt
quan tâm. Pháp luật lao động không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NLĐ
trong giao kết, thực hiện HĐLĐ mà còn quy định các chế độ trợ cấp khi HĐLĐ bị
chấm dứt. Khi chấm dứt HĐLĐ, NLĐ thường đứng trước nguy cơ thất nghiệp và lo
lắng khi việc làm không còn, đồng nghĩa với không có thu nhập trang trải cuộc sống
và chăm sóc người thân. Nhằm hỗ trợ NLĐ khi thôi việc, mất việc làm, pháp luật
lao động cần thiết phải có quy định về trách nhiệm của NSDLĐ chi trả trợ cấp thôi
việc và trợ cấp mất việc làm, cơ quan nhà nước chi trả trợ cấp cho NLĐ khi chấm
dứt HĐLĐ. Những quy định đó cơ bản đã đi vào thực tiễn, phát huy được vai trò to
lớn trong việc tạo lập hành lang, chuẩn mực pháp lý cho các chủ thể thiết lập và tiến
hành QHLĐ; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ ngay cả khi bị chấm dứt
HĐLĐ, đóng góp ý nghĩa to lớn vào chính sách an sinh xã hội của quốc gia.
Khi HĐLĐ bị chấm dứt, pháp luật đã và đang bảo vệ NLĐ thông qua các
quy định đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho NLĐ được hưởng các chế độ trợ
cấp. Các chế độ trợ cấp này có ý nghĩa quan trọng cả về vật chất lẫn tinh thần, giúp
NLĐ sớm ổn định cuộc sống khi thay đổi công việc, thuận lợi hơn khi tìm kiếm
việc làm mới, đồng thời thể hiện sự bù đắp, quan tâm của NSDLĐ đối với NLĐ, khi
NLĐ đã cống hiến sức lao động trong thời gian làm việc. Đồng thời, chính sách này
cũng thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với đội ngũ đông đảo NLĐ. Các quy
định pháp luật đã từng bước thể hiện rõ nét, tạo cơ chế tiến bộ để bảo vệ và phát
huy vai trò của NLĐ. Tuy nhiên, không thể phủ nhận việc thực thi, áp dụng các quy
định pháp luật trên thực tế chưa đảm bảo tối đa quyền lợi mà NLĐ đáng lẽ được
hưởng. Một bộ phận NSDLĐ thường đặt lợi ích của mình lên trên hết, tìm mọi cách

6



cắt giảm tối đa chi phí, trong đó có khoản trợ cấp khi chấm dứt HĐLĐ, dẫn đến vi
phạm và không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ. Chính điều đó đã làm
giảm vai trò, hiệu lực của pháp luật cũng như kết quả đem lại cho đời sống xã hội.
Qua thực tế hơn 05 năm thi hành BLLĐ năm 2012, nội dung và thực trạng
thi hành các chế độ trợ cấp đối với NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ cần được quan tâm
làm rõ, từ đó có thể xác định được nguyên nhân chủ yếu dẫn đến vi phạm, cơ chế
xử lý đối với các vi phạm đó, đưa ra được các phương hướng, giải pháp cụ thể để
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu lực thi hành. Hiện nay, trong giới khoa học
pháp lý đã có một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề trợ cấp cho NLĐ,
tuy nhiên những công trình nghiên cứu về nội dung và thực trạng thi hành các chế
độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ chưa được đề cập một cách hệ thống và rõ
ràng, do đó việc nghiên cứu về các chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ là
cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến vấn đề các chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ theo
pháp luật Việt Nam, hiện nay có một số công trình khoa học có nội dung liên quan
như sau:
Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2016 của tác giả Lữ Bỉnh Huy tại Trường Đại
học Luật Hà Nội, nghiên cứu đề tài “Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn
thi hành tại thành phố Hồ Chí Minh” và Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2016 của
tác giả Nguyễn Ngọc Huyền tại Trường Đại học Luật Hà Nội, nghiên cứu đề tài
“Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp theo Luật việc làm năm 2013”. Hai công trình
trên tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về BHTN, pháp luật về BHTN và
các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về BHTN. Luận văn mới chỉ tập
trung làm rõ các vấn đề chung về trợ cấp thất nghiệp mà chưa đi sâu, phân tích và
hệ thống hóa chế độ trợ cấp thất nghiệp cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ. Ngoài ra,
vấn đề trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ cũng được đề cập trong các bài viết,
các công trình nghiên cứu khoa học khác. Một số bài viết chuyên sâu cần kể đến


7


như: bài viết của PGS.TS Lê Thị Hoài Thu về đề tài “Trợ cấp thôi việc trong pháp
luật lao động Việt Nam” đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 3/2010, đề tài
tập trung nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của chế độ trợ cấp thôi
việc; các quy định pháp luật Việt Nam về trợ cấp thôi việc. Bài viết “Quy định về
bảo hiểm thất nghiệp trong Công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và một
số nước trên thế giới” của PGS.TS Lê Thị Hoài Thu đăng trên Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 6/2006. Bài viết của ThS. Đỗ Thị Dung về đề tài “Pháp luật bảo hiểm
thất nghiệp sau 3 năm thực hiện ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí Luật học số 9/2012,
bài viết phân tích, đánh giá các quy định pháp luật về BHTN qua 3 năm thi hành;….
Các bài viết vừa nêu được viết trước khi ban hành BLLĐ năm 2012 và mới chỉ làm
rõ được một số vấn đề lý luận, chưa phản ánh được thực trạng các chế độ trợ cấp
cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ theo quy định của pháp luật lao động hiện hành.
Như vậy, đến nay chưa có một công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu
và tổng thể, hệ thống hóa được cơ sở lý luận, thực trạng quy định của pháp luật và
định hướng hoàn thiện chế định riêng về các chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt
HĐLĐ theo pháp luật Việt Nam. Với tính mới, tính cấp thiết đã đề cập, tác giả nhận
thấy nên và cần lựa chọn đề tài “Các chế độ trợ cấp cho người lao động khi chấm
dứt hợp đồng lao động theo pháp luật Việt Nam” để viết Luận văn thạc sĩ trong
giai đoạn hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà Luận văn đặt ra, tác
giả sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin, được vận
dụng vào lý giải các vấn đề lý luận và pháp lý về các chế độ trợ cấp cho NLĐ khi
chấm dứt HĐLĐ theo pháp luật Việt Nam. Việc nghiên cứu trước hết làm rõ các vấn
đề lý luận, từ đó phân tích làm rõ luật thực định và việc thực thi pháp luật để hệ
thống hóa, đưa ra định hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề các chế độ trợ cấp cho
NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ theo pháp luật Việt Nam.


8


Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp,
lịch sử, so sánh, thống kê, …vv. Các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành cũng
được sử dụng gồm: phương pháp phân loại pháp lý, phương pháp so sánh pháp luật,
phương pháp hệ thống hóa, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích quy phạm.
4. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn gồm: hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý
luận về các chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ; phân tích làm rõ thực
trạng quy định pháp luật về các chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ theo
pháp luật Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó, đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện
quy định về các chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ.
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật Việt Nam về các
chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ trong sự phân tích và so sánh với các
chế độ trợ cấp của một số quốc gia trên thế giới.
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn gồm: khái quát chung về ba chế độ trợ cấp
cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ theo pháp luật Việt Nam gồm: chế độ trợ cấp thôi
việc, chế độ trợ cấp mất việc làm và chế độ trợ cấp thất nghiệp; thực trạng pháp luật
về các chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ; những vấn đề pháp lý tiếp tục
cần được nghiên cứu và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về các chế độ trợ cấp
cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có
kết cấu gồm ba Chương như sau:
-

Chương 1: Cơ sở lý luận về các chế độ trợ cấp cho người lao động khi

chấm dứt hợp đồng lao động.

-

Chương 2: Thực trạng pháp luật về các chế độ trợ cấp cho người lao động
khi chấm dứt hợp đồng lao động.

9


-

Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về các chế độ trợ cấp cho người lao động
khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật Việt Nam.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP CHO NGƯỜI
LAO ĐỘNG KHI CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
1.1.

Khái quát chung về các chế độ trợ cấp cho người lao động

1.1.1. Khái niệm các chế độ trợ cấp cho người lao động
Vấn đề việc làm đã và đang là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà
nước đặc biệt quan tâm và có nhiều chế độ, chính sách thực hiện trong thời gian vừa
qua. Giải quyết tốt việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn
định và phát triển kinh tế, làm cho đất nước giàu mạnh. Pháp luật lao động Việt
Nam đã tạo lập được một hành lang pháp lý tương đối rõ ràng, nhằm đảm bảo cân
bằng giữa quyền và nghĩa vụ của NLĐ và NSDLĐ, đồng thời có những quy định
đặc biệt nhằm bảo vệ bên yếu thế trong QHLĐ là NLĐ từ khi giao kết đến khi chấm
dứt HĐLĐ. Khi các bên chấm dứt QHLĐ theo quy định pháp luật thì NLĐ sẽ được

NSDLĐ chi trả trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc làm tùy vào từng trường hợp
cụ thể, còn Nhà nước, cụ thể cơ quan BHXH có trách nhiệm chi trả trợ cấp thất
nghiệp nếu NLĐ có đủ các điều kiện theo quy định. Đây là một trong những chính
sách nhận được sự ủng hộ từ phía NLĐ, thể hiện tính nhân văn trong xã hội khi
NLĐ đã cống hiến sức lao động của mình cho mục đích sinh lợi của NSDLĐ trong
quá trình dài làm việc.
1.1.1.1. Khái niệm trợ cấp thôi việc
Tính đến thời điểm hiện tại chưa có một văn bản nào giải thích rõ ràng khái
niệm trợ cấp thôi việc. Việc nhận biết các trường hợp được hưởng trợ cấp thôi việc
phụ thuộc vào cách phân loại được quy định tại BLLĐ năm 2012. Theo từ điển
tiếng Việt “trợ cấp” có nghĩa là giúp đỡ những người khó khăn, thiếu thốn. Khi
HĐLĐ bị chấm dứt thì QHLĐ giữa NLĐ và NSDLĐ cũng chấm dứt theo, tức NLĐ

10


sẽ không được nhận lương và các khoản phụ cấp (nếu có) từ NSDLĐ nữa, khi đó
NLĐ sẽ rơi vào tình trạng khó khăn cả về tài chính và tinh thần. Trước thực tại đó,
pháp luật lao động đã góp phần giải quyết khó khăn trước mắt cho NLĐ thông qua
khoản trợ cấp mà NLĐ sẽ được hưởng. Cũng theo từ điển tiếng Việt, “thôi việc” có
nghĩa là nghỉ việc, không làm việc cho NSDLĐ nữa hay hiểu theo cách khác là
NLĐ và NSDLĐ chấm dứt QHLĐ. Tại bài viết “Trợ cấp thôi việc trong pháp luật
lao động Việt Nam” của Lê Thị Hoài Thu định nghĩa trợ cấp thôi việc như sau:
“Trợ cấp thôi việc là khoản tiền mà NSDLĐ trả cho NLĐ thôi việc sau khi họ đã
làm việc cho doanh nghiệp một thời gian nhất định” [14, tr.51]. Định nghĩa trên
mới chỉ đề cập tới chủ thể nhận, chủ thể chi trả và điều kiện hưởng trợ cấp thôi việc
mà chưa đề cập đến nguồn kinh phí dùng để chi trả trợ cấp thôi việc, cũng như mục
đích của chế độ trợ cấp này. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp khoa năm 2014 của tác
giả Trần Viết Long tại Trường Đại học Luật – Đại học Huế, nghiên cứu đề tài “ Trợ
cấp thôi việc cho người lao động và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thừa Thiên Huế”

định nghĩa như sau: “trợ cấp thôi việc là khoản tiền của NSDLĐ trả cho NLĐ thuộc
quyền quản lý khi NLĐ thôi việc theo các trường hợp đã có quy định của pháp luật
như: mãn hạn hợp đồng, người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng một cách
hợp pháp, NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ không phải vì lý do NLĐ phạm lỗi
nặng bị sa thải” [11, tr.7]. Định nghĩa đã đề cập tới đối tượng chi trả, đối tượng
hưởng và điều kiện hưởng trợ cấp thôi việc, tuy nhiên cách liệt kê các trường hợp
thôi việc như trên của tác giả vừa dài dòng, vừa chưa đầy đủ các trường hợp chấm
dứt HĐLĐ để làm cơ sở cho NLĐ được hưởng trợ cấp thôi việc. Mặt khác, cụm từ
“thuộc quyền quản lý” là không cần thiết, bởi lẽ HĐLĐ được giao kết giữa NLĐ và
NSDLĐ đã bao hàm yếu tố sự phụ thuộc pháp lý của NLĐ đối với NSDLĐ, do đó
tác giả không cần thiết cho cụm từ này trong định nghĩa về trợ cấp thôi việc, đảm
bảo định nghĩa ngắn gọn, bao quát mà vẫn đầy đủ.
Để xác định chính xác và hợp lý về trợ cấp thôi việc, tác giả đưa ra một vài
dấu hiệu cơ bản về thôi việc như sau:

11


Thứ nhất, thôi việc có nghĩa là nghỉ việc, tức NLĐ chấm dứt QHLĐ với
NSDLĐ, chấm dứt quyền và nghĩa vụ theo quy định tại HĐLĐ.
Thứ hai, thôi việc đồng nghĩa với việc NLĐ không được nhận lương và các
khoản bổ sung (nếu có), khi đó NLĐ có thể sẽ gặp khó khăn do không có thu nhập.
Thứ ba, thôi việc có thể do ý chí của hai bên hoặc do ý chí của một trong hai
bên là NLĐ hoặc NSDLĐ hoặc do ý chí người thứ ba. HĐLĐ chấm dứt do ý chí của
hai bên là: hết hạn HĐLĐ; đã hoàn thành công việc theo HĐLĐ; hai bên thoả thuận
chấm dứt HĐLĐ. Trường hợp chấm dứt HĐLĐ này thường không gây hậu quả
phức tạp về mặt pháp lý cũng như ít xảy ra tranh chấp. HĐLĐ chấm dứt do ý chí
của một bên (đơn phương chấm dứt HĐLĐ) tức phụ thuộc vào ý chí của một bên
chủ thể là NLĐ hoặc NSDLĐ, nhưng được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực
hiện. HĐLĐ chấm dứt do ý chí người thứ ba thường là của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền (Tòa án nhân dân).
Từ những định nghĩa và các dấu hiệu nhận biết cơ bản trên, tác giả định
nghĩa trợ cấp thôi việc như sau: trợ cấp thôi việc là khoản tiền NSDLĐ chi trả cho
NLĐ từ nguồn kinh phí của NSDLĐ khi chấm dứt HĐLĐ theo quy định pháp luật,
nhằm giúp NLĐ giải quyết một phần khó khăn khi không có thu nhập để ổn định
đời sống, tìm kiếm công việc mới.
1.1.1.2. Khái niệm trợ cấp mất việc làm
Tương tự như trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm cũng không được định
nghĩa rõ ràng tại BLLĐ cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành. Để nhận biết rõ
về trợ cấp mất việc làm, tác giả đưa ra một vài dấu hiệu cơ bản về mất việc làm như
sau:
Thứ nhất, mất việc làm có nghĩa là NLĐ bị mất việc, không tiếp tục được
làm việc cho NSDLĐ đó nữa.
Thứ hai, khi bị mất việc làm, NLĐ sẽ không được nhận lương, mất đi một
nguồn thu nhập chính cho cuộc sống hàng ngày.

12


Thứ ba, nguyên nhân NLĐ bị mất việc làm là do NSDLĐ tiến hành thay đổi
cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc NSDLĐ sáp nhập, hợp nhất, chia, tách
doanh nghiệp mà buộc NSDLĐ phải chấm dứt HĐLĐ với NLĐ. Trong trường hợp
này cả hai bên đều không mong muốn phải chấm dứt HĐLĐ, nhưng vì một trong
các lý do trên, NSDLĐ buộc phải cho NLĐ nghỉ việc để giảm bớt chi phí, duy trì
hoạt động kinh doanh của mình. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa thôi việc và mất
việc làm. Nếu thôi việc là do ý chí của cả hai bên hoặc một bên mong muốn được
nghỉ việc thì mất việc làm xuất phát từ lý do đặc biệt mà NSDLĐ không mong
muốn xảy ra.
Như vậy, từ những dấu hiệu nhận biết cơ bản trên, tác giả đưa ra khái niệm
trợ cấp mất việc làm như sau: Trợ cấp mất việc làm là khoản tiền NSDLĐ chi trả

cho NLĐ từ nguồn kinh phí của NSDLĐ khi NSDLĐ tiến hành thay đổi cơ cấu,
công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh
nghiệp, hợp tác xã mà buộc phải cho NLĐ nghỉ việc theo quy định pháp luật.
1.1.1.3. Khái niệm trợ cấp thất nghiệp
Hiện nay, thất nghiệp vẫn đang là một vấn đề quan trọng luôn được Nhà
nước quan tâm giải quyết, tỷ lệ thất nghiệp ngày càng tăng do nền kinh tế ngày càng
khó khăn và cạnh tranh khốc liệt hoặc do chính bản thân NLĐ. Thất nghiệp gây ảnh
hưởng đến các vấn đề an ninh, ổn định xã hội, đồng thời phá vỡ chính sách việc làm
mà Nhà nước và pháp luật lao động đang cố gắng hoàn thiện. Theo “Thông cáo báo
chí tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm 2017” của Tổng cục thống kê thì tỷ lệ
thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2,26%, trong đó khu vực thành thị là
3,19%; khu vực nông thôn là 1,79%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24
tuổi) là 7,63%, trong đó khu vực thành thị là 11,99%; khu vực nông thôn là 5,96%.
Căn cứ vào số liệu trên, tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta hiện vẫn còn khá cao, ảnh hưởng
trực tiếp đến các vấn đề xã hội trong cả nước. Thất nghiệp là một vấn đề xã hội gay
gắt không chỉ có ở Việt Nam mà xảy ra ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, khi đã
là một vấn đề xã hội thì Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo trong việc giải quyết

13


thất nghiệp, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy thị trường lao động và
nền kinh tế phát triển.
Hiện nay, trong các văn bản pháp luật của Việt Nam chưa có điều khoản giải
thích thất nghiệp, trợ cấp thất nghiệp là gì. Tại khoản 4 điều 3 Luật việc làm năm
2013 giải thích “Bảo hiểm thất nghiệp là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập
của người lao động khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì
việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp”. Khái niệm
BHTN tại Luật việc làm năm 2013 mới đề cập đến mục đích của BHTN, trong đó
có chế độ trợ cấp thất nghiệp là nhằm bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi bị

mất việc làm. Để làm rõ bản chất của thất nghiệp và người thất nghiệp, Tổ chức lao
động quốc tế (ILO – International Labour Organization) đã thông qua công ước số
102 ngày 28 tháng 6 năm 1952 về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội, tại Điều 20
công ước đưa ra những dấu hiệu thất nghiệp như sau: thất nghiệp là tình trạng gián
đoạn thu nhập, xảy ra do không thể có được một công việc thích hợp, trong tình
hình NLĐ có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc. Dấu hiệu này mang tính khái
quát và được nhiều quốc gia trên thế giới tán thành, đưa vào áp dụng.
Xuất phát từ dấu hiệu nhận biết thất nghiệp của ILO, pháp luật một số nước
trên thế giới đã đưa ra khái niệm người thất nghiệp áp dụng trong phạm vi quốc gia.
Ở Pháp, người thất nghiệp được hiểu là người có đủ điều kiện để làm việc nhưng
không có việc làm và đang tìm việc làm. Luật Bảo hiểm thất nghiệp của Đức định
nghĩa: “Người thất nghiệp là NLĐ tạm thời không có QHLĐ hoặc chỉ thực hiện
công việc ngắn hạn”. Hay điều 5 Luật Bảo hiểm xã hội Thái Lan quy định: “Thất
nghiệp là một người được bảo hiểm ngừng việc do sự chấm dứt các quan hệ pháp lý
giữa một NSDLĐ và một NLĐ theo sự thuê mướn của hợp đồng các dịch vụ”. Tại
bài viết “Sự cần thiết xây dựng chế độ trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam” của Thạc sỹ
Lê Thị Hoài Thu đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 3 năm 2000 đã đưa ra
dấu hiệu nhận biết thất nghiệp như sau: “thất nghiệp là hiện tượng những người
mất nguồn thu nhập do mất việc làm khi họ còn: trong độ tuổi lao động, có khả
năng lao động, muốn làm việc và đã đăng ký ở cơ quan môi giới về lao động để tìm

14


việc làm nhưng chưa được giải quyết”. Căn cứ vào các dấu hiệu thất nghiệp trên, có
thể khái quát lại người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, hiện chưa có
việc làm nhưng mong muốn và đang tìm kiếm việc làm. Theo đó, một người được
xem là thất nghiệp khi họ có đủ hai điều kiện: (1) không có việc làm; (2) mong
muốn và đang tìm kiếm việc làm, nếu chỉ xét dưới góc độ có việc làm hay không thì
không thể coi là thất nghiệp và e rằng tỷ lệ thất nghiệp trên không chỉ dừng lại ở

con số đó.
Từ những dấu hiệu nhận biết về thất nghiệp và người thất nghiệp theo quan
điểm của ILO và một số nước trên thế giới, tác giả đưa ra khái niệm trợ cấp thất
nghiệp như sau: Trợ cấp thất nghiệp là khoản tiền do cơ quan Bảo hiểm xã hội chi
trả cho NLĐ từ nguồn Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, nhằm bù đắp một phần thu nhập
cho NLĐ khi bị mất việc làm mà NLĐ mong muốn và đang tìm kiếm việc làm.
1.1.2. Đặc điểm các chế độ trợ cấp cho người lao động

Từ việc đưa ra khái niệm ba chế độ trợ cấp cho NLĐ tại mục 1.1.2 trên, tác
giả tìm hiểu nội dung của các chế độ trợ cấp để đưa ra những dấu hiệu cơ bản phân
biệt được ba chế độ trợ cấp.
Thứ nhất, đối tượng hưởng các chế độ trợ cấp là NLĐ làm việc cho NSDLĐ
theo HĐLĐ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 BLLĐ năm 2012 giải thích: “NLĐ
là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo HĐLĐ, được trả
lương và chịu sự quản lý, điều hành của NSDLĐ”. NLĐ tham gia QHLĐ thông qua
HĐLĐ được ký kết với NSDLĐ, NLĐ chịu sự quản lý của NSDLĐ, thực hiện đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận và được NSDLĐ trả lương và các chế độ
trợ cấp. Thông qua HĐLĐ, quyền và nghĩa vụ của các bên được thực hiện đầy đủ,
khi HĐLĐ được chấm dứt, NLĐ tùy từng trường hợp sẽ được hưởng chế độ trợ cấp
tương ứng, phù hợp với điều kiện của mình.
Thứ hai, điều kiện hưởng các chế độ trợ cấp là: NLĐ sẽ không được hưởng
các chế độ trợ cấp nếu NLĐ là bên đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật. Nhà
nước và NSDLĐ tạo điều kiện cho NLĐ được làm việc, có thu nhập và phát triển

15


bản thân trong quá trình thực hiện HĐLĐ. Tuy nhiên, nếu NLĐ là bên chủ ý đơn
phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật thì phải tự gánh chịu những hậu quả phát
sinh; đồng thời tất yếu Nhà nước và NSDLĐ sẽ không phải có trách nhiệm hỗ trợ

hoặc giúp đỡ NLĐ khi HĐLĐ bị chấm dứt trái pháp luật do lỗi của chính NLĐ.
Thực vậy, khi NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật, họ đã gây ảnh
hưởng, thiệt hại ít nhiều đến hoạt động của NSDLĐ, bởi vậy, chính NSDLĐ mới là
bên chịu thiệt trong QHLĐ nên pháp luật không cần và không thể quy định NSDLĐ
phải chi trả trợ cấp cho NLĐ. Ngoài ra, pháp luật lao động và HĐLĐ là cơ sở pháp
lý để hình thành và duy trì QHLĐ, bảo đảm quyền lợi cho các bên. Nếu NLĐ chủ ý
và có lỗi khi vi phạm pháp luật để chấm dứt HĐLĐ thì mặc nhiên được hiểu là họ
đã đơn phương khước từ sự bảo đảm và bảo vệ từ Nhà nước đối với QHLĐ bị chấm
dứt và ngược lại, Nhà nước sẽ không khuyến khích và không thể để NLĐ được
hưởng trợ cấp phát sinh từ hành vi trái pháp luật của họ, từ đó, việc không cho
hưởng trợ cấp mang ý nghĩa là một biện pháp hay một chế tài để ngăn ngừa NLĐ
đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật.
Thứ ba, mục đích của các chế độ trợ cấp nhằm trợ giúp một phần vật chất
cho NLĐ khi họ nghỉ việc, không có việc làm. Khi NLĐ thôi việc, mất việc làm sẽ
không có thu nhập, đôi khi tiền lương từ công việc lại là nguồn thu nhập chính của
gia đình NLĐ. Đứng trước nguy cơ không có việc làm, NLĐ sẽ gặp khó khăn về tài
chính, cuộc sống bản thân và gia đình ít nhiều bị ảnh hưởng. Các chế độ trợ cấp sẽ
giúp NLĐ vượt qua khó khăn trước mắt, khi NLĐ không có việc làm nhưng vẫn có
thu nhập trong giai đoạn đầu để yên tâm tìm kiếm việc làm mới. Ngoài ra, việc quy
định chế độ trợ cấp cho NLĐ còn thể hiện sự bù đắp cho NLĐ khi đã cống hiến sức
lao động của mình cho NSDLĐ, sự cống hiến đó cần phải được đền đáp khi NLĐ
không còn tham gia QHLĐ nữa.
1.1.3. Nội dung các chế độ trợ cấp cho người lao động

Từ khái niệm và đặc điểm cơ bản của các chế độ trợ cấp cho NLĐ được trình
bày ở trên, chúng ta thấy được bản chất các chế độ là một khoản tiền được chi trả

16



cho NLĐ khi HĐLĐ được chấm dứt. Tùy từng chế độ trợ cấp khác nhau mà khoản
tiền chi trả cũng có ý nghĩa và mục đích khác nhau. Nhận thấy sau khi HĐLĐ chấm
dứt, NLĐ không có thu nhập đó là một khó khăn của NLĐ, pháp luật một số nước
trên thế giới đã sớm ban hành những quy định về chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm
dứt HĐLĐ như Philipin,… Đặc biệt, chế độ trợ cấp thất nghiệp sớm được nhiều
nước trên thế giới quan tâm, ILO đã ban hành Công ước số 44 năm 1934 về BHTN
áp dụng cho mọi NLĐ được trả tiền lương. Một số nước có nền luật pháp lâu đời
như Pháp, Đức đã sớm quan tâm và đưa ra chính sách về chế độ trợ cấp thất nghiệp
cho NLĐ. Từ thực tế trên, pháp luật lao động Việt Nam cũng đã quan tâm tới NLĐ
khi chấm dứt HĐLĐ bằng việc quy định các chế độ trợ cấp.
Nội dung các chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ được quy định cụ
thể về:
Thứ nhất, đối tượng hưởng trợ cấp là NLĐ làm việc theo HĐLĐ được phân
tích như mục 1.1.2 của Luận văn. Không phải NLĐ nào cũng được hưởng trợ cấp
mà căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, NLĐ đáp ứng đủ quy định pháp luật sẽ được
hưởng chế độ trợ cấp tương ứng.
Thứ hai, đối tượng chi trả các chế độ trợ cấp cho NLĐ: các chế độ trợ cấp
khác nhau sẽ thuộc phạm vi đối tượng chi trả khác nhau. Chế độ trợ cấp thôi việc và
chế độ trợ cấp mất việc làm do NSDLĐ chi trả, hai chế độ trợ cấp này hoàn toàn lấy
từ kinh phí của NSDLĐ không có sự tham gia đóng góp từ phía NLĐ. Đó là khoản
tiền NSDLĐ bù đắp, hỗ trợ NLĐ tìm kiếm việc làm mới sau khi chấm dứt HĐLĐ.
Trong khi đó, chế độ trợ cấp thất nghiệp được chi trả bởi cơ quan BHXH, lấy kinh
phí từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp có sự tham gia đóng góp của cả NLĐ, NSDLĐ và
Nhà nước. Nó được xem là khoản tiền thay thế tiền lương cho NLĐ trong những
ngày bị mất việc làm. Như vậy, căn cứ vào đối tượng chi trả các chế độ trợ cấp
chúng ta có thể phân biệt được giữa chế độ trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm
với chế độ trợ cấp thất nghiệp.

17



Thứ ba, điều kiện hưởng các chế độ trợ cấp. Mỗi chế độ trợ cấp sẽ có những
điều kiện bắt buộc NLĐ phải đáp ứng đủ mới được hưởng trợ cấp. Việc quy định
điều kiện hưởng trợ cấp không phải gây khó khăn cho NLĐ mà nhằm đảm bảo việc
chi trả trợ cấp đúng đối tượng. Chỉ NLĐ đủ điều kiện theo luật định, thật sự có công
sức đóng góp mới đủ điều kiện được hưởng trợ cấp.
Thứ tư, quy định mức hưởng trợ cấp. Mỗi một chế độ trợ cấp được quy định
một mức hưởng khác nhau theo tỷ lệ nhất định, đảm bảo mọi NLĐ có đủ điều kiện
như nhau đều được hưởng ở mức như nhau. Pháp luật ấn định một tỷ lệ hưởng nhất
định, dựa trên tiền lương quy định tại HĐLĐ, làm cơ sở để tính tiền trợ cấp mà
NLĐ được hưởng. Việc quy định mức hưởng như vậy tạo thuận lợi cho NSDLĐ và
cơ quan BHXH trong việc chi trả trợ cấp, NLĐ thuộc trường hợp được hưởng sẽ áp
dụng luôn mức hưởng ấn định để tính tiền chi trả, đảm bảo độ chính xác cao.
Thứ năm, trình tự, thủ tục chi trả các chế độ trợ cấp cho NLĐ. Các chế độ trợ
cấp do các đối tượng chi trả khác nhau, nên trình tự, thủ tục chi trả cũng có sự khác
nhau rõ rệt giữa chế độ trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm với chế độ trợ cấp
thất nghiệp. Về cơ bản nếu NLĐ đáp ứng đủ điều kiện, hồ sơ theo quy định thì thủ
tục chi trả các chế độ trợ cấp đều nhanh gọn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho NLĐ.
Thứ năm, các biện pháp bảo đảm thực hiện các chế độ trợ cấp cho NLĐ. Để
các bên trong QHLĐ thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, ngoài việc quy định chi tiết
về cách thức thực hiện các chế độ trợ cấp, pháp luật cũng quy định các biện pháp
đảm bảo NSDLĐ thực hiện tốt trách nhiệm của mình. Các biện pháp được đưa ra là:
xử lý vi phạm hành chính, giải quyết tranh chấp lao động với mục đích răn đe,
khuyến khích các bên tự giác thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình theo quy
định pháp luật. Những biện pháp này được phân tích cụ thể tại Chương 2 của Luận
văn.
1.1.4. Phân loại các chế độ trợ cấp cho người lao động
Để phân biệt và tìm hiểu cụ thể nội dung từng chế độ trợ cấp cho NLĐ khi
chấm dứt HĐLĐ, tác giả phân loại các chế độ trợ cấp căn cứ theo các tiêu chí sau:


18


Thứ nhất, căn cứ vào các trường hợp được liệt kê trong BLLĐ năm 2012 và
Luật việc làm năm 2013 có thể chia các chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt
HĐLĐ thành ba chế độ trợ cấp như sau: trợ cấp thôi việc (điều 48 BLLĐ năm
2012); trợ cấp mất việc làm (điều 49 BLLĐ năm 2012) và trợ cấp thất nghiệp.
Thứ hai, căn cứ vào chủ thể và nguồn kinh phí chi trả các chế độ trợ cấp, tác
giả phân loại thành hai nhóm như sau:
+ Chế độ trợ cấp do NSDLĐ chi trả từ nguồn kinh phí của NSDLĐ gồm: trợ
cấp thôi việc và trợ cấp mất việc làm. Hai chế độ trợ cấp này được pháp luật lao
động quy định thuộc trách nhiệm của NSDLĐ. Khi HĐLĐ được chấm dứt, nếu
NLĐ đủ điều kiện theo quy định pháp luật, NSDLĐ phải chi trả một khoản tiền
được lấy từ kinh phí hoạt động của mình cho NLĐ.
+ Chế độ trợ cấp do Cơ quan BHXH chi trả từ nguồn Quỹ bảo hiểm thất
nghiệp là trợ cấp thất nghiệp. Trong quá trình thực hiện HĐLĐ, NLĐ và NSDLĐ có
nghĩa vụ tham gia và đóng BHTN theo một tỷ lệ nhất định được pháp luật quy định,
góp phần hình thành Quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Khi NLĐ có đủ điều kiện hưởng trợ
cấp thất nghiệp theo quy định, cơ quan BHXH sẽ tiến hành chi trả trợ cấp thất
nghiệp cho NLĐ từ nguồn Quỹ bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật.
1.1.5.

Vai trò của các chế độ trợ cấp cho người lao động khi chấm dứt hợp đồng

lao động
Mỗi quy định pháp luật được ban hành nhằm bảo đảm quyền lợi dành cho
NLĐ khi tham gia QHLĐ đều được cân nhắc cẩn trọng và có ý nghĩa thiết thực với
chính NLĐ. Nhận thấy tầm quan trọng đặc biệt của một bên chủ thể trong QHLĐ,
pháp luật lao động nước ta đã có những quy định riêng về chế độ trợ cấp cho NLĐ
khi chấm dứt HĐLĐ, những quy định này có vai trò quan trọng như sau:

Thứ nhất, đối với NLĐ: các chế độ trợ cấp khi NLĐ chấm dứt HĐLĐ nhằm
trợ giúp, bù đắp sự cống hiến sức lực của NLĐ trong suốt quá trình làm việc cho
NSDLĐ. Cái quý giá nhất ở mỗi NLĐ là sức lao động, thông qua quá trình lao
động, sức lao động được kết tinh trong sản phẩm, hàng hóa, góp phần đem lại

19


doanh thu cho NSDLĐ. Các chế độ trợ cấp có ý nghĩa tích cực đối với mỗi cá nhân
NLĐ khi thôi việc, bị mất việc làm, khoản tiền đó giúp NLĐ có một khoản tiền bù
đắp cho tiền lương đã bị mất do nghỉ việc, đồng thời tạo điều kiện cho NLĐ duy trì
cuộc sống, sớm quay trở lại thị trường lao động, tránh tình trạng NLĐ rơi vào hoàn
cảnh túng quẫn và mắc phải tệ nạn xã hội. Thông qua các chế độ trợ cấp cũng thể
hiện sự nhân văn của NSDLĐ dành cho NLĐ, người đã cùng mình tạo nên sự phát
triển của doanh nghiệp.
Ngoài ra, các chế độ trợ cấp còn góp phần tạo niềm tin của NLĐ vào pháp
luật lao động và các chính sách việc làm của Nhà nước, tạo điều kiện tốt nhất để
NLĐ yên tâm tìm kiếm việc làm mới. Pháp luật lao động có những quy định bảo vệ
tối đa quyền lợi cho bên yếu thế trong QHLĐ, đảm bảo quyền lợi của NLĐ được
hưởng khi tham gia QHLĐ, khi sự bình đẳng khó được đáp ứng tại nơi làm việc.
Thứ hai, đối với NSDLĐ: các chế độ trợ cấp thể hiện trách nhiệm của
NSDLĐ không chỉ trong quá trình thực hiện HĐLĐ mà ngay cả khi chấm dứt
HĐLĐ. NSDLĐ là bên nắm quyền, luôn mong muốn cắt giảm chi phí tối đa để tăng
lợi nhuận, trong đó có những chi phí dành cho NLĐ. Khi pháp luật lao động quy
định việc chi trả các chế độ trợ cấp là trách nhiệm của NSDLĐ nên buộc NSDLĐ
phải tuân thủ. Nếu không thực hiện đúng quy định pháp luật sẽ phải chịu những
hình thức xử phạt tương ứng với hành vi vi phạm. Mặt khác, việc quy định các chế
độ trợ cấp còn góp phần tạo điều kiện để NLĐ yên tâm cống hiến sức lao động của
mình cho NSDLĐ, kích thích tinh thần làm việc đạt năng suất cao, đồng thời góp
phần xây dựng QHLĐ hài hòa, thân thiện giữa NSDLĐ và NLĐ.

Thứ ba, đối với nhà nước và xã hội: các quy định về chế độ trợ cấp cho NLĐ
khi chấm dứt HĐLĐ nói riêng và chính sách, pháp luật lao động nói chung thể hiện
trách nhiệm to lớn của Nhà nước đối với các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề việc
làm. Việc làm và thất nghiệp là hai chỉ số phản ánh quan trọng đến trạng thái kinh
tế, xã hội của quốc gia. Nếu giải quyết tốt vấn đề việc làm sẽ góp phần hạn chế
được số NLĐ thất nghiệp, kiểm soát được tình trạng thất nghiệp. Việc làm tốt, ổn

20


định sẽ tạo điều kiện và cơ hội để NLĐ có thu nhập, đảm bảo cuộc sống của bản
thân và gia đình, đồng thời NLĐ đóng góp sức lao động, trí tuệ cho sự phát triển
của đất nước. Đối với quốc gia, giải quyết tốt vấn đề việc làm sẽ làm giảm gánh
nặng ngân sách nhà nước khi thất nghiệp xảy ra, các vấn đề căng thẳng xã hội sẽ
được kiểm soát và hạn chế, Nhà nước không còn phải lo đối phó với các cuộc biểu
tình, không phải chi nhiều ngân sách để giải quyết các tệ nạn xã hội do nguyên nhân
thất nghiệp gây ra, tạo điều kiện và cơ sở triển khai thực hiện các chính sách xã hội
khác như phát triển văn hóa, giáo dục,…đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã
hội lành mạnh. Ngoài ra, việc ban hành chính sách lao động phù hợp, kịp thời sẽ tạo
niềm tin của nhân dân vào pháp luật, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.

Nguyên tắc thực hiện các chế độ trợ cấp cho người lao động
Các chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ được thực thi trên thực tế

đạt hiệu quả cao cần phải có các nguyên tắc đảm bảo việc thực hiện. Nguyên tắc
pháp luật là nguyên tắc được đặt ra trong suốt quá trình thực hiện pháp luật về các
chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ. Đó là những tư tưởng chỉ đạo cơ bản,
mang tính định hướng, xuyên suốt nội dung, hoạt động xây dựng, áp dụng pháp luật

lao động nói chung và về các chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ nói
riêng.
Nguyên tắc pháp luật để thực hiện các chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm dứt
HĐLĐ được thể hiện cụ thể thông qua các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc bảo vệ NLĐ: đây là một trong những nguyên tắc quan
trọng nhất bảo vệ NLĐ từ khi giao kết, thực hiện HĐLĐ đến khi chấm dứt HĐLĐ.
Bảo vệ NLĐ là tư tưởng xuyên suốt hệ thống các quy phạm pháp luật trong quá
trình điều chỉnh các QHLĐ. Nguyên tắc này được đặt ra trước hết trên cơ sở đường
lối, chính sách của Đảng, phải phù hợp với tình hình thực tế của QHLĐ luôn luôn
có sự thay đổi, diễn biến phức tạp, khi nền kinh tế phát triển kéo theo QHLĐ cũng
phải thay đổi phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường.

21


Mặt khác, NLĐ luôn là bên yếu thế trong QHLĐ, do đó bảo vệ NLĐ là
nhiệm vụ cơ bản và quan trọng được đặt ra ở tất cả các quốc gia trên thế giới trong
đó có Việt Nam. NLĐ luôn bị phụ thuộc vào NSDLĐ, bị NSDLĐ quản lý, điều
hành, phải đối mặt với nhiều nguy cơ, sự xâm hại từ phía NSDLĐ. Thông qua đó,
pháp luật lao động đã đặt ra sự quan tâm đặc biệt, nhằm bảo vệ NLĐ đúng mức, hạn
chế xu hướng lạm quyền từ phía NSDLĐ, đảm bảo quyền lợi NLĐ được hưởng khi
thực hiện cũng như khi chấm dứt HĐLĐ.
Từ cơ sở của nguyên tắc bảo vệ NLĐ, pháp luật lao động phải thể hiện quan
điểm bảo vệ NLĐ với tư cách là bảo vệ các quyền con người trong lĩnh vực lao
động. Pháp luật lao động không chỉ bảo vệ sức khỏe NLĐ, bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của NLĐ mà còn trên cả phương diện việc làm, thu nhập,… Khi chấm
dứt HĐLĐ, yếu tố bị ảnh hưởng đầu tiên là thu nhập, nó không chỉ ảnh hưởng đến
cuộc sống bản thân NLĐ mà hơn hết tác động đến gia đình họ. Đứng trước thực
trạng đó, nguyên tắc bảo vệ NLĐ đặt ra yêu cầu pháp luật lao động phải bảo vệ
NLĐ khi HĐLĐ chấm dứt. Lúc này, NLĐ không có tiền lương, đứng trước nguy cơ

không có việc làm, khó khăn chồng chất khó khăn cộng thêm lỗi lo cho cuộc sống,
điều này gián tiếp đẩy NLĐ vào con đường tuyệt vọng. Khi đó, các chế độ trợ cấp
đươc đặt ra, nhằm bảo vệ NLĐ khỏi nguy cơ bị mất việc làm, bởi trước khi cho
NLĐ nghỉ việc, NSDLĐ sẽ phải tính đến các khoản tiền chi trả cho NLĐ mà không
vội vàng đưa ra quyết định. Mặt khác, khoản trợ cấp đó sẽ giúp NLĐ bớt đi khó
khăn khi không có thua nhập chính từ tiền lương.
Pháp luật lao động đã đặt ra nhiều quy định nhằm hạn chế khó khăn cho
NLĐ như: quy định điều kiện NLĐ được hưởng các chế độ trợ cấp; mức hưởng
được ấn định theo một tỷ lệ nhất định, đảm bảo NSDLĐ, cơ quan Bảo hiểm xã hội
căn cứ vào đó thực hiện đúng trách nhiệm của mình; giới hạn thời gian chi trả trợ
cấp đảm bảo giải quyết kịp thời khó khăn trước mắt cho NLĐ;…. Trên cơ sở được
hưởng các chế độ trợ cấp, cuộc sống của NLĐ sau khi chấm dứt HĐLĐ sẽ bớt khó
khăn phần nào, đảm bảo NLĐ sẵn sàng tìm kiếm công việc mới sau khi nghỉ việc.

22


Nguyên tắc bảo vệ NLĐ đặt ra nhằm tạo nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội
ổn định, trong đó NLĐ chiếm đa số và là nguồn lực chính tạo ra của cải vật chất cho
xã hội. Bảo vệ NLĐ góp phần tạo nên tính nhân văn, tinh thần nhân đạo của pháp
luật đối với bên yếu thế trong QHLĐ, tạo lòng tin của nhân dân nói chung, NLĐ nói
riêng vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, hạn chế xung đột giữa các
chủ thể trong QHLĐ.
Thứ hai, nguyên tắc công bằng: theo từ điển tiếng Việt, công bằng có nghĩa
là: theo đúng lẽ phải, không thiên vị. Việc ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện
công bằng là một trong những yêu cầu quan trọng của pháp luật. Mọi công dân
trong xã hội đáp ứng điều kiện như nhau phải được hưởng quyền và lợi ích như
nhau. Công bằng được coi là tư tưởng pháp lý tiến bộ, xuyên suốt trong hệ thống
pháp luật nói chung và pháp luật lao động nói riêng.
Nguyên tắc công bằng trong việc thực hiện các chế độ trợ cấp cho NLĐ khi

chấm dứt HĐLĐ được thể hiện trên các phương diện như: quy định NLĐ đáp ứng
đủ điều kiện theo luật định đều được hưởng các chế độ trợ cấp như nhau không
phân biệt lao động nam hay nữ; lao động có thời gian làm việc lâu dài sẽ được
hưởng tiền trợ cấp nhiều hơn lao động có thời gian làm việc ít cho NSDLĐ, tạo
động lực, khuyến khích NLĐ cống hiến, làm việc lâu dài cho NSDLĐ;… Nguyên
tắc công bằng có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và thực thi pháp luật về
các chế độ trợ cấp cho NLĐ, tạo sự tin tưởng, cống hiến sức lao động của NLĐ cho
NSDLĐ, tạo nền tảng phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Thứ ba, nguyên tắc đảm bảo an sinh xã hội: “An sinh xã hội là sự bảo vệ,
trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng đối với những người “yếu thế” trong xã hội
bằng các biện pháp khác nhau nhằm hỗ trợ cho các đối tượng khi họ bị suy giảm
khả năng lao động, giảm sút thu nhập,…” [17, tr.16].
Nguyên tắc đảm bảo an sinh xã hội được xây dựng trên cơ sở đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, hướng tới mục tiêu phát triển con người, thúc
đẩy công bằng, nâng cao chất lượng cuộc sống con người nói chung, NLĐ nói

23


riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước. NLĐ có quyền được hưởng an
sinh xã hội, quyền cơ bản và quan trọng của quyền con người.
Nguyên tắc này cũng được thể hiện ở các chế độ trợ cấp cho NLĐ khi chấm
dứt HĐLĐ một cách rõ ràng. HĐLĐ chấm dứt, đồng nghĩa với việc NLĐ bị mất thu
nhập, cuộc sống gặp nhiều khó khăn, gián đoạn. Trước thực trạng đó, pháp luật quy
định NLĐ được hưởng các chế độ trợ cấp khi chấm dứt HĐLĐ, quy định mức
hưởng trợ cấp với tỷ lệ phù hợp đảm bảo NLĐ đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu
của mình trong từng giai đoạn, đặc biệt khi nền kinh tế ngày càng phát triển, tỷ lệ
lạm phát ngày càng tăng cao thì vấn đề đặt ra NLĐ phải được nhận mức tiền trợ cấp
phù hợp, đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu cho bản thân mình. Việc thực hiện
tốt nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng, thể hiện trình độ phát triển của đất nước,

sự quan tâm của Nhà nước đối với đội ngũ NLĐ, đồng thời thông qua đó cũng thể
hiện quyền con người được đảm bảo trên thực tế.
Thứ tư, nguyên tắc thống nhất quyền và nghĩa vụ của các bên trong
QHLĐ: tại Điều 15 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền công dân không tách
dời nghĩa vụ công dân”. Pháp luật đảm bảo cho NLĐ và NSDLĐ được hưởng các
quyền thì đồng thời các chủ thể trong QHLĐ cũng phải làm tròn nghĩa vụ của mình.
Nguyên tắc này được thể hiện trong việc thực hiện các chế độ trợ cấp cho
NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ như sau: về phía NLĐ để được hưởng các chế độ trợ cấp
thì NLĐ cũng có nghĩa vụ phải tuân thủ đúng các quy định về chấm dứt HĐLĐ (chỉ
được chấm dứt khi thuộc một trong các trường hợp được pháp luật quy định; tuân
thủ thời hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ;…); chuẩn bị đầy đủ hồ sơ
để hưởng trợ cấp theo quy định pháp luật;… Tương ứng với quyền và nghĩa vụ của
NLĐ, NSDLĐ trong quá trình thực hiện HĐLĐ, NSDLĐ đã có quyền quản lý NLĐ,
được hưởng lợi từ sức lao động của NLĐ thì khi HĐLĐ chấm dứt NSDLĐ có nghĩa
vụ thực hiện việc chi trả các chế độ trợ cấp cho NLĐ theo đúng quy định pháp luật.
Nguyên tắc này được thể hiện rõ trong quá trình xây dựng pháp luật, thực
hiện pháp luật về các chế độ trợ cấp cho NLĐ. Không chủ thể nào chỉ hưởng quyền

24


mà không phải thực hiện nghĩa vụ, ngược lại cũng không chủ thể nào chỉ thực hiện
nghĩa vụ mà không được hưởng quyền. Quyền của chủ thể này sẽ tương ứng với
nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược lại. Việc quy định quyền và nghĩa vụ tương ứng
giữa các bên trong QHLĐ góp phần tạo nên ý thức tự giác thực hiện, nghiêm chỉnh
chấp chấp đúng nghĩa vụ của mình, đảm bảo tuân thủ đúng quy định pháp luật của
các bên trong QHLĐ. Thông qua đó, việc thực thi pháp luật trên thực tế đạt hiệu
quả cao.
1.3.


Các biện pháp bảo đảm thực hiện các chế độ trợ cấp cho người lao động
Pháp luật lao động không chỉ quy định rõ ràng và cụ thể về các chế độ trợ

cấp cho NLĐ mà còn phải đưa ra các biện pháp bảo đảm thực hiện. Việc quy định
các biện pháp bảo đảm thực hiện nhằm mục đích và ý nghĩa cơ bản gồm: (1) ngăn
ngừa hành vi vi phạm của các bên; (2) bảo đảm quyền lợi cho NLĐ; (3) tạo hành
lang pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh. Để bảo đảm thực hiện các quy
định pháp luật về thực hiện chế độ trợ cấp cho NLĐ, Nhà nước cần thiết phải ban
hành các quy định xử phạt vi phạm hành chính và có cơ chế kiểm tra, giám sát thực
thi. Ngoài ra, tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện các chế độ trợ cấp cho NLĐ là
một loại tranh chấp lao động, vì vậy, bên bị vi phạm quyền lợi về chế độ trợ cấp có
quyền khởi kiện để giải quyết tranh chấp lao động theo quy định của pháp luật.
Theo đó, các biện pháp bảo đảm thực hiện các chế độ trợ cấp cho NLĐ có thể được
phân loại hành hai biện pháp như sau:
Thứ nhất: Biện pháp xử phạt vi phạm hành chính
Xử phạt vi phạm hành chính là “việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng
hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện
hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính” (khoản 2 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012). Căn cứ vào
hành vi và mức độ vi phạm, bên vi phạm sẽ bị áp dụng các hình thức xử phạt, mức
xử phạt khác nhau, cụ thể được phân tích tại Chương 2 của Luận văn. Trên thực tế,
biện pháp xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng khi cơ quan quản lý nhà nước

25


×