Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.24 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ NGỌC

Hoµn thiÖn ph¸p luËt vÒ b¸n ®Êu gi¸ tµi
s¶n

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


HÀ NỘI - 2018


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ TH NGC

Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài
sản
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s Nh nc v phỏp lut
Mó s: 8380101.01

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TSKH NGUYN HONG ANH


HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Ngọc


MỤC LỤCTrang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI
SẢN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BÁN ĐÂU GIÁ TÀI SẢN.....................6
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của bán đấu giá tài sản...................................6


1.1.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản...............................................................6
1.1.2.

Đặc điểm của bán đấu giá tài sản..........................................................8

1.2.

Pháp luật về bán đấu giá tài sản.......................................................10

1.2.1.

Khái niệm...........................................................................................10

1.2.2. Đặc điểm của pháp luật bán đấu giá tài sản........................................11
1.2.3. Nguyên tắc bán đấu giá tài sản...........................................................12
1.2.4. Mối quan hệ pháp pháp luật bán đấu giá tài sản với các lĩnh vực
pháp luật có liên quan.........................................................................16
1.3.

Tiêu chí đánh giá tính hoàn thiện của pháp luật về bán đấu
giá tài sản...........................................................................................19

1.4.

Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới về pháp luật bán
đấu giá tài sản...................................................................................21

Kết luận Chương 1........................................................................................28
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM.....................30

2.1.

Thực trạng pháp luật về bán đấu giá tài sản.................................30

2.2.

Các nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về bán đấu giá
tài sản.................................................................................................40

2.2.1. Chủ thể pháp luật bán đấu giá tài sản.................................................40
2.2.2. Trình tự, thủ tục đấu giá tài sản..........................................................48


2.3.

Thực trạng thực hiện pháp luật về bán đấu giá tài sản................57

2.3.1. Những thành công và hạn chế trong thực hiện pháp luật bán đấu
giá tài sản............................................................................................57
2.3.2. Nguyên nhân của thành công và của những hạn chế..........................70
Kết luận Chương 2........................................................................................76
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN..........................................................77
3.1.

Quan điểm hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản...............77

3.1.1. Pháp luật về đấu giá cần góp phần tạo lập môi trường cạnh tranh
lành mạnh trong nền kinh tế thị trường..............................................77
3.1.2. Pháp luật về đấu giá phải là công cụ bảo vệ lợi ích của Nhà nước

trong quản lý tài sản công, bảo vệ lợi ích của tổ chức, cá nhân
yếu thế trong quan hệ mua, bán tài sản...............................................78
3.1.3. Pháp luật về đấu giá cần là công cụ góp phần phát huy truyền
thống văn hóa dân tộc.........................................................................79
3.1.4. Pháp luật về đấu giá tài sản phải là công cụ giải quyết tranh chấp
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân....................80
3.1.5. Pháp luật về đấu giá tài sản cần góp phần thúc đẩy sự hình thành
và phát triển loại hình dịch vụ hỗ trợ giao dịch dân sự - thương
mại trong nền kinh tế thị trường. Đóng vai trò là công cụ quản lý
nhà nước.............................................................................................80
3.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản.................81

3.2.1.

Sửa đổi Luật đấu giá tài sản và các văn bản hướng dẫn thi hành..........81

3.2.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bán đấu giá tài sản...........91
Kết luận Chương 3........................................................................................94
KẾT LUẬN CHUNG....................................................................................95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................97


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS:

Bộ luật dân sự

ĐGTS:


Đấu giá tài sản

THADS:

Thi hành án dân sự

UBND:

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bán đấu giá tài sản là một dịch vụ ngày càng có vị trí, vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế - xã hội. Đấu giá tài sản là một trong những cách
thức linh hoạt để chuyển quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể
khác, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế nói chung, hoạt động mua bán, trao
đổi hàng hóa nói riêng phát triển ngày một đa dạng. Đây là một phương thức
thực hiện giao dịch dân sự, thương mại, không bị chi phối bởi các yếu tố
chính trị - xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường có nhiều phương thức thực hiện bán tài
sản (hàng hóa thông thường, tài sản công, tài sản có tính đặc thù, tài sản có
nhiều chủ thể liên quan..). Mỗi loại tài sản được bán theo phương thức nào
tùy thuộc vào lợi ích của các bên liên quan đến việc mua, bán, trong hàng hóa,
tài sản thông thường, người mua tự do thỏa thuận giá cả theo phương thức
“thuận mua, vừa bán”, các bên được tự do lựa chọn hình thức thanh toán (trả
chậm, trả góp…). Riêng đối với tài sản được mua bán theo phương thức bán
đấu giá tài sản, nhà nước cần thiết sử dụng pháp luật để điều chỉnh để góp
phần tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị trường.

Để pháp luật đóng vai trò là công cụ góp phần tạo lập môi trường cạnh tranh
lành mạnh thì các quy định của pháp luật phải thể hiện rõ các quan điểm
mang tính chất nguyên tắc truyền thống của đấu giá tài sản là công khai, minh
bạch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, chống các hành vi
gian lận, cạnh tranh bình đẳng. pháp luật về bán đấu giá tài sản còn là công cụ
bảo vệ lợi ích của nhà nước trong quản lý tài sản công, bảo vệ lợi ích của tổ
chức, cá nhân yếu thế trong quan hệ mua, bán tài sản. tài sản quốc gia gồm
nhiều nhiều loại xét theo nguyên tắc đều thuộc sở hữu toàn dân, trong đó có
tài sản là đất đai. Do đó, cần có cơ chế kiểm soát hành vi của người bán tài

1


sản công (người đại diện). Đối với tài sản bán đấu giá là đối tượng của hợp
đồng cầm cố hay thế chấp tài sản là đối tượng xử lý trong phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã, người sở hữu tài sản là con nợ sẽ rơi vào tình trạng thiệt
thòi nếu bán đấu giá tài sản không được thực hiện theo một trình tự, thủ tục
chặt chẽ. Vì lý do vậy nên ở Việt Nam bán đấu giá tài sản được hình thành và
phát triển từ việc bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự. Bán đấu giá tài sản
trong THADS là một hình thức xử lý tài sản bị kê biên cưỡng chế. Thông qua
biện pháp bán công khai tài sản phải thi hành án thì quyền lợi của chính người
phải thi hành án cũng được đảm bảo.
Sau gần 30 năm triển khai hoạt động bán đấu giá tài sản ở Việt Nam
hoạt động này đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, hoạt động bán đấu
giá ngày càng phát triển cả về loại hình và phương thức thực hiện. Đến nay,
trên cả nước đã có 63/63 tỉnh, thành phố thành lập Trung tâm dịch vụ bán đấu
giá tài sản trực thuộc Sở Tư pháp và trên 300 tổ chức bán đấu giá chuyên
nghiệp đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực này với gần 1000 đấu giá viên. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động bán đấu giá vẫn còn một
số hạn chế, một trong những nguyên nhân của hạn chế đó là do hành lang

pháp lý cho hoạt động này chưa thực sự hoàn thiện, Luật Đấu giá tài sản năm
2016 đang bộc lộ nhiều điểm bất cập cần tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng tốt
hơn yêu cầu của thực tiễn. Bởi vậy, việc đặt ra vấn đề nghiên cứu một cách có
hệ thống, toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn để tìm các giải pháp hoàn
thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản là vấn đề có tính cấp thiết.
Vì vậy, học viên đã chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá
tài sản” làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, trước yêu cầu đổi mới đất nước, cải cách
hành chính và cải cách tư pháp đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học

2


pháp lý đề cập đến vấn đề bán đấu giá tài sản ở Việt Nam đã được công bố.
Cụ thể về đề tài nghiên cứu có đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Hoàn thiện pháp
luật về bán đấu giá tài sản nhằm thúc đẩy thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
thực hiện năm 2011. Về luận văn, luận án có đề tài luận án tiến sĩ luật học
“Pháp luật về đấu giá tài sản trong thương mại ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Mạnh Cường bảo vệ tại Viện Khoa học xã hội Việt Nam năm 2012;
đề tài luận văn thạc sĩ luật học “Quản lý nhà nước về hoạt động bán đấu giá
tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Phạm Văn Sỹ bảo vệ
tại Học viện Hành chính quốc gia năm 2006. Về các bài tạp chí khoa học có
bài “Vướng mắc trong bán đấu giá tài sản để THADS” của tác giả Lệ Thủy
đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng 11/2007; bài “Một
số bất cập trong việc định giá, định giá lại tài sản kê biên” của tác giả Vũ
Hòa đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng 12/2012; bài
“Những khó khăn vướng mắc trong công tác kiểm soát việc bán đấu giá tài
sản thi hành án” của tác giả Nguyễn Hồng Sinh đăng trên Tạp chí Kiểm sát số

23, tháng 12/2011; bài “Một số vướng mắc về bán đấu giá tài sản để thi hành
án” của Đinh Duy Bằng đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề
tháng 02/2012…
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã giải quyết được một số vấn đề
liên quan đến bán đấu giá tài sản như: Tài sản bán đấu giá, tổ chức bán đấu
giá tài sản, bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất, bán đấu giá tài sản thi
hành án dân sự. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
hệ thống và toàn diện các vấn đề về bán đấu giá tài sản sau khi Luật Đấu giá
tài sản được ban hành năm 2016. Luận văn của học viên là công trình đầu tiên
nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống các vấn đề liên quan đến bán đấu
giá tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện hành.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về
bán đấu giá tài sản, nội dung các quy định pháp luật Việt Nam về bán đấu giá
tài sản và phát hiện ra những bất cập để qua đó đề xuất một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản.
Từ mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ
thể như:
- Phân tích các vấn đề về lý luận cơ bản của bán đấu giá tài sản và pháp
luật về bán đấu giá tài sản.
- Phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về bán đấu giá tài sản.
- Khảo sát thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam về bán đấu giá tài sản
trên địa bàn một số tỉnh, thành phố.
- Phát hiện những vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật Việt
Nam hiện hành về bán đấu giá tài sản từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục

nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt động bán đấu giá tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về bán đấu giá tài
sản và pháp luật bán đấu giá tài sản, các quy định của pháp luật về bán đấu giá
tài sản và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản.
Trong giới hạn của đề tài luận văn thạc sĩ luật học, việc nghiên cứu tập
trung vào các vấn đề chủ yếu tập trung vào thời gian từ năm 2010 đến tháng 9
năm 2018 trên phạm vi cả nước, trong đó tập trung vào một số tỉnh, thành phố
như Hà Nội, Vĩnh Phúc, Lai Châu, thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến hành đối với một số quy định
tương ứng của pháp luật nước ngoài để đối chiếu tham khảo.

4


5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, những phương pháp khoa học
khác như phương pháp phân tích, diễn giải, tổng hợp, so sánh cũng được sử
dụng để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra đối với việc nghiên cứu đề tài.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bán đấu giá tài sản và pháp luật về
bán đấu giá tài sản.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về bán đấu giá tài sản ở
Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá
tài sản.


5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN VÀ
PHÁP LUẬT VỀ BÁN ĐÂU GIÁ TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm của bán đấu giá tài sản
1.1.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản
* Sơ lược lịch sử bán đấu giá tài sản trên thế giới
Bán đấu giá tài sản là phương thức trao đổi tài sản đã có lịch sử hình
thành từ rất lâu đời trên thế giới. Vào khoảng năm 500 trước công nguyên,
theo ghi chép của những người Hy Lạp cổ đại, hình thức đấu giá xuất hiện lần
đầu tiên tại Babylon với đối tượng được mua bán là phụ nữ một sự cưới hỏi.
Bất kể người con gái nào bị gả bán đấu ngoài cuộc đấu giá đều bị coi là bất
hợp pháp. Những người phụ nữ xinh đẹp được đưa tới những cuộc đấu giá thư
cao cấp. còn những phụ nữ xấu phải có của hồi môn và bị đưa tới các cuộc
đấu giá để đợi được chấp nhận. Giá cả của người phụ nữ xấu là số âm, tức là
càng xấu càng mất nhiều của hồi môn. Tiếp đó, bán đấu giá được phát triển
qua các cuộc chiến tranh của Đế chế La Mã Cổ đại, họ bán đấu giá tất cả mọi
thứ từ các chiến lợi phẩm của các cuộc chiến tranh cho đến tài sản của các
con nợ. Hiện nay, phương thức bán đấu giá tài sản được sử dụng như một
phương thức mua bán thông thường, phổ biến và rộng khắp trên thế giới. Cùng
với sự phát triển của thương mại điện tử, bán đấu giá tài sản mở rộng hơn rất
nhiều và phát triển lên một bước mới. Việc bán đấu giá tài sản được tổ chức
bằng các hình thức công khai (open cry) hoặc theo hồ sơ niêm phong (sealed
bid), theo phương thức đấu giá lên hoặc đặt giá xuống (điển hình là kiểu Hà
Lan và kiểu Anh).
Theo hình thức công khai thì tài sản chào bán tại một mức giá xác định,
người bán tiếp tục nâng mức giá lên cách mức giá cũ một khoảng nhất định cho


6


đến khi không còn người nào đưa ra mức giá cao hơn. Người đã trả mức giá
cao nhất cuối cùng chính là người thắng cuộc. Đây là hình thức vẫn thường
được áp dụng nhiều nhất để giao dịch hàng hóa, sản phẩm, đặc biệt với các tài
sản là cổ vật, các bộ sưu tập tem, tiền, xe cổ, tác phẩm nghệ thuật…
Theo hình thức niêm phong thì người tham gia cùng nộp giá một lúc
mà không được biết giá của người khác cũng như giữ kín giá mà mình đã trả
cho hàng hóa, sản phẩm muốn mua. Thông thường người trả giá cao nhất sẽ là
người thắng cuộc, mua được tài sản.
Tại Hà Lan, người bán có thể đưa ra một mức giá rất cao cho hàng hóa,
sản phẩm muốn bán. Mức giá này thường là mức giá “trên trời” và không ai
có thể mua nổi. Mức giá được hạ dần trong khoảng thời gian nhất định
(thường theo thời gian của một chiếc đồng hồ). Nếu người tham gia trả giá
chấp nhận ở mức giá nào đó thì cần ấn nút chấp nhận ngay, nếu không sẽ mất
cơ hội. Phương thức này thường áp dụng tại các chợ hoa và đặc biệt với sản
phẩm hoa tulip
Tại Anh thì bán đấu giá có nét đặc trưng riêng. Người bán đấu giá điều
khiển cuộc bán đấu giá sao cho người trả giá thắng được mức giá hiện tại. Giá
chào mới cao hơn giá chào cũ một khoảng cho trước. Cuộc bán đấu giá chấm
dứt khi không còn người nào đưa ra mức giá cao hơn. Người trả giá hiện tại
sẽ thắng và trả số tiền theo mức giá đã chào. Kiểu bán đấu giá này còn được
gọi là bán đấu giá mức thứ hai.
Ngoài ra, cũng với sự phát triển của thương mại điện tử, hiện nay còn
xuất hiện phương thức đấu giá ngược. Đây là một loại hình đấu giá đặc biệt,
theo đó người trả giá thấp nhất và duy nhất sau khi kết thúc mỗi phiên đấu sẽ
trở thành người được mua tài sản bán đấu giá. Ở phương thức này nếu bên
bán đưa ra giá khởi điểm thì giá khởi điểm là mức giá lớn nhất (ngược với

phương thức trả giá lên – phương thức đấu giá xuôi).

7


Cùng với sự phát triển của xã hội, có thể nói rằng đến nay bán đấu giá
phát triển với tư cách là một phương thức mua bán tài sản thông thường, phổ
biến và không thể thiếu trong thương mại, kinh doanh của thế giới. Khái niệm
bán đấu giá đưa ra dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì “Đấu giá là quá trình mua
và bán tài sản hoặc dịch vụ bằng cách đưa món hàng cần đấu giá, ra giá và
sau đó bán món hàng cho người trả giá cao nhất” [36].
Trong kinh tế học hiện đại, nhà kinh tế học người Anh - David W.
Pearce đã đưa ra định nghĩa: “Đấu giá là một thị trường trong đó người mua
tiềm tàng đặt giá cho tài sản chứ không phải đơn thuần trả giá theo giá công
bố của người bán” và thị trường đấu giá là “một thị trường có tổ chức, tại đó
giá cả được điều chỉnh liên tục theo biến đổi của cung và cầu” [8, tr.102].
Tại Việt Nam khái niệm bán đấu giá tài sản cũng được xem xét, đưa ra
trong nhiều tài liệu khác nhau. Theo Từ điển Luật học thì “Bán đấu giá tài
sản là hình thức bán công khai một tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều
người muốn mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp
hơn giá khởi điểm là người mua được tài sản”. Theo Đại Từ điển Bách khoa
Việt Nam“Đấu giá là hình thức bán những tài sản hoặc tài sản thường thuộc
loại đắt tiền, hàng quý hiếm. Người bán đặt mức giá chuẩn, những người
mua trả giá từ thấp đến cao, tài sản được bán cho người mua trả cao nhất”.
Khoản 2 Điều 5 Luật Đấu giá tài sản quy định về giải thích từ ngữ: Đấu
giá tài sản là hình thức bán tài sản có từ hai người trở lên tham gia đấu giá
theo nguyên tắc, trình tự và thủ tục được quy định tại Luật đấu giá tài sản trừ
trường hợp đấu giá trong trường hợp chỉ có một người đăng ký tham gia đấu
giá, một người tham gia đấu giá, một người trả giá, một người chấp nhận giá .

1.1.2. Đặc điểm của bán đấu giá tài sản
Hoạt động bán đấu giá là một hoạt động thương mại có các dấu hiệu cơ
bản sau:
8


Thứ nhất, đấu giá là quan hệ kinh tế phát sinh giữa người có nhu cầu bán
và người có nhu cầu mua tài sản, hàng hóa. Mục tiêu của quan hệ kinh tế này
nhằm dịch chuyển quyền sở hữu tài sản từ người bán sang người mua đáp ứng
yêu cầu về giá của người bán theo một trình tự nhất định. Dấu hiệu này giúp
phân biệt mua, bán tài sản bán đấu giá với mua bán tài sản thông thường.
Thứ hai, bán đấu giá là phương thức tổ chức cạnh tranh trong mua, bán
tài sản hàng hóa. Dưới sự tác động của quy luật cạnh tranh, nhà sản xuất, người
sở hữu tài sản có điều kiện để tìm phương thức bán hành hóa, tài sản một cách
có lợi nhất. Do đó, để thực hiện đấu giá, nguyên tắc cơ bản phải được tôn trọng
là tự do giá cả. người bán có quyền ấn định giá tối thiểu (giá khởi điểm, giá
sàn) và bán cho người mua trả giá cao nhất. Trong trường hợp không có người
mua tài sản từ mức giá tối thiểu trở lên, người bán có quyền thay đổi mức giá
tối thiểu. Đối với người mua, trong quan hệ mua, bán hàng hóa tài sản thông
thường người mua ít có cơ hội lựa chọn giá mua, đặc biệt việc mua, bán được
tổ chức dưới dạng các trung tâm thương mại, siêu thị thì người mua chỉ có thể
mua bán hành hóa theo giá định sẵn.
Thứ ba, đối tượng của quan hệ đấu giá tài sản là hàng hóa, tài sản. Việc
phân biệt này chỉ có ý nghĩa tương đối. Thông thường, cuộc đấu giá gọi là đấu
giá hàng hóa khi đối tượng là một số lượng hàng hóa lớn, người bán có nhu cầu
bán đấu giá do cầu lớn hơn cung hoặc do cần bán hàng hóa do có nhu cầu về
vốn. Trong trường hợp cuộc bán đấu giá gọi là đấu giá tài sản, đối tượng đấu
giá là tài sản đặc định, tài sản quý hiếm, tài sản liên quan đến lợi ích nhà nước
(quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên), tài sản mà bên bán gồm nhiều
bên không đồng nhất lợi ích về việc mua, bán (tài sản phát mại để giải quyết nợ

tín dụng, tài sản thi hành án).
Tính bắt buộc hay tự nguyện của việc tổ chức bán đấu giá liên quan đến
bản chất và lợi ích của chủ sở hữu đối với tài sản. Nếu tài sản không liên quan

9


đến lợi ích công hay lợi ích không đồng nhất của các bên, thì việc tổ chức bán
đấu giá do chủ sở hữu quyết định. Đối với các trường hợp việc bán tài sản liên
quan đến lợi ích công như bán tài sản là quyền sử dụng đất để giao đất, quyền
khai thác tài nguyên, bán doanh nghiệp công… thì việc bán tài sản theo phương
thức đấu giá thường được pháp luật quy định có tính chất bắt buộc.
1.2. Pháp luật về bán đấu giá tài sản
1.2.1. Khái niệm
Pháp luật là một hiện tượng xã hội khách quan, ra đời và tồn tại cùng
với nhà nước. Có nhiều quan niệm khác nhau về pháp luật. Theo Từ điển luật
học Nhà xuất bản Tư pháp thì: “Pháp luật là hệ thống những qui tắc xử sự
mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận phục vụ và
bảo vệ quyền lợi cho các tầng lớp dân cư trong xã hội”. Giáo trình lý luận
chính trị Đại học Luật Hà Nội năm 1994: “Pháp luật là hệ thống những qui
tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành và đảm bảo thực
hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan
hệ xã hội”. Từ các quan niệm trên có thể khái quát định nghĩa pháp luật như
sau: Pháp luật là hệ thống những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội pháp triển phù
hợp với lợi ích của giai cấp mình.
Từ quan niệm lý luận về bán đấu giá tài sản và hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật được Nhà nước ban hành, có thể định nghĩa pháp luật bán
đấu giá tài sản như sau: Pháp luật bán đấu giá tài sản là hệ thống các quy

phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm
điều chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh trong lĩnh vực bán đấu gái tài
sản gồm những quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục đấu giá tài sản;
đấu giá viên, tổ chức đấu giá tài sản; thù lao dịch vụ đấu giá, chi phí đấu

10


giá tài sản; xử lý vi phạm, hủy kết quả đấu giá tài sản, bồi thường thiệt hại;
quản lý nhà nước về đấu giá tài sản.
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật bán đấu giá tài sản
- Pháp luật bán đấu giá tài sản là một bộ phận pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh có tính chất “tư”. Việc xếp lĩnh vực đấu giá tài
sản vào nhóm luật “tư” nên các quy phạm điều chỉnh không mang tính
mệnh lệnh, hành chính do đó các chủ thể tham gia quan hệ bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ.
- Pháp luật bán đấu giá tài sản không nằm ở một văn bản pháp luật cụ
thể riêng biệt mà nằm ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.
Quan hệ bán đấu giá tài sản có thể quan hệ dân sự, thương mại hoặc quan
hệ hành chính – Tư pháp.
Pháp luật bán đấu giá tài sản trong lĩnh vực dân sự, thương mại điều
chỉnh quan hệ bán đấu giá mang tính tự nguyện theo yêu cầu của chủ sở
hữu tài sản.
Pháp luật bán đấu giá tài sản trong lĩnh vực hành chính – Tư pháp điều
chỉnh quan hệ bán đấu giá tài sản bắt buộc theo quyết định của Tòa án hoặc
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Pháp luật bán đấu giá tài sản mang tính về thủ tục quan hệ pháp
luật. Hoạt động bán đấu giá tài sản phải diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục
do pháp luật quy đinh. Các thủ tục này đều hướng đến nguyên tắc cơ bản
nhất của hoạt động bán đấu giá tài sản là công khai để nhiều người biết và

đăng ký tham gia đấu giá.
- Pháp luật bán đấu giá tài sản thể hiện rõ nguyên tắc công khai của
hoạt động bán đấu giá tài sản. Xuất phát từ nhu cầu người mua cạnh tranh
mua tài sản, người bán lựa chọn người mua với giá có lợi nhất cho mình nếu
hoạt động bán đấu giá không công khai thì sẽ không có nhiều người tham gia
đăng ký mua tài sản bán đấu giá.
11


- Bán đấu giá tài sản là một hoạt động bán hàng thông qua trung gian.
Trong quan hệ bán đấu giá tài sản trừ trường hợp người có tài sản tự mình tổ
chức bán đấu giá, còn các trường hợp khác, ngoài người bán, người mua còn
có sự tham gia của bên trung gian là người làm dịch vụ bán đấu giá. Bên bán
là chủ sở hữu hoặc là người được ủy quyền hoặc là người có quyền, ích liên
quan. Bên mua là tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua tài sản và đáp ứng các
điều kiện của pháp luật để được đăng ký tham gia đấu giá và trả giá. Người
làm dịch vụ bán đấu giá là tổ chức được người có tài sản ủy quyền bán tài sản
thông qua hợp đồng dịch vụ tiến hành bán đấu giá.
- Đối tượng của bán đấu giá tài sản có thể là những tài sản thông
thường, tuy nhiên, do tính chất đặc thù của bán đấu giá tài sản thì không phải
tài sản nào cũng được các chủ sở hữu quyết định bán bằng phương thức đấu
giá. Tài sản trong bán đấu giá rất đa dạng tùy theo nhu cầu của chủ sở hữu tài
sản hoặc theo quy định của pháp luật. Mọi tài sản đều có thể tổ chức bán đấu
giá: đồ cổ, đồ sưu tầm, tác phẩm nghệ thuật, quyền sở hữu trí tuệ, tài sản
công... các tài sản bán đấu giá bao gồm tài sản để thi hành án theo quy định
của thi hành án, tài sản là tang vật phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu
sung công quỹ nhà nước, tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về dịch
giao đảm bảo... vì vậy, hầu hết những tài sản có đặc thù về giá trị cũng như
giá trị sử dụng mới được cân nhắc để lựa chọn bán theo phương thức đấu giá
tài sản. Những tài sản này rất khó xác định giá trị thực của nó. Vì vậy, những

người bán chỉ đưa ra một mức giá làm cơ sở để người mua tham dự cuộc đấu
giá xác định trên cơ sở có sự cạnh tranh với nhau. Giá bán thực tế có thể cao
hơn hoặc thấp hơn giá mà người bán đưa ra lần đầu.
1.2.3. Nguyên tắc bán đấu giá tài sản
- Bảo đảm tính độc lập, trung thực, công khai, minh bạch, công bằng,
khách quan
Khi bán đấu giá tài sản nói chung, tài sản thi hành án nói riêng thì quá
12


trình phải diễn ra công khai và liên tục giữa các bên có liên quan. Từ quá trình
kê biên tài sản bán đấu giá, định giá tài sản, lựa chọn tổ chức bán đấu giá đã
đòi hỏi phải có sự đồng thuận, thống nhất giữa người phải thi hành án và
người được thi hành án. Trong trường hợp không thỏa thuận được thì Chấp
hành viên phải quyết định nhưng cũng công khai đến cả hai bên biết về việc
lựa chọn của mình đến những thông tin về thời gian, địa điểm bán đấu giá,
danh mục tài sản, số lượng, chất lượng của tài sản; giá khởi điểm của tài sản;
nơi trưng bày tài sản; nội quy bán đấu giá, tài sản bán đấu giá, danh sách
người tham gia đấu giá, người thực hiện việc bán đấu giá… cũng phải được
niêm yết công khai, không chỉ với hai bên được thi hành án - phải thi hành án
mà còn đến toàn thể những người đã đăng ký mua tài sản bán đấu giá. Tại
phiên bán đấu giá, người điều hành cuộc bán đấu giá phải công khai các mức
giá được trả và họ tên người mua trả giá cao nhất của mỗi lần trả giá. Nếu vi
phạm nguyên tắc này thì bất kỳ bên nào có liên quan (tùy thuộc từng giai
đoạn của cuộc đấu giá) cũng có quyền khiếu nại hoặc yêu cầu hủy kết quả bán
đấu giá do vi phạm nguyên tắc cơ bản của bán đấu giá tài sản theo quy định
của pháp luật.
- Nguyên tắc khách quan, trung thực, bình đẳng
Nguyên tắc khách quan là việc cung cấp nhận thức dựa trên những cơ
sở thực tế, xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ những thuộc tính và mối

liên hệ vốn có của nó, từ những quy luật vận động và phát triển của bản thân
nó; không thể dựa vào ý muốn chủ quan hoặc lấy ý chí chủ quan áp đặt cho
thực tế. Trong bán đấu giá tài sản THADS, nguyên tắc khách quan được biểu
hiện thông qua việc xác định giá trị khởi điểm của tài sản phải phù hợp với
giá trị thực tế của tài sản. Nếu xác định giá trị tài sản không đúng sẽ gây thiệt
hại cho một trong những bên có liên quan đến việc bán đấu giá và có thể sẽ
phát sinh những tranh chấp làm chậm lại quá trình bán đấu giá (Giá thấp sẽ

13


gây thiệt hại cho người sở hữu tài sản bán đấu giá và có thể gây thiệt hại cho
người được thi hành án; Giá quá cao thì sẽ không có ai mua hoặc nếu mua thì
người mua tài sản bán đấu giá sẽ bị thiệt hại do giá trị không đúng).
Việc trung thực trong bán đấu giá được thể hiện thông qua việc
cung cấp đầy đủ những thông tin về cuộc bán đấu giá (thời gian, địa điểm,
người tham dự…), về tài sản với những thuộc tính, giá trị và những
khuyết tật của nó; về những giấy tờ liên quan đến tài sản bán đấu giá…
Ngoài ra, đối với những người làm việc trong tổ chức bán đấu giá tài sản
nơi thực hiện bán tài sản đó, người trực tiếp giám định, định giá tài sản,
chấp hành viên đang thi hành bản án và cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị,
em ruột của những người này không được quyền tham gia bán đấu giá tài
sản do việc tham gia của họ có khả năng ảnh hưởng đến sự trung thực,
khách quan của cuộc bán đấu giá.
Quy định tính trung thực cho mỗi cuộc bán đấu giá chính là nhằm bảo vệ
quyền lợi cho các bên tham gia bán đấu giá, nhất là trong các cuộc bán đấu giá
tài sản có giá trị lớn thì tính trung thực càng đóng vai trò quan trọng hơn.
Nguyên tắc trung thực đòi hỏi tất cả các chủ thể tham gia quan hệ đấu giá tài
sản đều phải tuân theo, không thể xảy ra tình trạng lừa lọc, dối trá với khách
hàng mà người bán tài sản và người tổ chức đấu giá tài sản móc ngoặc, thông

đồng với nhau. Nguyên tắc trung thực còn đảm bảo cho khách hàng có sự yên
tâm về tài sản mà mình lựa chọn.
Nguyên tắc bình đẳng giữa các bên được thể hiện qua việc bất cứ cá
nhân nào (trừ trường hợp không đủ điều kiện như người không được nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất; người không thuộc trường hợp được Nhà
nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất theo quy định của pháp
luật về đất đai hoặc trường hợp tham gia gây ảnh hưởng đến tính trung thực,
khách quan của cuộc bán đấu giá) cũng đều có quyền đăng ký tham gia đấu

14


giá. Khi đăng ký tham gia thì ai cũng phải nộp phí tham gia đấu giá và khoản
tiền đặt trước. Việc trưng bày tài sản bán đấu giá cũng được công khai để mọi
người tham gia có quyền tiếp cận ngang nhau. Tại phiên bán đấu giá, mọi
người tham gia đều có quyền tự do trả giá, người điều hành phiên đấu giá
buộc phải công khai các mức giá đã trả và họ tên người mua trả giá cao nhất
trong mỗi bước giá. Ai là người trả giá cao nhất, cuối cùng thì sẽ thắng cuộc
trong phiên đấu giá chứ không hề có ngoại lệ hay ưu ái riêng cho bất kỳ cá
nhân, tổ chức nào.
- Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người có tài sản đấu giá, người
tham gia đấu giá, người trúng đấu giá, người mua được tài sản đấu giá, tổ
chức đấu giá tài sản, đấu giá viên.
Trong quan hệ bán đấu giá tài sản do có rất nhiều bên có quyền, lợi ích
liên quan nên việc bảo đảm quyền và lợi ích của các bên luôn được dung hòa.
Người mua được tài sản sau khi thanh toán tiền cho tổ chức bán đấu giá thì
được nhận tài sản và được thực hiện đầy đủ có quyền của mình theo hợp đồng
bán đấu giá tài sản. Họ được quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền
sử dụng tài sản trong mọi trường hợp dù người sở hữu tài sản có chây ỳ,
không chịu bàn giao giấy tờ sở hữu tài sản. Trong trường hợp tài sản bán đấu

giá là tài sản do cơ quan THADS kê biên thì số tiền bán tài sản được tổ chức
bán đấu giá chuyển lại cho cơ quan THADS địa phương sau khi thanh toán
các khoản phí và chi phí bán đấu giá tài sản. Cơ quan THADS thực hiện thi
hành đầy đủ bản án, quyết định của Tòa án (chi trả cho người được thi hành
án), khấu trừ chi phí tổ chức cưỡng chế thi hành án và bàn giao số tiền còn lại
cho người phải thi hành án (chính là chủ sở hữu tài sản ban đầu). Như vậy, có
thể thấy rằng nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên được gắn liền
với các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia quan hệ bán
đấu giá tài sản.

15


- Cuộc đấu giá phải do đấu giá viên điều hành, trừ trường hợp cuộc đấu
giá do Hội đồng đấu giá tài sản thực hiện.
Theo nguyên tắc này thì mọi phiên bán đấu giá tài sản, tài sản phải do
đấu giá viên điều hành theo đúng trình tự, thủ tục quy định trong Luật Đấu giá
tài sản thì phiên đấu giá mới có giá trị và được pháp luật công nhận. Nếu đấu
giá viên không đủ điều kiện thì đương nhiên phiên bán đấu giá đó sẽ bị hủy,
quyền và nghĩa vụ của các bên không được thiết lập. Bên nào có lỗi trong việc
để xảy ra tình trạng này thì sẽ phải bồi thường thiệt hại cho người trúng đấu
giá mà không mua được tài sản.
Việc tuân thủ các nguyên tắc bán đấu giá tài sản giúp cho phương thức
này đem lại lợi ích hơn cả cho người bán tài sản và người mua tài sản. Nó tạo
ra cơ hội bình đẳng cho những người mua tài sản cùng tham gia trả giá, qua
đó người bán tài sản bán được ở mức giá cao nhất. nhờ hoạt động bán đấu giá
mà hàng hóa đến được tay người mua có nhu cầu và hàng hóa được xác định
đúng giá trị thực.
1.2.4. Mối quan hệ pháp pháp luật bán đấu giá tài sản với các lĩnh
vực pháp luật có liên quan

- Pháp luật bán đấu giá tài sản với pháp luật dân sự
Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 (Bộ luật
dân sự 2015) chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2017. Trong
đó quy định về: Các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm, Các phương thức xử
lý tài sản cầm cố, thế chấp như sau:
Các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm
Điều 299, Bộ luật dân sự 2015 quy định các trường hợp mà bên nhận
bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm. Các trường hợp này bao gồm:
Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện

16


nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận
hoặc theo quy định của luật. Trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc
luật có quy định.
Theo quy định tại Điều 90, Luật thi hành án dân sự năm 2008, được
bổ sung, sửa đổi năm 2014, trường hợp người phải thi hành án không còn tài
sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, chấp hành viên
có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế
chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí
cưỡng chế thi hành án. Ngoài ra, các bên cũng có thể thỏa thuận về một số
trường hợp xử lý tài sản bảo đảm khác, như khi bên vay vi phạm một nghĩa
vụ nào đó của hợp đồng vay hay bên bảo đảm vi phạm một nghĩa vụ nào đó
nêu trong hợp đồng bảo đảm.
Các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp
Nguyên tắc chung - Theo quy định tại khoản 1, Điều 303 Bộ luật dân
sự, các bên có thể thỏa thuận một trong các phương thức xử lý tài sản cầm cố,
thế chấp sau đây: Bán đấu giá tài sản; Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản; Bên

nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của
bên bảo đảm; Phương thức khác.
Trong trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản
bảo đảm thì tài sản sẽ được bán đấu giá (khoản 2, Điều 303).
Quy định về bán đấu giá tài sản trong Bộ luật dân sự đã chính thức
công nhận việc bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có thể thỏa thuận trong
hợp đồng bảo đảm về việc bán đấu giá tài sản để xử lý tài sản bảo đảm. Như
vậy, phương thức bán đấu giá tài sản có thể được sử dụng để xử lý tài sản bảo
đảm trong ba trường hợp chính, đó là: nếu các bên có thỏa thuận sử dụng
phương thức xử lý bảo đảm này, bán tài sản đã kê biên là động sản có giá trị
từ 2.000.000 đồng và bất động sản (Điều 101, Luật thi hành án dân sự), trong

17


×