ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ HẢI LONG
VAI TRÒ CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ
MINH
TRONG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN
CÔNG NHÂN QUA THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ HẢI LONG
VAI TRÒ CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ
MINH
TRONG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN
CÔNG NHÂN QUA THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƢƠNG
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 8380101.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS HOÀNG THỊ KIM QUẾ
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Lê Hải Long
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ CỦA TỔ
CHỨC ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TRONG
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN CÔNG NHÂN.................. 7
1.1.
Khái quát về tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ............7
1.2.
Những khái niệm cơ bản về giáo dục pháp luật .....................................10
1.2.1.
Khái niệm về giáo dục pháp luật .................................................................10
1.2.2.
Đặc điểm giáo dục pháp luật .......................................................................13
1.2.3.
Một số yếu tố tác động đến giáo dục pháp luật ...........................................28
1.3.
Giáo dục pháp luật của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh đối với thanh niên công nhân ..................................................32
1.3.1.
Khái niệm giáo dục pháp luật của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh đối với thanh niên công nhân ................................................32
1.3.2.
Mục đích giáo dục pháp luật của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh đối với thanh niên công nhân ................................................32
1.3.3.
Chủ thể giáo dục pháp luật của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh đối với thanh niên công nhân .............................................................32
1.3.4.
Đối tƣợng giáo dục pháp luật của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh đối với thanh niên công nhân ................................................34
1.3.5.
Nội dung giáo dục pháp luật của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh đối với thanh niên công nhân ................................................35
1.3.6.
Hình thức giáo dục pháp luật của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh đối với thanh niên công nhân ................................................36
1.4.
Nội dung cơ bản về vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh trong việc giáo dục pháp luật cho thanh niên
công nhân....................................................................................................37
1.4.1.
1.4.2.
1.4.3.
1.4.4.
Đoàn thanh niên là chủ thể không thể thiếu trong quá trình hiện thực hóa
các mục tiêu của hoạt động giáo dục pháp luật đối với thanh niên công nhân ....37
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đóng vai trò trực tiếp thực
hiện công tác giáo dục pháp luật cho thanh niên công nhân .......................42
Đoàn thanh niên đóng vai trò phối hợp với các chủ thể khác trong việc
giáo dục pháp luật cho thanh niên công nhân..............................................42
Đoàn thanh niên đóng vai trò kết nối trong quá trình giáo dục pháp
luật cho thanh niên công nhân .....................................................................43
Các yếu tố tác động đến giáo dục pháp luật của tổ chức Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đối với thanh niên công nhân ......44
Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................................47
1.5.
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC ĐOÀN THANH NIÊN
CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TRONG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
THANH NIÊN CÔNG NHÂN - NGHIÊN CỨU TẬP TRUNG TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƢƠNG ..............................................................48
Khái quát về tỉnh Bình Dƣơng và tổ chức Đoàn Thanh niên trong
công tác giáo dục pháp luật cho thanh niên công nhân trên địa bàn
tỉnh Bình Dƣơng .........................................................................................48
2.2.
Thực trạng vai trò của đoàn thanh niên trên phạm vi cả nƣớc và
trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng trong công tác giáo dục pháp luật
cho thanh niên công nhân .........................................................................51
2.2.1. Đoàn thanh niên trong vai trò trực tiếp thực hiện hoạt động giáo dục
pháp luật cho thanh niên công nhân ............................................................51
2.2.2. Đoàn thanh niên trong vai trò phối hợp với các chủ thể khác giáo dục
pháp luật cho thanh niên công nhân ............................................................52
2.2.3. Đoàn thanh niên trong vai trò kết nối trong quá trình giáo dục pháp
luật cho thanh niên công nhân .....................................................................55
2.2.4. Đánh giá thực trạng vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh trong giáo dục pháp luật cho thanh niên công nhân ..............56
2.2.5. Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế ...............................................62
2.2.6. Những khó khăn, thách thức đặt ra với vai trò của tổ chức Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong giáo dục pháp luật cho
thanh niên công nhân ...................................................................................65
Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................................67
2.1.
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ ĐẢM BẢO VAI
TRÒ CỦA TỔ CHỨC ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ
CHÍ MINH TRONG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO THANH
NIÊN CÔNG NHÂN TRÊN PHẠM VI CẢ NƢỚC VÀ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƢƠNG ..............................................................68
3.1.
Quan điểm cơ bản về đảm bảo vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh trong giáo dục pháp luật cho thanh niên
công nhân trên phạm vi cả nƣớc và trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng .........68
3.1.1.
Giáo dục pháp luật của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh đối với thanh niên công nhân phải đảm bảo tính thƣờng xuyên,
liên tục, lấy thanh niên công nhân làm trung tâm........................................68
3.1.2.
Giáo dục pháp luật của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
đối với thanh niên công nhân phải chú trọng đến việc xây dựng, hình
thành ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật của thanh niên công nhân .............70
3.1.3.
Giáo dục pháp luật của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh đối với thanh niên công nhân là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi .......................71
3.1.4.
Giáo dục pháp luật của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh đối với thanh niên công nhân phải gắn với giáo dục chính trị, tƣ
tƣởng, đạo đức .............................................................................................71
3.2.
Giải pháp cơ bản về đảm bảo vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh trong giáo dục pháp luật cho thanh niên công
nhân trên phạm vi cả nƣớc và trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng ................... 73
Những giải pháp chung về đảm bảo vai trò của tổ chức Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong giáo dục pháp luật cho thanh niên
công nhân trên phạm vi cả nƣớc ..................................................................73
3.2.2. Những giải pháp về đảm bảo vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh trong giáo dục pháp luật cho thanh niên công
nhân trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng .............................................................86
Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................................96
3.2.1.
KẾT LUẬN ..............................................................................................................97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................99
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GDPL:
Giáo dục pháp luật
TNCN:
Thanh niên công nhân
TNCS:
Thanh niên Cộng sản
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên Việt
Nam, do Đảng Cộng Sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và
rèn luyện. Đoàn là đội quân xung kích cách mạng tích cực tham gia xây dựng Đảng
và là ngƣời kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng của Bác Hồ.
Đây là trƣờng học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, tạo môi trƣờng đƣa thanh niên
vào các hoạt động học tập, rèn luyện và phát triển nhân cách và năng lực của ngƣời
lao động mới phù hợp với xã hội hiện đại.
Tổ chức Đoàn có vai trò, trách nhiệm to lớn trong công tác giáo dục đạo
đức, GDPL cho đoàn viên, thanh niên. Trong khu công nghiệp nói riêng, vai trò
của các tổ chức đoàn các cấp về GDPL cho đoàn viên thanh niên lại càng có tầm
quan trọng đặc biệt.
Tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt
động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật của nƣớc cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam; tích cực phối hợp với các cơ quan Nhà nƣớc, các đoàn thể và tổ chức xã
hội chăm lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh thiếu nhi và tham gia các hoạt động
quản lý nhà nƣớc. Trong quá trình hoạt động của mình, tổ chức Đoàn cả nƣớc nói
chung và tổ chức Đoàn ở các địa phƣơng nói riêng luôn coi nhiệm vụ tuyên truyền,
giáo dục và nâng cao nhận thức về mọi mặt và đặc biệt là nâng cao nhận thức về
GDPL cho thanh niên là nhiệm vụ quan trọng, thƣờng xuyên của các cấp bộ Đoàn
và xuyên suốt trong công tác xây dựng, tổ chức Đoàn vững mạnh. Vấn đề này đã
đƣợc khẳng định trong nhiều nghị quyết, chủ trƣơng công tác, chỉ thị và các kế
hoạch của tổ chức Đoàn các cấp.
Bình Dƣơng là tỉnh thuộc khu vực miền Đông Nam bộ, cơ cấu hành chính có
01 thành phố thuộc tỉnh, 04 thị xã và 04 huyện, với 91 xã, phƣờng, thị trấn; diện
tích tự nhiên là 2.695,22 km2, dân số tính đến tháng 5/2016 là 1.939.970 ngƣời,
trong đó thanh niên trong độ tuổi từ 16-30 là 826.089 ngƣời, chiếm 41,61% dân số
(nữ thanh niên là 415.759 ngƣời, chiếm 58,39%). Trong 5 năm qua kinh tế của tỉnh
1
đã đạt đƣợc nhiều thành tựu khả quan, tốc độ GDP tăng bình quân là 13%/năm. Có
sự chuyển dịch tăng tỷ trọng công nghiệp, giảm tỷ trọng nông nghiệp, đến năm
2015 cơ cấu kinh tế của tỉnh đƣợc chuyển dịch theo định hƣớng công nghiệp, dịch
vụ và nông nghiệp, với tỷ trọng tƣơng ứng là 60% - 37,3% - 2,7%. GDP bình quân
đầu ngƣời đến cuối năm 2015 là 95,6 triệu đồng/ngƣời/năm, so với Nghị quyết
Đảng bộ đề ra trong nhiệm kỳ là 63,2 triệu đồng/ngƣời/năm, đạt 151,26% [50].
Tính đến cuối tháng 6/2016, toàn tỉnh có 29 khu công nghiệp, 8 cụm công
nghiệp đã đi vào hoạt động, thu hút hơn 21.000 doanh nghiệp vốn trong nƣớc và
hơn 2.700 dự án vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, với hơn 920.000 lao động, trong đó các khu
công nghiệp chiếm hơn 410.000 lao động, lao động nữ chiếm khoảng 56%, TNCN
nhập cƣ chiếm khoảng 85% [50]. Với số lƣợng doanh nghiệp và lao động nhƣ trên,
các cấp ủy đảng, chính quyền, sở, ban, ngành, đoàn thể trong đó có tổ chức công
đoàn đã tham gia phối phợp, có nhiều chính sách, giải pháp hỗ trợ, chăm lo tốt đời
sống vật chất và tinh thần cho TNCN nói chung và TNCN nhập cƣ nói riêng.
Cùng với tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh, dân số cơ ho ̣c ngày càng tăng làm
thay đổi cơ cấu và tạo sự đa dạng hóa thành phần lao động của tỉnh, tỷ lệ lao động
nông thôn ngày càng giảm, lao động công nghiệp, dịch vụ tăng khá nhanh (bổ sung số
liệu); thanh niên lao động ngoài tỉnh chiếm đa số trong thành phần lao động của tỉnh.
Với lực lƣợng lao động ngoài tỉnh (trong đó đa số là thanh niên) chiếm tỷ lệ khá cao
(khoảng 1/3 tổng dân số), đã có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển kinh
tế xã hội của tỉnh, nhƣng cũng phát sinh nhiều vấn đề xã hội ảnh hƣởng đến công tác
quản lý của nhiều ngành, nhiều cấp, đặc biệt là vấn đề vi phạm pháp luật trong TNCN
có ảnh hƣởng rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Đƣợc sự quan tâm, hỗ trợ của các cấp, các ngành nên môi trƣờng làm việc,
sinh sống của TNCN liên tục đƣợc cải thiện chất lƣợng. Nhìn chung, TNCN có
những phẩm chất tốt đẹp của thanh niên Việt Nam: cần cù, chịu khó, có ý chí phấn
đấu vƣơn lên, chuyên tâm làm việc, từng bƣớc ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, đời
sống TNCN vẫn còn rất khó khăn trong mặt bằng chung của xã hội, vẫn còn một số
lƣợng lớn TNCN chƣa đƣợc thụ hƣởng các chƣơng trình, chính sách, nguồn lực
2
chăm lo của tỉnh. Hiện tại, công nhân đang làm việc tại Bình Dƣơng đa phần sống
trong các khu nhà trọ do ngƣời dân tự xây dựng, đời sống còn gặp nhiều khó khăn cả
về vật chất, tinh thần, ít đƣợc tiếp cận với các thông tin chính thống và các chính sách
an sinh xã hội của tỉnh, trình độ và tay nghề thấp, tác phong công nghiệp yếu, thiếu
kỹ năng sống - kỹ năng thực hành xã hội, cơ sở vật chất, hạ tầng xã hội phục vụ cho
công nhân chƣa đáp ứng yêu cầu. Bên cạnh đó, tình trạng TNCN vi phạm luật giao
thông hoặc bị lôi kéo, xúi giục, kích động gây mất an ninh trật tự, thực hiện các hành
vi vi phạm pháp luật còn nhiều; một bộ phận không nhỏ TNCN thiếu và yếu về kiến
thức, tin học, ngoại ngữ; con em của TNCN chƣa có điều kiện đƣợc học tập, chăm lo
tốt nhất… điều này cũng gây ảnh hƣởng không nhỏ đến nguồn lao động chất lƣợng
cao đáp ứng nhu cầu phát triển của tỉnh Bình Dƣơng trong tƣơng lai.
Trong những năm qua, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bình Dƣơng luôn
đƣợc đánh giá là tổ chức Đoàn có chất lƣợng phong trào thƣờng xuyên đứng trong
nhóm 5 tỉnh, thành dẫn đầu cả nƣớc, với nhiều mô hình, giải pháp sáng tạo trong
triển khai phong trào và giáo dục đoàn viên, thanh niên. Với vai trò là trƣờng học xã
hội chủ nghĩa của thanh niên, có thể xác định chức năng giáo dục của Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh, trong đó công tác GDPL là một trong những nội dung đƣợc đặt lên
hàng đầu trong việc thiết kế các chƣơng trình, phong trào của tổ chức Đoàn.
Là một cán bộ Đoàn từng đƣợc Trung ƣơng Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cử đi
công tác tại cơ sở, gắn bó với đoàn viên, thanh niên tỉnh Bình Dƣơng trong thời
gian gần 2 năm với nhiệm vụ là Phó Bí thƣ Tỉnh đoàn Bình Dƣơng, tôi nhận thấy
việc tập trung cho công tác GDPL, nâng cao nhận thức pháp luật và ý thức chấp
hành pháp luật cho TNCN hết sức quan trọng, đặc biệt, qua vụ việc Trung Quốc hạ
đặt trái phép dàn khoan Hải Dƣơng 981 trên vùng biển của nƣớc ta năm 2014 và các
vụ việc liên quan đến vấn đề môi trƣờng tại Công ty Formosa, Hà Tĩnh, sự việc
Quốc hội khóa XIV dự kiến thông qua dự thảo Luật Đơn vị hành chính – kinh tế
đặc biệt, việc GDPL cũng nhƣ nắm bắt tình hình TNCN của tỉnh Bình Dƣơng có
thời điểm chƣa thực sự tốt dẫn tới những sự việc đáng tiếc, gây ảnh hƣởng đến an
ninh chính trị, sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói riêng và cả nƣớc nói chung.
3
Vì vậy, đề tài “Vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong giáo dục pháp
luật cho thanh niên công nhân - qua thực tiễn tại tỉnh Bình Dương” thực sự cần
thiết để đề ra những giải pháp hiệu quả trong công tác GDPL cho TNCN của tỉnh
Bình Dƣơng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nâng cao nhận thức về pháp luật cho thế hệ trẻ nói chung và đối tƣợng
TNCN nói riêng là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là vấn đề đã đang và đƣợc
các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý quan tâm và đã cho ra đời những công trình
nghiên cứu có nội dung liên quan. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế - xã hội đang
diễn ra mạnh mẽ, sự chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông thôn tới các địa bàn có
nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất đang là xu hƣớng phổ biến, thì việc GDPL cho
TNCN vẫn chƣa thực sự đƣợc nhiều địa phƣơng quan tâm, đầu tƣ bài bản và có
những giải pháp đồng bộ.
Đến nay chƣa có một công trình nghiên cứu nào đề cập đến vai trò của tổ
chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong việc GDPL cho TNCN nói chung và cho
thanh niên ở tỉnh Bình dƣơng nói riêng. Tuy vậy, liên quan đến lĩnh vực đề tài luận
văn, cũng đã có khá nhiều luận văn có giá trị tham khảo hữu ích. Xin điểm đến một
số luận văn dƣới đây:
- Đề tài của tác giả Nguyễn Minh Thơ: “Vai trò của tổ chức Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh ở tỉnh Lạng Sơn trong GDPL cho thanh niên”.
- Đề tài của tác giả Vũ Thị Hồng Vân: “Hoàn thiện chương trình GDPL
trong các trường cao đẳng kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay”.
- Vũ Thị Thu Huyền: “Thực hiện pháp luật về giáo dục của các trường đại
học, cao đẳng ở tỉnh Nam Định”.
- Nguyễn Thị Phƣơng Dung: “GDPL cho sinh viên các trường đại học không
chuyên luật ở Việt Nam hiện nay”.
- Thiều Thị Tuyết Trinh: “Vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong xây
dựng ý thức pháp luật cho thanh niên ở Việt Nam hiện nay”.
Các luận văn trên có đề cập đến công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến
4
pháp luật trong một số đối tƣợng, lĩnh vực, địa bàn, chƣa có đề tài nào tập trung vào
nội dung nghiên cứu về GDPL cho TNCN, là một mảng mới và chƣa có nhiều chất
liệu thực tiễn, giải pháp đồng bộ trong cả nƣớc.
3. Mục đích của luận văn
Luận văn có mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của
tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong GDPL cho TNCN. Nghiên cứu thực tiễn
GDPL do các tổ chức đoàn ở tỉnh Bình Dƣơng đối với TNCN. Từ đó đề xuất những
giải pháp chủ yếu về nâng cao chất lƣợng, hiệu quả GDPL của tổ chức đoàn cho
TNCN ở cả nƣớc nói chung và ở tỉnh Bình dƣơng nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
- Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài luận văn là vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh trong GDPL cho TNCN - qua thực tiễn tỉnh Bình Dƣơng.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn:
Phạm vi về nội dung: luận văn tập trung nghiên cứu vai trò của Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh trong GDPL cho TNCN.
Phạm vi về không gian: thực tiễn về GDPL cho TNCN của tổ chức Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bình Dƣơng.
Phạm vi về thời gian: từ năm 2015 đến năm 2018.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích, đối tƣợng của đề tài, luận văn có những nhiệm vụ
chính sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của tổ chức đoàn trong
giáo dục, phổ biến pháp luật cho TNCN.
- Nghiên cứu các đặc điểm cơ bản của giáo dục, phổ biến pháp luật cho
TNCN do các tổ chức đoàn thực hiện;
- Nghiên cứu các yếu tố có vai trò tác động đến giáo dục, phổ biến pháp luật
cho TNCN do các tổ chức đoàn thực hiện;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng GDPL của các tổ chức đoàn cho TNCN tại
các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng;
5
- Nghiên cứu các điều kiện, yêu cầu và mục đích đặt ra đối với công tác
GDPL cho TNCN trong giai đoạn hiện nay;
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả GDPL
cho TNCN trong cả nƣớc nói chung và ở tỉnh Bình dƣơng nói riêng.
6. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
Luận văn đƣợc xây dựng trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật, tuyên truyền và GDPL. Phƣơng pháp
luận trong nghiên cứu là phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
triết học Mác - Lênin.
Luận văn sử dụng kết hợp các phƣơng pháp khoa học chính nhƣ phƣơng
pháp phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học; phƣơng pháp lịch sử cụ thể xem xét
các vấn đề liên quan đến việc thực hiện vai trò của tổ chức Đoàn trong GDPL cho
thanh niên nói chung và TNCN nói riêng; phƣơng pháp khảo sát thực tế sử dụng
trong các vấn đề cần có những thông tin từ thực tế của đội ngũ cán bộ Đoàn và đoàn
viên, TNCN của tỉnh Bình Dƣơng.
7. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu tƣơng đối có hệ thống về vai trò của tổ
chức Đoàn trong việc nâng cao nhận thức pháp luật cho đối tƣợng TNCN tỉnh Bình
Dƣơng. Góp phần khẳng định và đƣa ra những giải pháp mới, hiệu quả trong việc
giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho TNCN để các địa phƣơng là địa
bàn có nhiều khu công nghiệp, đông TNCN cùng tham khảo.
6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC
ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TRONG
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN CÔNG NHÂN
1.1. Khái quát về tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
- Khái niệm về tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Trong hệ thống chính trị của nƣớc ta, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là một tổ
chức chính trị - xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng
Cộng sản Việt Nam, là lực lƣợng xung kích cách mạng, trƣờng học xã hội chủ nghĩa
của thanh niên, đại diện chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của tuổi
trẻ; phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh; là lực lƣợng nòng cốt chính
trị trong phong trào thanh niên và trong các tổ chức thanh niên Việt Nam [36].
Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, tự nguyện phấn đấu vì sự nghiệp
xây dựng nƣớc Việt Nam độc lập, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo
định hƣớng chủ nghĩa xã hội. Đƣợc xây dựng, rèn luyện và trƣởng thành qua các
thời kỳ đấu tranh cách mạng, tổ chức Đoàn đã tập hợp đông đảo thanh niên phát
huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nƣớc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [36].
Đoàn đẩy mạnh tổ chức các hoạt động tạo môi trƣờng bồi dƣỡng, rèn luyện
kỹ năng, nghiệp vụ và phát huy thế mạnh của thanh niên, thông qua đó tuyên
truyền, giáo dục cho thanh niên các chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nƣớc, lòng yêu nƣớc, tự hào dân tộc, ý chí vƣơn lên, tạo điều
kiện cho thanh niên đảm nhận các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững
quốc phòng, an ninh; đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp, tích cực hƣớng
dẫn, hỗ trợ thanh niên lập thân, lập nghiệp bằng các hình thức thiết thực, hiệu quả.
Là thành viên của hệ thống chính trị, Đoàn hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong hệ thống này, Đảng
7
là lực lƣợng lãnh đạo, Đoàn là một trong các tổ chức thành viên tạo nên quyền lực
của nhân dân theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Với vị trí này, Đoàn sẽ phối hợp với các cơ quan Nhà nƣớc, các đoàn thể, tổ chức
xã hội, các tập thể lao động và gia đình chăm lo, giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh
thiếu niên; tổ chức cho đoàn viên và thanh niên tích cực tham gia vào việc quản lý
Nhà nƣớc và xã hội. Nghị quyết số 25, Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung
ƣơng Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh
niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khẳng định yêu cầu Đảng
lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Xây
dựng Đoàn vững mạnh là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, là
xây dựng Đảng trƣớc một bƣớc.
- Khái niệm về thanh niên
Thanh niên là một lực lƣợng xã hội đông đảo, đóng vai trò đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển của bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Về khái niệm,
“Thanh niên” là một khái niệm mang tính toàn cầu, tuy nhiên trên thế giới chƣa có
một định nghĩa thống nhất về vấn đề này. Khái niệm “thanh niên” đƣợc các quốc
gia định nghĩa khác nhau tùy thuộc vào yếu tố văn hóa, điều kiện kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, những định nghĩa này đều có điểm chung đó là xác định thanh niên là
một thời kỳ chuyển tiếp, thời kỳ lứa tuổi đang phát triển, đang trƣởng thành.
Ở nƣớc ta, theo Luật Thanh niên 2005, thanh niên đƣợc hiểu là công dân
Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi [19, Điều 1]. Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
qui định tuổi đoàn viên từ 16 đến 30 tuổi. Thanh niên Việt Nam giữ vai trò quan
trọng trong tiến trình lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc, trong sự phát triển kinh tế - xã
hội, trong đời sống chính trị và nền văn hoá của đất nƣớc. Thanh niên đang là lực
lƣợng xã hội to lớn của hiện tại và là chủ thể sáng tạo của tƣơng lai, họ không chỉ là
một lực lƣợng quan trọng của xã hội, mà họ là ngày mai của xã hội. Vị trí, vai trò
của thanh niên Việt Nam đƣợc xác định từ chính đặc điểm lứa tuổi thanh niên, từ
tƣơng quan lực lƣợng lao động phát triển kinh tế - xã hội đất nƣớc và từ trong thực
tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam.
8
Hiện nay, thanh niên Việt Nam (16 - 30 tuổi) có trên 23,6 triệu ngƣời, chiếm
25,2% dân số cả nƣớc [37]. Bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc và hội nhập quốc tế, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tƣ nhân mang đến cả thời cơ và thách thức
đối với thanh niên. Những năm tới, dân số thanh niên tiếp tục có xu hƣớng giảm dần.
Thanh niên ngày càng có điều kiện, cơ hội học tập, tiếp cận với khoa học công nghệ
nên tỷ lệ thanh niên đƣợc đào tạo chuyên môn tăng. Lao động trẻ trong khu vực công
nghiệp và dịch vụ, làm việc trong các doanh nghiệp tƣ nhân, doanh nghiệp có vốn
đầu tƣ nƣớc ngoài ngày càng tăng, trong nông nghiệp ngày càng giảm. Tuy nhiên,
tình hình vi phạm pháp luật, mắc tệ nạn xã hội trong thanh niên diễn biến phức tạp.
Kỹ năng nhiều mặt của thanh niên còn hạn chế, chƣa đáp ứng yêu cầu hội nhập. Đời
sống văn hóa tinh thần của phần lớn thanh niên, nhất là TNCN chƣa đƣợc đáp ứng
đầy đủ. Một bộ phận thanh niên còn dao động, giảm sút niềm tin, phai nhạt lý
tƣởng, xa rời truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; sống thực dụng, lƣời học
tập, lao động. Bối cảnh đó, đòi hỏi Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phải thƣờng xuyên cổ
vũ, động viên, khuyến khích và phát huy lớp thanh niên tiên tiến; tập trung chăm lo,
giáo dục nhóm thanh niên yếu thế vƣợt qua khó khăn, vƣơn lên trong cuộc sống.
- Khái niệm về thanh niên công nhân
Tại Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa
X, Đảng ta đã khẳng định “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lƣợng xã hội to
lớn, đang phát triển, bao gồm những ngƣời lao động chân tay và trí óc, làm công
hƣởng lƣơng trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc
sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” [3].
Nhƣ vậy, từ quy định về thanh niên theo Luật Thanh niên 2005 và theo
nhận thức của Đảng về giai cấp công nhân Việt Nam, có thể hiểu: TNCN là
những công dân Việt Nam có độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi đang lao động
chân tay và trí óc, làm công hƣởng lƣơng trong các loại hình sản xuất kinh doanh
và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công
nghiệp. Trong đối tƣợng TNCN cũng có một số bộ phận là đoàn viên Đoàn
9
TNCS Hồ Chí Minh. Là trƣờng học xã hội chủ nghĩa của thanh niên Việt Nam,
nên công tác giáo dục của Đoàn không chỉ đối với thanh niên đang là đoàn viên
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh mà còn giáo dục, bồi dƣỡng đối tƣợng thanh niên
chƣa phải là đoàn viên. Vì vậy, trong phạm vi của luận văn, việc phổ biến,
GDPL đƣợc hƣớng tới tất cả đối tƣợng TNCN, trong đó kể cả thanh niên là đoàn
viên hay không là đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
1.2. Những khái niệm cơ bản về giáo dục pháp luật
1.2.1. Khái niệm về giáo dục pháp luật
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm GDPL. Có quan điểm
cho rằng không cần phải đặt ra vấn đề GDPL vì những ngƣời có quan điểm này cho
rằng pháp luật là những quy tắc bắt buộc chung do đó không cần đặt ra vấn đề
GDPL. Có quan điểm cho rằng GDPL chỉ là một bộ phận của giáo dục chính trị, tƣ
tƣởng, đạo đức vì thế mà họ cho rằng chỉ cần tiến hành giáo dục chính trị, tƣ tƣởng
hay đạo đức thì tự khắc trên thực tế sẽ có đƣợc "sản phẩm phụ" là một công dân với
ý thức pháp luật cao. Chính vì vậy đã dẫn đến việc chậm chạp trong việc đƣa môn
GDPL vào giảng dạy trong trƣờng học. Một quan điểm khác lại đồng nhất GDPL
với tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu các văn bản pháp luật. Theo quan điểm này thì
việc GDPL chẳng qua chỉ là các đợt tuyên truyền, giới thiệu các văn bản pháp luật
mới hoặc khi cần thiết.
Các quan niệm trên đều đánh giá chƣa đầy đủ về vai trò của GDPL, chƣa
thấy đƣợc vai trò của GDPL trong đời sống xã hội, trong công cuộc xây dựng, hội
nhập và phát triển hiện nay. Để xây dựng khái niệm GDPL trƣớc hết chúng ta phải
đi từ khái niệm giáo dục.
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có
hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tƣợng nào đó làm cho đối
tƣợng ấy dần dần có những phẩm chất và năng lực nhƣ yêu cầu đề ra" [45].
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống qui phạm pháp luật thể ý chí của nhân
dân, đƣợc Nhà nƣớc ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết
phục, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
10
Theo GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế:
Xét về bản chất, giáo dục pháp luật là hoạt động có tổ chức, có
định hƣớng, có hệ thống, có kế hoạch do các cơ quan, tổ chức, cộng đồng
và cá nhân (chủ thể giáo dục) thực hiện nhằm mục đích xây dựng ý thức
pháp luật, văn hóa pháp luật ở các cá nhân với nội dung trang bị kiến
thức pháp luật cần thiết, xây dựng thái độ, tình cảm tôn trọng, hiểu biết
giá trị, ý nghĩa của pháp luật, các quyền, nghĩa vụ pháp luật, thói quen
tuân thủ và sử dụng pháp luật [18, tr. 453].
Giáo dục pháp luật là cầu nối để đƣa pháp luật vào đời sống nhân dân, làm
cho nhân dân hiểu đƣợc nội dung, ý nghĩa, mục đích của những qui phạm pháp luật
hiện hành, từ đó hình thành tình cảm, niềm tin và thói quen tự giác thực hiện
nghiêm chỉnh pháp luật. GDPL có vị trí, vai trò rất quan trọng, là một khâu không
thể thiếu trong quá trình tổ chức và thực hiện pháp luật.
Khái niệm GDPL thƣờng đƣợc hiểu ở hai cấp độ khác nhau: "Theo nghĩa rộng,
GDPL là quá trình hình thành ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của các thành
viên xã hội, quá trình đó chịu sự tác động của những điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan, trong đó điều kiện khách quan (chế độ chính trị, điều kiện kinh tế, văn
hóa xã hội, môi trƣờng sống…) là nhân tố ảnh hƣởng, nó có thể tác động tự phát
theo chiều tích cực hoặc tiêu cực, còn nhân tố chủ quan bao giờ cũng là sự tác động
tự giác, tích cực, có ý thức, có chủ định theo chiều hƣớng xác định nhằm đạt đƣợc
mục đích của chủ thể tác động.
Theo nghĩa hẹp, GDPL là hoạt động có định hƣớng, có tổ chức, có chủ định
của cơ quan, tổ chức và cá nhân (chủ thể giáo dục) tác động lên đối tƣợng giáo dục
nhằm cung cấp tri thức pháp luật, bồi dƣỡng tình cảm pháp luật và thói quen tuân
thủ pháp luật.
Hiểu GDPL nhƣ vậy phù hợp với khái niệm giáo dục thƣờng đƣợc sử dụng
trong khoa học sƣ phạm: Giáo dục là quá trình tác động có định hƣớng của nhân tố
chủ quan (con ngƣời) lên đối tƣợng giáo dục nhằm đạt đƣợc mục đích nhất định.
GDPL có nội hàm hẹp hơn so với sự hình thành ý thức pháp luật và nó chỉ là
một bộ phận của quá trình hình thành ý thức pháp luật.
11
GDPL cần phân biệt với khái niệm giáo dục nói chung. GDPL là hình thức
giáo dục cụ thể, là cái riêng, cái đặc thù trong mối quan hệ với giáo dục nói chung,
là cái chung, cái phổ biến. Vì vậy, GDPL có những nét đặc thù khác một cách tƣơng
đối với các dạng giáo dục khác, cụ thể nhƣ:
- GDPL có mục đích riêng của mình là nhằm cung cấp cho đối tƣợng giáo
dục tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật và thói quen xử sự hợp pháp, làm cho
công dân tự giác chấp hành pháp luật, duy trì trật tự xã hội phù hợp với ý chí của
nhà nƣớc và lợi ích của nhân dân.
- GDPL có nội dung riêng, đó là sự chuyền tải những tri thức của hai hiện
tƣợng nhà nƣớc và pháp luật, trong đó những qui định của hệ thống pháp luật hiện
hành của nhà nƣớc là nội dung cơ bản.
- Xét trên các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tƣợng, hình thức, phƣơng pháp
của GDPL cũng có những nét riêng, nhƣ xét về đối tƣợng GDPL là tất cả quần
chúng nhân dân (mọi công dân), còn hình thức giáo dục khác sẽ chỉ là một đối
tƣợng cụ thể nào đó.
Từ những phân tích trên ta có thể đƣa ra khái niệm GDPL nhƣ sau: Giáo dục
pháp luật là hoạt động có chủ định, có định hướng, có tổ chức của cơ quan, tổ chức
và cá nhân để cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm cho đối tượng giáo
dục nhằm hình thành ở họ ý thức pháp luật, niềm tin pháp luật, thói quen chấp hành
và sử dụng pháp luật một cách tự giác, tích cực, chủ động.
GDPL có mục đích là hoạt động nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói
quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật, tạo cho công dân tự giác tuân thủ
thi hành pháp luật, có ý thức pháp luật cao, góp phần tăng cƣờng hiệu quả của pháp
luật. Mục đích của GDPL là yếu tố hàng đầu tiên và quan trọng nhất để phân biệt
GDPL với các dạng hoạt động khác. GDPL góp phần hình thành và nâng cao văn
hóa pháp lý của từng cá nhân và toàn xã hội. Mặt khác GDPL nhằm hình thành, làm
sâu sắc và từng bƣớc mở rộng hệ thống tri thức pháp luật (mục đích nhận); hình
thành tình cảm và lòng tin với pháp luật (mục đích cảm xúc); hình thành động cơ,
hành vi và thói quen xử sự hợp pháp, tích cực cho công dân(mục đích hành vi).
12
GDPL có chủ thể, khách thể, đối tƣợng, hình thức và phƣơng pháp giáo dục
với những đặc điểm mang tính khác biệt. Đối tƣợng GDPL có vai trò chính trong
quá trình tác động qua lại giữa chủ thể giáo dục và đối tƣợng giáo dục.So với các
đối tƣợng giáo dục khác thì GDPL là quá trình tác động thƣờng xuyên, liên tục, lâu
dài hơn chứ không phải là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tƣợng giáo dục.
GDPL với ý nghĩa là một dạng giáo dục đặc thù, có vị trí độc lập tƣơng
đối, đƣợc hiểu là hoạt động cung cấp tri thức pháp luật, bồi dƣỡng tình cảm, thái
độ đúng đắn với pháp luật một cách có định hƣớng, có tình cảm, có chủ định lên
mỗi thành viên của xã hội, nhằm hình thành một cách bền vững ý thức pháp luật
luật và những thói quen tích cực trong mọi hành vi xử thế của công dân trong đời
sống xã hội.
GDPL trong TNCN là hoạt động mà khái niệm của nó không nằm ngoài khái
niệm GDPL nói chung.Vậy nên nó cũng tuân thủ những đặc điểm chung của GDPL.
1.2.2. Đặc điểm giáo dục pháp luật
GDPL là một dạng đặc biệt trong hoạt động giáo dục, là "cái riêng", "cái đặc
thù" trong mối quan hệ với cái chung", "cái phổ biến". Vì vậy mà GDPL vừa có những
nét chung của quá trình giáo dục, sử dụng các hình thức, phƣơng pháp của giáo dục
nói chung, lại vừa có những nét đặc thù. Đặc điểm của GDPL đƣợc thể hiện cụ thể
trên các mặt sau:
1.2.2.1. Mục đích của giáo dục pháp luật
- Mục đích cung cấp, từng bước làm sâu sắc và mở rộng hệ thống tri thức
pháp luật của công dân (mục đích nhận thức). Đây là mục đích quan trọng hàng đầu
của GDPL. Bởi vì sự hiểu biết có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phát
triển ý thức pháp luật, tƣ duy pháp lý và hình thành hành vi pháp luật tích cực ở con
ngƣời. Sự am hiểu pháp luật thực định, sự nhận thức đúng đắn về vai trò điều chỉnh
của pháp luật là điều kiện cần thiết để hình thành tình cảm và lòng tin vào pháp luật
ở mỗi công dân. Trong điều kiện nƣớc ta đang trong quá trình hội nhập và phát triển
GDPL càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế
trong xu thế hội nhập với các nƣớc thì việc nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân
13
trong đó phải chú ý nâng cao sự hiểu biết pháp luật càng trở nên quan trọng.Vì vậy,
Đảng và Nhà nƣớc ta hết sức coi trọng công tác GDPL để nâng cao trình độ hiểu
biết pháp luật trong nhân dân. Đánh giá về vai trò của GDPL, V.I. Lênin đã từng
xem sự hiểu biết pháp luật là điều kiện cần thiết để tiếp xúc với chính trị và văn hóa,
là cơ sơ của tính tích cực ở ngƣời lao động. Ngƣời cho rằng: sự am hiểu, trong đó
sự am hiểu pháp luật là điều kiện cần thiết mà thiếu nó không nên nói về chính trị.
Ngƣời mù thì đứng ngoài chính trị.
- Mục đích hình thành tình cảm và niềm tin đối với pháp luật (mục đích cảm
xúc). Mục đích này rất quan trọng vì nếu có tình cảm pháp luật mà không có tình
cảm tôn trọng và niềm tin vào pháp luật cũng nhƣ các cơ quan bảo vệ pháp luật con
ngƣời dễ hành động chệch khỏi các chuẩn mực pháp luật vì lợi ích riêng tƣ. GDPL
hình thành tình cảm và niềm tin vào pháp luật, là sự kích thích cảm thụ các thông
tin pháp lý, tri thức pháp luật.
Mục đích cảm xúc của hoạt động GDPL là việc giáo dục tình cảm công
bằng, tình cảm trách nhiệm, tình cảm không khoan nhƣợng và tình cảm pháp
chế.Tất cả những tình cảm này có quan hệ mật thiết và phụ thuộc lẫn nhau. Mục
đích cảm xúc của GDPL rất quan trọng. Nó giúp con ngƣời có niềm tin vững chắc
vào quy phạm pháp luật để từ đó có các hành vi tích cực thực hiện theo các chuẩn
mực pháp luật cũng nhƣ tích cực tham gia đấu tranh để cho các quy phạm pháp luật
đƣợc thực hiện triệt để trong cuộc sống, hình thành ở con ngƣời ý thức mọi quyết
định của mình phải dựa trên các quy định của pháp luật.
Thực tế cho thấy nhiều ngƣời có tri thức pháp luật nhƣng ở họ không có tình
cảm đúng đắn đối với pháp luật nên họ đã không xử sự đúng đắn theo đúng các quy
định của pháp luật. Nƣớc ta vốn chịu ảnh hƣởng nặng nề của tƣ tƣởng phong kiến
với hệ thống pháp luật tàn khốc, dã man, chà đạp lên nhân phẩm của con ngƣời, lại
thiếu những kiến thức pháp luật mới nên họ thực hiện pháp luật với thái độ e dè, sợ
hãi, họ không phát huy hết đƣợc quyền dân chủ của mình, hành vi của họ không
đƣợc dựa trên tình cảm và niềm tin vào pháp luật vì thế mà trong họ luôn âm ỉ cháy
tƣ tƣởng chống đối pháp luật, thờ ơ với pháp luật. Chính sự sợ hãi đó không bao giờ
14
dẫn con ngƣời đến những hành vi xử sự tích cực đối với pháp luật, nó đối lập với
dân chủ và hành vi tích cực của con ngƣời.
Trong thời gian qua, một bộ phận cán bộ, đảng viên nhất là những ngƣời có
chức, có quyền mặc dù ở họ có tri thức pháp luật nhƣng ở họ không có tình cảm pháp
luật đúng đắn nên có hành vi vi phạm pháp luật một cách cố ý thậm chí là tội phạm, ở
họ luôn tồn tại tình cảm khinh thƣờng pháp luật, đặt mình cao hơn các quy định của
pháp luật để đạt đƣợc những lợi ích cá nhân, thậm chí là những cán bộ đang công tác
tại các cơ quan bảo vệ pháp luật lại vi phạm pháp luật hết sức nghiêm trọng.
Sự hiểu biết pháp luật, sự hình thành niềm tin vững chắc vào sự cần thiết
tuân theo các quy định của pháp luật là mục đích quan trọng của GDPL. Lòng tin
vào tính công bằng của pháp luật luật sẽ hƣớng dẫn hành vi hợp pháp của con
ngƣời. Montesquieu trong "Tinh thần và pháp luật" đã nói đến tình yêu luật pháp và
theo ông, có thể định nghĩa chính trị là tình yêu luật pháp và tình yêu tổ quốc. Tình
yêu đó đòi hỏi luôn luôn đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân.
- Giáo dục pháp luật nhằm hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự
hợp pháp, tích cực của công dân (mục đích hành vi). Mục đích này có ý nghĩa rất
quan trọng vì đây là kết quả cuối cùng của GDPL. GDPL cung cấp tri thức về pháp
luật, giáo dục tình cảm và niềm tin vào pháp luật để con ngƣời thực hiện pháp luật
một cách tự nguyện, hình thành động cơ và hành vi hợp pháp, tích cực. Những tình
cảm công bằng, bình đẳng, không khoan nhƣợng đối với các vi phạm pháp luật là
những yếu tố tâm lý, tƣ tƣởng không tách rời việc hình thành hành vi hợp pháp, tự
giác và tích cực. Nhƣ vậy nhờ vào tình cảm và niềm tin vững chắc vào pháp luật ở
con ngƣời sẽ hình thành động cơ và hành vi hợp pháp, tự giác và tích cực. Để hình
thành động cơ và hành vi hợp pháp chỉ có thể nhờ vào quá trình GDPL thƣờng
xuyên, liên tục, bằng nhiều hình thức và phƣơng tiện khác nhau để mọi ngƣời hiểu
biết một cách sâu sắc về sự cần thiết, lợi ích của các quy phạm pháp luật đối với lợi
ích của toàn xã hội cũng nhƣ lợi ích của từng thành viên trong xã hội. Biểu hiện của
tính tự giác cao độ của niềm tin nội tâm vào pháp luật đó là sự hình thành thói quen
pháp luật - kết quả ý thức pháp luật sâu sắc lặp đi lặp lại nhiều lần. Khi đã hình
15
thành thói quen pháp luật thì con ngƣời sẽ tự giác thực hiện hành vi của mình phù
hợp với những chuẩn mực pháp luật, gạt đi lợi ích riêng tƣ, cá nhân cho phù hợp với
pháp luật. Tuy nhiên, việc hình thành thói quen xử sự theo những đòi hỏi của pháp
luật là một nhiệm vụ phức tạp và khó khăn. Các dạng thói quen pháp luật là: thói
quen tuân theo những quy phạm pháp luật; thói quen thực hiện quyền và nghĩa vụ
pháp lý; thói quen sử dụng các quy phạm pháp luật; thói quen áp dụng pháp luật.
Tựu chung lại, GDPL có ba mục đích cụ thể là: mục đích nhận thức; mục
đích cảm xúc; mục đích hành vi. Giữa các mục đích này có sự đan xen, thống nhất,
qua lại với nhau (có thể nói là đi từ nhận thức đến tự giác, từ tự giác đến tích cực và
từ tích cực đến thói quen xử sự hợp pháp).
1.2.2.2. Chủ thể của giáo dục pháp luật
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì "chủ thể" đƣợc hiểu
là: "Đối tƣợng gây ra hành động, trong quan hệ đối lập với đối tƣợng bị sự chi
phối của hành động" [45]. Nhƣ vậy, chủ thể GDPL chính là ngƣời có hành động
giáo dục, là ngƣời đƣợc chủ động sử dụng những biện pháp, cách thức tác động
lên đối tƣợng giáo dục theo những nội dung và mục tiêu đã định để nhằm đạt đƣợc
mục đích nhất định.
Theo quan điểm chung hiện nay, GDPL nói chung là trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức và cá nhân đƣợc phân công, ngoài ra còn có các cơ quan, tổ chức, cá
nhân mặc dù không đƣợc giao nhiệm vụ GDPL nhƣng do có trách nhiệm với cộng
đồng họ cũng thực hiện hoạt động GDPL. Do vậy, chủ thể GDPL trên thực tế rất đa
dạng, phong phú nhƣng có thể phân thành ba nhóm chủ thể sau:
+ Nhóm chủ thể được giao nhiệm vụ chuyên làm công tác GDPL nhƣ các
giáo viên giảng dạy pháp luật, các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật. Ƣu
điểm của nhóm chủ thể này là họ có kiến thức pháp luật sâu, rộng, có trình độ,
phƣơng pháp sƣ phạm tốt, khả năng truyền đạt tốt nên chất lƣợng giáo dục thƣờng
đạt hiệu quả tốt nhƣng số lƣợng chủ thể này không nhiều và họ chỉ đƣợc phân công
đảm nhiệm trong những phạm vi, lĩnh vực nhất định chứ không mang tính phổ biến.
+ Nhóm chủ thể không chuyên làm công tác GDPL nhƣng trong quá trình
thực hiện chức năng nhiệm vụ đƣợc giao họ cũng tiến hành GDPL nhƣ các cán bộ
16
Tòa án, Viện Kiểm sát, các cán bộ quản lý, các cán bộ công chức, viên chức…
Nhóm chủ thể này tuy không có kiến thức rộng bằng nhóm chủ thể trên nhƣng họ
lại có kiến thức pháp luật rất sâu trong lĩnh vực chuyên môn mà họ đảm nhiệm, đặc
biệt là hoạt động GDPL của họ luôn gắn với hoạt động thực tiễn nên hiệu quả giáo
dục rất cao.
+ Nhóm chủ thể không được giao nhiệm vụ GDPL nhƣng do có trách nhiệm
với cộng đồng họ cũng thực hiện hoạt động tuyên truyền, GDPL nhƣ các thành viên
của các tổ chức chính trị, tổ chức quần chúng, cá nhân công dân am hiểu pháp
luật… Nhóm chủ thể này tuy kiến thức pháp luật thƣờng không đƣợc rộng, sâu và
không đồng đều nhƣ hai nhóm chủ thể trên nhƣng họ có tinh thần trách nhiệm và
lòng nhiệt tình, đặc biệt họ thƣờng có điều kiện, hoàn cảnh sinh hoạt gắn bó với đối
tƣợng giáo dục nên rất thuận lợi cho việc GDPL. Mặc dầu vậy, do trình độ kiến
thức pháp luật còn hạn chế, phƣơng pháp tiến hành giáo dục còn đơn điệu, cứng
nhắc nên hiệu quả giáo dục chƣa cao. Trong điều kiện nƣớc ta hiện nay, khi trình độ
dân trí còn thấp, ý thức pháp luật chƣa cao, điều kiện để phổ biến GDPL còn khó
khăn thì việc GDPL của nhóm chủ thể này vẫn còn phát huy tác dụng nên Nhà nƣớc
cần có kế hoạch bồi dƣỡng phát huy hiệu quả GDPL của nhóm chủ thể này.
Trong hoạt động GDPL, việc phân nhóm chủ thể giáo dục là cần thiết vì đối
tƣợng của GDPL rất đa dạng, phong phú và ở nhiều trình độ khác nhau, nhu cầu cần
đƣợc GDPL cũng khác nhau nên việc xác định chủ thể phù hợp với đối tƣợng
GDPL sẽ góp phần nâng cao hiệu quả GDPL.
1.2.2.3. Đối tượng của giáo dục pháp luật
Đối tƣợng GDPL luôn đƣợc xem là trung tâm của mọi hoạt động GDPL, vì có
xác định đƣợc đối tƣợng GDPL thì mới đề ra đƣợc mục đích giáo dục cũng nhƣ xác
định đƣợc chủ thể giáo dục, nội dung, hình thức, phƣơng pháp giáo dục phù hợp.
Đối tƣợng của GDPL cũng rất phong phú đa dạng vì mọi công dân đều có
nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, họ ở những lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ
khác nhau, nhu cầu và khả năng tiếp nhận thông tin cũng khác nhau nên việc xác
định đúng đắn đối tƣợng GDPL sẽ có ảnh hƣởng quyết định đến chất lƣợng GDPL.
17
Đối tƣợng phổ biến GDPL gồm mọi cá nhân, tổ chức nhƣ cán bộ, công chức, viên
chức,thanh, thiếu niên; ngƣời lao động, ngƣời quản lý, cán bộ công đoàn trong
doanh nghiệp; trong lực lƣợng vũ trang nhân dân.
1.2.2.4. Nội dung giáo dục pháp luật
Từ mục đích GDPL giúp ta xác định nội dung GDPL. Nội dung của GDPL
nhằm chuyển tải tri thức của nhân loại nói chung, của một Nhà nƣớc về hai hiện
tƣợng Nhà nƣớc và pháp luật - cung cấp một cách thƣờng xuyên, có hệ thống các
loại thông tin về pháp luật và thực tiễn thi hành, bảo vệ pháp luật qua đó bồi dƣỡng
ở các đối tƣợng giáo dục những nhận thức, tình cảm đúng đắn, lòng tin vào pháp
luật, rèn luyện khả năng sử dụng những tri thức đó để phân tích, phê phán, lý giải
một cách có căn cứ khoa học về những vấn đề thực tiễn, làm cơ sở định hƣớng và
lựa chọn cách xử sự phù hợp trong những hoàn cảnh cụ thể. GDPL cung cấp các
thông tin: thông tin về hệ thống pháp luật thực định; thông tin về thực tiễn pháp
luật; thông tin hƣớng dẫn hành vi pháp luật cụ thể; thông tin pháp luật chuyên
ngành... GDPL cung cấp những kiến thức pháp luật tối thiểu cho nhân dân, cơ quan,
tổ chức nhƣ: quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của công dân, một số trình tự, thủ
tục pháp lý để công dân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và thực hiện nghĩa
vụ pháp lý của mình. Ngoài việc cung cấp những kiến thức pháp luật cơ bản, GDPL
còn hƣớng tới việc GDPL theo nhu cầu ngành nghề nhằm cung cấp thông tin về một
số luật thực định liên quan đến các hoạt động của các đối tƣợng về các lĩnh vực
kinh tế, kỹ thuật, văn hóa - xã hội... trình tự giải quyết các tranh chấp phổ biến,
GDPL còn góp phần tạo ra các chuyên gia luật.
1.2.2.5. Hình thức giáo dục pháp luật
Đối tƣợng của GDPL là mọi thành viên trong xã hội nhƣng mỗi loại đối
tƣợng lại có trình độ nhận thức, nhu cầu hiểu biết pháp luật khác nhau. Do đó, công
tác GDPL muốn đạt đƣợc hiệu quả cao thì phải dựa trên cơ sở, đặc điểm của từng
đối tƣợng GDPL để xây dựng và lựa chọn hình thức GDPL cho phù hợp. GDPL
nhằm hình thành tri thức pháp luật từ đó xây dựng tình cảm và niềm tin đối với
pháp luật để từ đó hình thành hành vi phù hợp với các quy định của pháp luật ở
ngƣời dân. Mục đích đó chỉ có thể đạt đƣợc khi sử dụng nhiều hình thức khác nhau.
18