Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Các hình thức tổ chức hành nghề luật sư theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.28 KB, 73 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ HƯƠNG

CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ
LUẬT SƯ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ HƯƠNG

CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ
LUẬT SƯ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN AM HIỂU

Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thị Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................. 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC
HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VÀ PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC
HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ................................................................................................................ 7
1.1. Hình thức tổ chức hành nghề Luật sư.......................................................................... 7
1.2. Pháp luật về hình thức tổ chức hành nghề luật sư:............................................... 19
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY........................................................................................................... 25
2.1 Thực trạng pháp luật về các hình thức tổ chức hành nghề luật sư...................25
2.2 Thực tiễn thi hành và áp dụng pháp luật về các hình thức tổ chức hành
nghề luật sư.................................................................................................................................. 41
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................................................ 53
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về các hình thức tổ chức hành nghề
Luật sư........................................................................................................................................... 53
3.2 Những giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật về các hình thức tổ chức
hành nghề Luật sư..................................................................................................................... 56
KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 65

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 67


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với sự phát triển của xã hội nói chung và sự phát triển của nền kinh tế
nói riêng, Luật sư không chỉ là một nghề mà dần trở thành lĩnh vực cung cấp dịch
vụ tư có tính chất chuyên nghiệp; tổ chức hành nghề luật sư đã trở thành một doanh
nghiệp cung ứng dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, dịch vụ pháp lý của
tổ chức hành nghề luật sư có tính đặc biệt hơn so với hoạt động của doanh nghiệp
cung ứng dịch vụ khác; đây là một số ít loại hình dịch vụ mang tính chất hoạt động
nghề nghiệp nên hoạt động chủ yếu dựa trên năng lực chuyên môn, kỹ năng hành
nghề, kinh nghiệm và uy tín của Luật sư, chứ không dựa trên nền tảng về vốn hay
sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Do đó, mô hình tổ chức và hoạt
động của các tổ chức hành nghề luật sư, dưới góc độ doanh nghiệp mang những đặc
thù riêng và cần phải có cơ chế pháp lý phù hợp.
Pháp luật Việt Nam cũng theo thông lệ quốc tế về quy định chung các hình
thức tổ chức hành nghề luật sư nhưng có những điểm khác biệt, cụ thể: Pháp lệnh tổ
chức luật sư năm 1987, các Luật sư hành nghề trong các Đoàn luật sư (là tổ chức xã
hội - nghề nghiệp), chưa có quy định về tổ chức hành nghề luật sư theo mô hình
doanh nghiệp. Sau khi có Luật doanh nghiệp năm 1999, Pháp lệnh luật sư năm 2001
lần đầu tiên có quy định về hình thức tổ chức hành nghề luật sư theo mô hình văn
phòng luật sư và công ty luật hợp danh. Đến năm 2005, khi Luật doanh nghiệp 2005
được ban hành, mô hình tổ chức hành nghề luật sư có sự thay đổi với sự ra đời của
Luật luật sư năm 2006 và được sửa đổi, bổ sung vào năm 2012, trong đó điểm đổi
mới đáng lưu ý quy định về việc Công ty luật có thể tổ chức theo mô hình Công ty
luật trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty luật hợp danh.
Qua thực tế 06 năm thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật
sư năm 2012, đã bộc lộ những điểm bất cập trong các quy định về hình thức tổ chức

hành nghề luật sư và sự không tương thích với văn bản pháp luật được ban hành sau
này về mô hình tổ chức doanh nghiêp như Bộ luật dân sự năm 2015 và Luật doanh
nghiệp năm 2014. Do đó, cần phải có nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này để tìm

1


ra hướng khắc phục, hoàn thiện quy định của pháp luật về tổ chức doanh nghiệp
cung ứng dịch vụ luật sư cho phù hợp với đặc thù hoạt động nghề nghiệp luật sư,
góp phần thúc đẩy sự phát triển của nghề luật sư và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
luật sư trong tương lai. Tác giả thấy rằng, việc nghiên cứu pháp luật về các hình
thức tổ chức hành nghề luật sư tại Việt Nam hiện nay là rất cấp thiết. Việc ban hành
những quy định của pháp luật nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực hành
nghề luật sư luôn là ưu tiên hàng đầu nhằm tạo ra một hành lang pháp lý đủ mạnh,
giúp cho các hình thức tổ chức hành nghề luật sư phát triển ổn định và đóng góp
nhiều hơn cho xã hội. Từ đó tác giả đã lựa chọn đề tài: “Các hình thức tổ chức
hành nghề luật sư theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và làm đề tài
luận văn Thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Nghiên cứu về các hình thức tổ chức hành nghề luật sư là vấn đề cần thiết và
phức tạp cả trong vấn đề lý luận cũng như thực tiễn. Để góp phần nâng cao hiệu quả
của việc điều chỉnh hoạt động của các hình thức tổ chức hành nghề luật sư, trong
những năm qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này. Một
số luận án tiến sỹ, một số luận văn thạc sỹ đi vào nghiên cứu về nghề luật sư và
được các tác giả, các nhà khoa học nghiên cứu dưới các phương diện khác nhau.
Liên quan đến các hình thức tổ chức hành nghề luật sư có một số công trình nghiên
cứu sau đây:
-


Đề tài khoa học cấp bộ (2003), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện
pháp luật về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt
Nam, Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Văn Thảo – Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp thực hiện;

-

Phan Trung Hoài (2003), Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật
sư trong điều kiện mới ở Việt Nam; Luận án tiến sỹ luật học.

-

Nguyễn Văn Bốn (2019), Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, Luận
án tiến sỹ luật học.

-

Đồng Thái Quang, Công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch
vụ pháp lý theo pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học.

2


-

Nguyễn Anh Minh (2009), Luật sư và tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam
hiện nay; Luận văn thạc sỹ luật học.

-


Đậu Huy Giang (2014), Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ
luật học.

-

Nguyễn Minh Đức (2018), Công ti luật hợp danh theo pháp luật Việt Nam từ
thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ luật học,

-

Hoàng Anh Thư (2014), Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, Luận văn
thạc sỹ luật học.
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đây đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý

luận về hoạt động hành nghề luật sư và tổ chức hành nghề luật sư; có công trình
nghiên cứu trên bề diện chung về hoạt động hành nghề luật sư nhưng đã từ rất lâu
trước khi có sự sửa đổi, bổ sung của Luật luật sư vào năm 2012 và Luật doanh
nghiệp năm 2014; có công trình tập trung về một loại hình tổ chức hành nghề luật
sư (công ty luật hợp danh) và cũng có công trình nghiên cứu về khía cạnh quản trị
của tổ chức hành nghề luật sư và có những đề tài nghiên cứu trên phạm vi ở một số
tỉnh, thành phố nhất định…Dưới góc độ Luật kinh tế và trong phạm vi cả nước Việt
Nam hiện nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về các hình thức tổ chức hành
nghề luật sư.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Chỉ ra những quy định của pháp luật về các hình thức tổ chức hành nghề luật sư
hiện nay và tìm ra những vướng mắc, hạn chế của pháp luật về các hình thức tổ
chức hành nghề luật sư để đưa ra những phương hướng và đề nghị sửa đổi, hoàn
thiện pháp luật nhằm điều chỉnh các vấn đề liên quan đến các hình thức tổ chức

hành nghề luật sư tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được các mục đích trên đây, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ sau đây:
-

Nghiên cứu lý luận về hành nghề luật sư và các hình thức tổ chức hành nghề
luật sư và pháp luật về các hình thức tổ chức hành nghề luật sư.

3


Mô tả và đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh các hình

-

thức tổ chức hành nghề luật sư.
Tìm ra những ưu điểm cũng như những hạn chế vướng mắc của pháp luật Việt

-

Nam hiện hành trong việc điều chỉnh các hình thức tổ chức hành nghề luật sư.
Đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về các hình thức hành nghề luật sư

-

đồng thời đưa ra các giải pháp để khắc phục những vướng mắc của pháp luật về
các hình thức tổ chức hành nghề luật sư.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận, pháp luật về các
hình thức tổ chức hành nghề luật sư thực trạng pháp luật điều chỉnh các hình thức tổ
chức hành nghề luật sư ở Việt Nam.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
-

Đề tài được nghiên cứu chuyên sâu dưới góc độ Luật kinh tế.

-

Địa bàn nghiên cứu: Việt Nam.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1 Cơ sở lý luận:
Luận văn sử dụng phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác-Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng cộng sản
Việt Nam và của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm cơ sở lý luận để nghiên cứu.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Với cơ sở lý luận nêu trên, phương pháp nghiên cứu Luận văn mà tác giả sử
dụng là các phương pháp nghiên cứu đặc trưng như phân tích, tổng hợp, so sánh,
điều tra xã hội học, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn hay lấy ý kiến chuyên gia. Tùy
thuộc vào đối tượng nghiên cứu từng chương, mục của đề tài mà tác giả sẽ lựa chọn
phương pháp nghiên cứu phù hợp. Cụ thể:

4


-


Phương pháp phân tích tổng hợp: Đi sâu nghiên cứu phân tích, tổng hợp các văn
bản liên quan đến hành nghề luật sư đã được áp dụng trên thực tế. Các kết quả
nghiên cứu về nghề luật sư đã được công bố và áp dụng.

-

Phương pháp so sánh: Áp dụng phương pháp này để so sánh các văn bản quy
phạm pháp luật, các giai đoạn phát triển nghề luật sư trong những khoảng thời
gian có những văn bản pháp luật thay thế để thấy được hiệu quả cũng như
những vướng mắc trong từng giai đoạn được điều chỉnh có phù hợp hay không.

-

Phương pháp điều tra xã hội học: Sử dụng phương pháp hỏi – đáp trực tiếp điều
tra xã hội học để thu thập ý kiến của các Luật sư về các vấn đề liên quan đến
các hình thức tổ chức hành nghề luật sư tại Việt Nam…

-

Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống các báo
cáo tổng kết hàng năm, các báo của các đoàn Luật sư để rút ra được những vấn
đề có tính quy luật, hạn chế trong việc điều chỉnh của pháp luật đối với các hình
thức tổ chức hành nghề luật sư.

-

Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Trực tiếp trao đổi với các nhà khoa học, các
nhà nghiên cứu lý luận và các cán bộ có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực hành
nghề luật sư


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1 Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và pháp luật về các
hình thức tổ chức hành nghề luật sư nói riêng và pháp luật về doanh nghiệp nói
chung; luận văn có thể được áp dụng để làm tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập,
nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực luật kinh tế.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng như tài liệu tham khảo cho các nhà lập pháp xem xét,
sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật liên quan đến doanh nghiệp và tổ
chức hành nghề luật sư. Đồng thời, luận văn cũng có giá trị tham khảo để cơ quan
quản lý nhà nước xây dựng và thực hiện các biện pháp quản lý và hỗ trợ có hiệu quả
cho sự phát triển hoạt động hành nghề luật sư.

5


7. Kết cấu của luận văn.

Luận văn có phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phần phụ lục. Phần nội dung của Luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hình thức tổ chức hành nghề luật sư và
pháp luật về hình thức tổ chức hành nghề luật sư
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về các hình
thức tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về các hình
thức tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay.

6



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC
HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VÀ PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC
TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
1.1. Hình thức tổ chức hành nghề Luật sư
1.1.1 Khái quát chung về nghề Luật sư:
1.1.1.1. Khái niệm nghề luật sư:
Ở góc độ nghề nghiệp, nghề luật sư được coi như một nghề kinh doanh có

điều kiện, thuộc phân ngành dịch vụ, chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách
hàng; Ở Việt Nam, nghề luật sư một phân nhánh trong danh sách nghề luật, được
gọi với tên chung “các chức danh tư pháp”, cùng với Thẩm phán, Kiểm sát viên;
Chấp hành viên, Công chứng viên; và được Luật sư Phan Trung Hoài định nghĩa
như sau: Nghề luật sư là một nghề luật, trong đó các luật sư bằng kiến thức pháp
luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động tư vấn pháp lý và bảo vệ quyền lợi
hợp pháp cho cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm
nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, góp phần tích cực bảo vệ pháp chế
và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa [12].
1.1.1.2 Đặc điểm của nghề luật sư:
(i) Nghề luật sư là một nghề chuyên môn trong lĩnh vực pháp luật, với

phương thức hành nghề tự do; gắn với năng lực và uy tín của cá nhân ;
(ii) Nghề luật sư mang tính chất dịch vụ; được khách hàng trả thù lao và phải

nộp thuế cho nhà nước như các hoạt động kinh doanh khác ;
(iii) Nghề luật sư là nghề hoạt động độc lập, không thể kiêm nhiệm;
(iv) Nghề luật sư chịu sự điều chỉnh của pháp luật và quy tắc đạo đức, trách


nhiệm nghề nghiệp luật sư.
1.1.2 Khái quát chung về hành nghề Luật sư
1.1.2.1 Khái niệm hành nghề luật sư
Hành nghề luật sư là việc luật sư thực hiện các hoạt động chuyên môn, nghiệp
vụ nghề nghiệp như tham gia tố tụng; tư vấn pháp luật; soạn thảo các loại văn

7


bản pháp lý; tổ chức đàm phán để thương lượng giải quyết các tranh chấp với mục
đích nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các thân chủ và luật sư được nhận
lại thù lao, chi phí do khách hàng chi trả. Hoạt động hành nghề luật sư mang tính
chất tìm kiếm lợi nhuận; là một loại dịch vụ về nghề nghiệp, hay nói cách khác hành
nghề luật sư là một hình thức hoạt động kinh doanh. Đây là ngành nghề kinh doanh
có điều kiện và chịu sự can thiệp, giám sát hoạt động bằng các cơ chế theo quy định
của pháp luật, cụ thể là Luật sư khi hành nghề phải đăng ký hoạt động và đáp ứng
các điều kiện theo quy định của pháp luật, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cấp giấy phép hành nghề và chịu sự giám sát đạo đức nghề nghiệp, tương tự như
một số nghề tự do khác như: Bác sỹ, Kiểm toán viên...Theo đó, việc hành nghề luật
sư phải tuân thủ nguyên tắc: Tuân thủ pháp luật và quy tắc đạo đức ứng xử nghề
nghiệp luật sư do tổ chức xã hội nghề nghiệp (Liên đoàn luật sư) ban hành. Ngoài
ra, việc hành nghề luật sư còn phải tuân theo các nguyên tắc khác như sau: Độc lập,
trung thực, tôn trọng sự thật khách quan; sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ
tốt nhất quyền lợi cho khách hàng và cũng như các hoạt động kinh doanh khác, khi
hành nghề thì các luật sư phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động
nghề nghiệp của mình.
1.1.2.2 Phạm vi hành nghề luật sư:
Qua các thời kỳ khác nhau, mặc dù nội dung quy phạm pháp luật có khác
biệt đôi chút nhưng tựu chung lại, có thể khái quát phạm vi hành nghề luật sư bao
gồm các lĩnh vực chủ yếu như sau:

- Tham gia tố tụng trong các vụ án được giải quyết tại các cơ quan tiến hành tố

tụng và tài phán để bào chữa (biện hộ), bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân
chủ. Đây chính là hoạt động nguyên thủy của Luật sư ngay từ giai đoạn sơ khai, là
gốc của nghề Luật sư khi còn được gọi với danh “Thầy cãi” và cho đến thời điểm
hiện tại, tham gia tố tụng vẫn là hoạt động hành nghề chủ yếu của Luật sư. Việc
tham gia tố tụng của các luật sư không những để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho thân chủ, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những

8


thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, đảm bảo hoạt động xét xử khách quan, công
bằng và đúng pháp luật.
- Tư vấn pháp luật: Là việc luật sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến và giúp khách

hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ. Khi
thực hiện tư vấn pháp luật, luật sư không đơn giản là việc giải thích nội dung quy
định pháp luật mà còn phải vận dụng kiến thức pháp luật, sử dụng kinh nghiệm để
đưa ra phương án, lời khuyên hợp lý cho khách hàng lựa chọn vừa đảm bảo đúng
pháp luật lại có thể bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích chính đáng cho khách hàng.
Luật sư thực hiện tư vấn pháp luật trong tất cả các lĩnh vực pháp luật. Trong bối
cảnh xã hội hiện nay, khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển và trình độ dân trí
được nâng cao thì nhu cầu cần giải đáp, hỗ trợ về pháp luật khi tham gia các quan
hệ xã hội của người dân ngày càng tăng nhanh và tư vấn pháp luật trở thành lĩnh
vực hành nghề quan trọng của các luật sư. Lĩnh vực này ngày càng được mở rộng và
phát triển trong nhiều quan hệ xã hội từ dân sự, đất đai, hôn nhân gia đình, lao động
đến đầu tư, doanh nghiệp, sở hữu trí tuệ, thương mại quốc tế....
- Đại diện ngoài tố tụng và các hoạt động hành nghề khác mang tính chất hỗ


trợ pháp lý cho người dân như: Soạn thảo văn bản, thực hiện thủ tục hành chính ...
1.1.3. Khái quát chung về các hình thức tổ chức hành nghề luật sư
1.1.3.1 Khái niệm tổ chức hành nghề luật sư
Tổ chức theo nghĩa của một danh từ, được hiểu là tập hợp người được tổ
chức theo cơ cấu nhất định để hoạt động về lợi ích chung. Hành nghề luật sư là một
hình thức hoạt động kinh doanh mang tính chất dịch vụ nghề nghiệp với mục đích
tìm kiếm lợi nhuận, cho nên tổ chức hành nghề luật sư là tập hợp luật sư theo cơ cấu
nhất định để hoạt động hành nghề luật sư nhằm mục đích lợi nhuận. Hay nói cách
khác, tổ chức hành nghề luật sư là một loại hình tổ chức kinh tế (doanh nghiệp),
hoạt động trong lĩnh vực pháp luật.
Phần lớn các nước trên thế giới đều thừa nhận tổ chức hành nghề luật sư là
một loại hình doanh nghiệp, một chủ thể kinh doanh, được thành lập và hoạt động

9


theo quy định của pháp luật và chịu sự giám sát đồng thời của cơ quan quản lý nhà
nước về tư pháp và các tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư.
Pháp luật Việt Nam cũng như thế giới đều không có khái niệm cụ thể về tổ
chức hành nghề luật sư, tuy nhiên trên cơ sở lý luận về doanh nghiệp và gắn với
hoạt động hành nghề luật sư, có thể định nghĩa tổ chức hành nghề luật sư như sau:
Tổ chức hành nghề luật sư là tổ chức cung cấp dịch vụ, đăng kí hoạt động tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện hoạt động cung cấp các loại dịch vụ
pháp lý cho khách hàng theo quy định của pháp luật và nhận thù lao.
1.1.3.2 Đặc điểm của tổ chức hành nghề luật sư:
Nghiên cứu từ góc độ Luật kinh tế, với tư cách là một loại hình doanh
nghiệp, các tổ chức hành nghề luật sư có các đặc điểm nhận dạng như sau:
Thứ nhất, về chủ thể thành lập và tư cách thành viên của tổ chức hành nghề
luật sư: Hành nghề luật sư là một loại hình dịch vụ nghề nghiệp do các Luật sư thực
hiện, vì vậy hầu hết pháp luật các nước trên thế giới đều quy định về đối tượng chủ

thể có quyền thành lập và tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải là các
Luật sư. Tuy nhiên, cũng có một số nước (Anh, Singapore) có quy định mở hơn về
việc tổ chức hành nghề luật sư đang hoạt động hoặc tổ chức, cá nhân khác đều có
quyền liên kết với các luật sư để thành lập một tổ chức hành nghề luật sư mới. Pháp
luật Việt Nam theo xu thế chung quy định chỉ các Luật sư mới có quyền thành lập
và tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư.
Quy định về chủ thể tham gia thành lập và tư cách thành viên tổ chức hành
nghề luật sư được xem là điều kiện kinh doanh (hạn chế) của loại hình doanh nghiệp
này; dẫn đến việc tư cách pháp lý của thành viên các tổ chức hành nghề luật sư
không thể chuyển nhượng cho người khác hay được thừa kế.
Thứ hai, tổ chức hành nghề luật sư là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
chuyên biệt, tức là chỉ hoạt động trong một lĩnh vực duy nhất mang tên dịch vụ
pháp lý.
Dịch vụ pháp lý là một phân ngành của dịch vụ kinh doanh và được Tổ chức
Thương mại thế giới định nghĩa như sau: “Dịch vụ pháp lý bao gồm các lĩnh vực tư

10


vấn và đại diện đối với pháp luật nước tiếp nhận dịch vụ, pháp luật của nước sở tại,
nước thứ ba, luật pháp quốc tế; dịch vụ chứng thực giấy tờ tài liệu; các dịch vụ tư
vấn và thông tin khác. [29, tr.6 và 29].
Theo Danh mục phân loại các lĩnh vực dịch vụ (Danh mục CPC), dịch vụ
pháp lý là loại hình dịch vụ kinh doanh hay dịch vụ nghề nghiệp (CPC 861) được
phân loại như sau:
-

Dịch vụ tư vấn và đại diện liên quan tới luật hình sự (86111)

-


Dịch vụ tư vấn pháp luật và đại diện trong các thủ tục tư pháp liên quan tới
các lĩnh vực pháp luật khác (86119)

-

Dịch vụ tư vấn pháp luật và đại diện trong các thủ tục pháp lý trước các hội
đồng tư pháp (86120)

-

Dịch vụ về văn bản và xác nhận (86130)

-

Các thông tin tư vấn pháp luật khác (86190).
Tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu khoa học đưa ra nhiều quan điểm khác

nhau về dịch vụ pháp lý. Theo luật sư Phan Trung Hoài: “về mặt lý luận và thực
tiễn, quan niệm về dịch vụ pháp lý ở Việt Nam chưa tương thích với khái niệm cùng
loại của nhiều nước phát triển trên thế giới cũng như WTO” [14, tr.25] ; Tiến sỹ
Nguyễn Văn Tuân lại cho rằng: “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam đang được điều chỉnh
bởi nhiều văn bản pháp lý khác nhau, thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau, chưa
có sự thống nhất về quan niệm cũng như bản chất dịch vụ pháp lý” [7, tr.156]; trong
khi đó Tiến sỹ Hoàng Thị Vịnh lại có quan niệm: “Dịch vụ pháp lý là toàn bộ các
công việc có liên quan đến pháp luật do các tổ chức hành nghề cung ứng dịch vụ
pháp lý thực hiện cho khách hàng nhằm hưởng thù lao.” [35]
Như vậy, về mặt nội hàm, dịch vụ pháp lý có thể hiểu là tổng thể các hoạt
động của luật sư khi cung cấp cho khách hàng trong hành nghề luật sư bao gồm tư
vấn pháp luật, dịch vụ đại diện pháp lý và các dịch vụ pháp lý khác. Theo đó, dịch

vụ tư vấn pháp luật được hiểu là hoạt động cung cấp các ý kiến pháp lý, giải pháp
của các chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý cho các cá nhân, tổ chức có yêu cầu. Còn
dịch vụ đại diện pháp lý được hiểu là người đại diện thay mặt khách hàng trước cơ

11


quan có thẩm quyền, trước bạn hàng của khách hàng để thực hiện các công việc
đúng pháp luật, theo sự ủy quyền của khách hàng nhằm bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của khách hàng và có thu phí. Các cơ quan tổ chức có thể là cơ quan tư pháp,
các cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức kinh tế- xã hội, chính trị- xã hội, các
tổ chức có quyền tài phán…Như vậy dịch vụ đại diện pháp lý còn bao gồm cả việc
tham gia tố tụng. Ngoài ra dịch vụ pháp lý còn có thể là các hoạt động khác khi
khách hàng có yêu cẩu nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho họ như soạn
thảo văn bản; làm chứng giao dịch ...
Dịch vụ pháp lý góp phần quan trọng trong việc thu hút và khuyến khích hoạt
động đầu tư trong nước và nước ngoài. Ở Việt Nam, dịch vụ pháp lý trong thời gian
qua đã khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong số nhiều loại hình dịch
vụ khác của nền kinh tế. Thuật ngữ dịch vụ pháp lý đã được ghi nhận trong nhiều
văn bản quy phạm pháp luật, Luật luật sư đã có một điều luật quy định về dịch vụ
pháp lý của luật sư như sau: “Dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng,
tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và dịch vụ pháp lý khác.”
[34, Điều 4].
Đặt phép so sánh thì dịch vụ pháp lý của luật sư và phạm vi hành nghề của
luật sư là một, phạm vi hành nghề của luật sư là sự cụ thể hóa của dịch vụ pháp lý
của luật sư. Tổ chức hành nghề luật sư chỉ được cung cấp dịch vụ pháp lý. Tổ chức
hành nghề luật sư không phải là doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề, đa lĩnh
vực; thậm chí còn bị giới hạn về quyền tham gia đầu tư trong doanh nghiệp khác
hoặc vào lĩnh vực khác. Đây là hạn chế về quyền tự do kinh doanh của tổ chức hành
nghề luật sư.

Thứ ba, về bản chất doanh nghiệp: Do đặc thù của loại hình doanh nghiệp
hoạt động dịch vụ nghề nghiệp, chất lượng hoạt động cung ứng dịch vụ của tổ chức
hành nghề luật sư phụ thuộc chủ yếu vào trình độ, năng lực chuyên môn; kỹ năng
nghề nghiệp và uy tín của chính các Luật sư, tức là hoạt động không dựa trên cơ sở
nền tảng về vốn hay sự phát triển khoa học kỹ thuật nên bản chất của tổ chức hành
nghề luật sư là đối nhân. Các luật sư và tổ chức hành nghề luật sư phải chịu trách

12


nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ về tài sản. Tính chất đối vốn hầu như không
được đặt ra trong các tổ chức hành nghề luật sư, nếu có thì cũng là rất ít. Chính vì
vậy, hình thức tổ chức hành nghề luật sư phổ biến trên thế giới là Văn phòng luật sư
với địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân hay Công ty luật hợp danh mang tính
đối nhân tuyệt đối và một số nước là mô hình công ty luật trách nhiệm hữu hạn vừa
có tính đối nhân vừa có tính đối vốn nhưng phải có bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp đi kèm.
Thứ tư, về quyền quản lý, giám sát đối với tổ chức hành nghề luật sư: Nếu
các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác chịu sự quản lý của cơ quan
nhà nước về đầu tư, doanh nghiệp hoặc cơ quan nhà nước quản lý về chuyên ngành
lĩnh vực hoạt động thì tổ chức hành nghề luật sư chịu sự quản lý, giám sát hoạt động
đồng thời của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động tư pháp và tổ chức xã hội
nghề nghiệp luật sư, ở Việt Nam là Sở tư pháp, Đoàn luật sư các tỉnh và Bộ tư pháp
cùng với Liên đoàn luật sư Việt Nam. Tổ chức hành nghề luật sư phải đăng ký hoạt
động tại cơ quan quản lý nhà nước về tư pháp (Sở tư pháp) và chịu sự giám sát về
việc tuân thủ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Đoàn luật sư địa phương
và Liên đoàn luật sư Việt Nam.
1.1.4. Các hình thức tổ chức hành nghề luật sư cụ thể:
Phần lớn các nước trên thế giới thừa nhận 02 hình thức tổ chức hành nghề
luật sư là: (i) Văn phòng luật cá nhân; (ii) Công ty luật.

Về hình thức văn phòng luật cá nhân hay còn có tên gọi khác là Văn phòng
luật sư, do một luật sư tự mình thành lập và tự mình tổ chức, điều hành hoạt động và
chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ của Văn phòng
luật sư.
Về hình thức công ty luật: Các nước trên thế giới chia thành 02 trường phái
khác nhau về mô hình Công ty luật, cụ thể: (i) Trường phái thứ nhất: Có nhiều nước
như Nhật, Đài Loan, Ý, Thụy Sỹ, Mexico...chỉ thừa nhận mô hình Công ty luật hợp
danh, do ít nhất 02 luật trở lên cùng thành lập và quản lý điều hành với quan điểm
cho rằng các luật sư phải chịu trách nhiệm vô hạn về các hoạt động nghề nghiệp của

13


mình; (ii) Trường phái thứ hai: Mô hình Công ty luật bao gồm: Công ty luật hợp
danh và Công ty luật trách nhiệm hữu hạn được chia thành Công ty luật trách nhiệm
hữu hạn một thành viên và công ty luật trách nhiệm có 02 thành viên trở lên; đại
diện cho trường phái này có thể kể đến các nước như Anh, Mỹ, Singapore,
Philipines, Việt Nam....
Về mô hình công ty luật hợp danh thì một số nước lại chia thành Công ty luật
hợp danh thông thường và công ty luật hợp danh trách nhiệm hữu hạn (như Anh,
Mỹ, Malaysia, Singapore..), với sự phân biệt khác nhau như sau: Trong Công ty luật
hợp danh thông thường, các luật sư đều chịu trách nhiệm cá nhân, vô hạn đối với
tất cả các khoản nợ của công ty; đối với bên thứ ba, trách nhiệm này là chung và
liên đới, mỗi thành viên đều có thể bị kiện để yêu cầu thanh toán toàn bộ khoản nợ
của hợp danh. Trái lại, trong một Công ty luật hợp danh trách nhiệm hữu hạn
không có luật sư nào phải chịu trách nhiệm bằng tài sản cá nhân và liên đới về
những hành vi gây thiệt hại của các thành viên khác vượt ra ngoài phạm vi số vốn
đã góp vào công ty nếu hành vi gây thiệt hại của thành viên kia không có liên quan
đến họ hoặc người thực hiện hành vi gây thiệt hại đó không phải là người chịu sự
giám sát của họ. [22, tr.51].

Ngoài ra, ở một số quốc gia có sự khác biệt về hình thức tổ chức hành nghề
luật sư, như Trung Quốc quy định như sau: (i) Tổ chức hành nghề luật sư do một
luật sư thành lập; (ii) Tổ chức hành nghề luật sư do một nhóm luật sư thành lập (từ
3

luật sư trở lên); và (iii) Tổ chức hành nghề luật sư do Nhà nước thành lập. [4,

tr.79]. Như vậy, ở Trung Quốc có mô hình tổ chức hành nghề luật sư công do Nhà
nước thành lập. Hoặc ở Đức thì hình thức tổ chức hành nghề luật sư được chia
thành: (i) Văn phòng hợp danh hoặc có thể là hợp vốn (trách nhiệm hữu hạn) theo
mô hình công ty để nhận và thực hiện vụ việc với danh nghĩa văn phòng; (ii) Văn
phòng chung của các luật sư nhưng các luật sư lại hoạt động độc lập, tự nhận và tự
thực hiện vụ việc bằng danh nghĩa của chính luật sư đó; và (iii) Văn phòng hợp
danh quốc tế do các Luật sư Đức liên danh với các công ty luật nước ngoài khác
[10, tr.20-21].

14


Ở Việt Nam, tổ chức hành nghề luật sư ra đời theo quy định của Pháp lệnh

luật sư năm 2001, trước đó Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 không có quy định
về hình thức tổ chức hành nghề luật sư, các luật sư hoạt động nghề nghiệp theo sự
quản lý của Đoàn luật sư địa phương (tổ chức xã hội nghề nghiệp); với 02 hình thức
là: (i) Văn phòng luật sư và (ii) Công ty luật hợp danh (Điều 11, Pháp lệnh 2001).
Tuy nhiên, hiện nay, hình thức tổ chức hành nghề luật sư tại Việt Nam đã được mở
rộng, bao gồm: (i) Văn phòng luật sư và (ii) Công ty luật [34, Điều 32]. Trong đó,
mô hình công ty luật được chia thành: (i) Công ty Luật hợp danh; và (ii) Công ty
luật trách nhiệm hữu hạn bao gồm công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên và công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên [34, Điều 34].

Việc ghi nhận về hình thức Công ty luật trách nhiệm hữu hạn cho phép các
luật sư có thêm nhiều lựa chọn hình thức tổ chức hành nghề phù hợp với khả năng,
điều kiện thực tế và chế độ trách nhiệm của mình. Đồng thời từng bước bảo đảm sự
thống nhất và phù hợp giữa quy định của pháp luật về luật sư và pháp luật về doanh
nghiệp.
1.1.4.1 Văn phòng luật sư:
Hình thức Văn phòng luật sư hoặc Văn phòng luật cá nhân có thể do một luật
sư thành lập, Luật sư đó được gọi Trưởng Văn phòng và phải chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của Văn phòng. Trưởng Văn phòng là
người đại diện theo pháp luật của Văn phòng. Văn phòng luật sư được tổ chức và
hoạt động theo mô hình doanh nghiệp tư nhân.
Văn phòng luật sư có con dấu, tài khoản theo quy định của pháp luật. Văn
phòng luật sư có các ưu điểm như sau: Đây là một mô hình tổ chức hành nghề với
cơ cấu quản lý cực kỳ đơn giản, quyền lực tập trung chính vào Trưởng văn phòng,
chi phí thành lập và duy trì hoạt động thấp cùng với việc hạch toán tài chính, kê
khai thuế đơn giản. Tuy nhiên, loại hình này có nhược điểm lớn nhất, chính là chủ
văn phòng phải chịu trách nhiệm vô hạn mà với đặc trưng nghề luật sư là nghề có
rủi ro cao nên trách nhiệm lớn xảy ra có thể ảnh hưởng đến đời sống gia đình của
trưởng văn phòng luật sư cũng như các bên liên quan khác. Hơn nữa, với mô hình
này chủ yếu phù hợp cho việc cung cấp dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tham gia tố

15


tụng, khó kiếm được khách hàng lớn liên quan đến lĩnh vực tư vấn pháp luật. Trong
giai đoạn hiện nay, hình thức tổ chức hành nghề luật sư này rất ít được các luật sư
lựa chọn khi đăng ký hoạt động bởi vì nó tồn tại nhiều hạn chế và không mở rộng
quy mô phát triển như các các hình thức khác, bởi vì mô hình doanh nghiệp tư nhân
không có tư cách pháp nhân, thậm chí phải đăng ký tài khoản ngân hàng dưới tên
của chủ doanh nghiệp tư nhân (Trưởng văn phòng).

1.1.4.2 Công ty luật hợp danh:
Cho đến nay, chưa có một khái niệm nào về công ty hợp danh nói chung và
công ty luật hợp danh nói riêng nên bằng định nghĩa mô tả, Luật doanh nghiệp có quy
định: Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là chủ sở
hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung. [25, Điều 172]

Với tư cách là một hình thức tổ chức hành nghề luật sư, Công ty luật hợp
danh do ít nhất hai luật sư thành lập. Công ty luật hợp danh chỉ có thành viên hợp
danh, không có thành viên góp vốn, trong đó thành viên của công ty là các luật sư
hợp danh, chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty, phải liên đới
với nhau chịu trách nhiệm vô hạn đối với tất cả các khoản nợ của công ty.
Trong Công ty luật hợp danh, các luật sư thành viên thường là những người
có quan hệ quen biết nhau, có những hiểu biết khá đầy đủ về nhau nên có điều kiện
để giúp đỡ nhau cùng phát huy tối đa thế mạnh của từng thành, huy động khả năng
trí tuệ tập thể cũng như huy động nguồn vốn đầu tư từ nhiều Luật sư thành viên sẽ
tạo cơ hội cho tổ chức có điều kiện phát triển và mở rộng quy mô hơn. Đây là lợi
thế của Công ty luật hợp danh so với Văn phòng luật sư. Đồng thời, hình thức này
dễ thu hút khách hàng bởi vì Công ty luật hợp danh là mô hình công ty đối nhân
tuyệt đối, các thành viên phải chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty
do đó dễ tạo được niềm tin cho khách hàng khi lựa chọn sử dụng dịch vụ hơn so với
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Tuy nhiên, Công ty luật hợp danh cũng có những
điểm hạn chế, chế độ trách nhiệm vô hạn về tài sản là điều rủi ro cho các thành viên
hợp danh và quy định về việc các thành viên hợp danh đều có tư cách đại diện cho
công ty sẽ làm phân tán quyền quản lý, điều hành công ty. Nếu xét trên bình diện
bản chất đặc thù hoạt động nghề nghiệp luật sư thì Công ty luật hợp danh là hình

16


thức tổ chức hành nghề luật sư phù hợp nhất đối với chính các luật sư và khách

hàng sử dụng dịch vụ pháp lý.
Tại một số quốc gia trên thế giới, về hình thức công ty luật hợp danh có chia
thành: Công ty luật hợp danh thông thường và Công ty luật hợp danh trách nhiệm
hữu hạn. Trong đó, với công ty luật hợp danh thông thường thì các luật sư đều là
thành viên hợp danh, liên đới chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản về mọi
nghĩa vụ của Công ty; đối chiếu với đặc điểm của pháp nhân thì công ty luật hợp
danh thông thường không có tư cách pháp nhân. Còn với mô hình công ty luật hợp
danh trách nhiệm hữu hạn thì luật sư thành viên chỉ chịu trách nhiệm đối với các
nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động của luật sư thành viên này mà không phải chịu
trách nhiệm đối với tất cả các nghĩa vụ của các thành viên hợp danh khác. Đây là
mô hình được các nhà đầu tư doanh nghiệp nói chung và luật sư nói riêng rất ưu
thích và lựa chọn nhiều trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp. Công ty
luật hợp danh trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân, mỗi thành viên là đại diện
của công ty nhưng không phải là người đại diện cho các thành viên khác, bất kỳ
hành vi gây thiệt hại nào do một thành viên gây ra thì chỉ thành viên đó phải chịu
trách nhiệm cá nhân vô hạn, còn các thành viên khác chỉ phải chịu trách nhiệm
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty mà thôi [252, tr.63-64].
1.1.4.3 Công ty luật trách nhiệm hữu hạn
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn được chia thành: Công ty luật trách nhiệm
hữu hạn một thành viên và Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên: do một luật sư thành
lập và làm chủ sở hữu. Luật sư làm chủ sở hữu công ty là Giám đốc công ty. Công
ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên là công ty trong đó luật sư chủ sở hữu
công ty phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty trong phạm vi tài
sản mình đã đầu tư vào công ty. Tại Việt Nam, hình thức tổ chức hành nghề luật sư
này được ra đời theo Luật luật sư năm 2006.
Cùng là mô hình tổ chức một chủ sở hữu như Văn phòng luật sư nhưng Công
ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên có ưu thế hơn do có tư cách pháp nhân,
chế độ tài sản riêng, tách biệt độc lập rõ ràng giữa công ty với chủ sở hữu; có chế độ


17


kế toán tài chính minh bạch và đặc biệt chủ sở hữu công ty chỉ phải chịu trách
nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn đã đăng ký góp vào công ty. Có thể nói hình
thức này rất phù hợp với các luật sư mới hành nghề với những khách hàng, vụ việc
nhỏ và dựa vào vòng tròn quan hệ xã hội của chính chủ sở hữu công ty. Tuy nhiên,
do mô hình doanh nghiệp một chủ nên công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành
viên sẽ khó khăn trong việc huy động vốn đầu tư, mở rộng quy mô phát triển công
ty và khó tìm kiếm được các khách hàng, vụ việc lớn.
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên: do ít nhất hai luật
sư thành lập. Trong đó các luật sư thỏa thuận cử một thành viên làm giám đốc công
ty. Các luật sư thành viên của công ty chịu trách nhiệm đối với khoản nợ của công
ty trong phạm vi tài sản họ đã góp vào công ty.
Hình thức tổ chức hành nghề này có nhiều điểm chung với Công ty luật hợp
danh, tuy nhiên có ưu thế hơn về tính chịu trách nhiệm của các luật sư thành viên
(chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn đăng ký góp vào công ty) và cơ cấu
tổ chức quản lý được phân quyền cụ thể, rõ ràng so với công ty hợp danh. So với
các loại hình tổ chức hành nghề luật sư còn lại thì có thể nói đây là hình thức được
các Luật sư ưa thích và lựa chọn nhiều hơn cả, thậm chí toàn bộ nhóm Big4 hãng
luật ở Mỹ đều theo mô hình trách nhiệm hữu hạn, tương tự tại Việt Nam thì Top
công ty luật lớn, có danh tiếng cũng lựa chọn và tổ chức theo mô hình công ty luật
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
Tương tự như công ty luật hợp danh, do mô hình nhiều chủ sở hữu nên công
ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có thể phát triển hoạt động nghề
nghiệp trong nhiều lĩnh vực luật chuyên ngành khác nhau, các thành viên trong công
ty có thể đảm nhận các công việc chuyên môn khác nhau. Đồng thời, do có nhiều
luật sư thành viên tham gia và có tính chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần
vốn góp vào công ty nên các luật sư thành viên có thể mạnh dạn đầu tư phát triển
công ty hơn. Loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có cơ cấu

tổ chức quản lý, phân định thẩm quyền khá rõ ràng cho nên đây là mô hình có tính
chuyên nghiệp cao hơn so với các hình thức tổ chức hành nghề luật sư khác nên dễ

18


dàng được các khách hàng có tiềm năng với vụ việc lớn quan tâm, lựa chọn và cũng
dễ thu hút các Luật sư tham gia lựa chọn để thực hiện hoạt động hành nghề hơn.
Tuy nhiên, xét về đặc thù nghề nghiệp luật sư thì mô hình trách nhiệm hữu
hạn có lẽ là chưa thật sự phù hợp, cho nên như một số nghề tự do khác, Luật luật sư
quy định về việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp để dự phòng rủi ro nghề
nghiệp, có nguồn kinh phí để bồi thường thiệt hại cho khách hàng sử dụng dịch vụ
pháp lý.
Mỗi một loại hình tổ chức hành nghề luật sư đều có những ưu điểm và nhược
điểm khác và để đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho các luật sư, tạo điều kiện cho
các Luật sư có nhiều lựa chọn trong quá trình hoạt động, đáp ứng nhu cầu phát triển.
1.1.4.4 Hình thức tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài
Bên cạnh các tổ chức hành nghề luật sư do Luật sư bản địa thành lập và đăng
ký hoạt động, trong xu thế hội nhập toàn cầu, phần lớn các nước trên thế giới đều
ghi nhận và mở cửa cho phép các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài được phép
hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý tại quốc gia, các hình thức tổ chức hành nghề
luật sư nước ngoài có thể thiết lập:
(i) Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại nước sở tại (là
đơn vị phụ thuộc của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, không có tư cách pháp
nhân);
(ii) Công ty luật một trăm phần trăm vốn nước ngoài hoặc công ty luật dưới hình

thức liên doanh giữa tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và công ty luật nước sở tại.

1.2. Pháp luật về hình thức tổ chức hành nghề luật sư:

1.2.1. Khái niệm và nguồn pháp luật về hình thức tổ chức hành nghề luật sư:
1.2.1.1 Khái niệm:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung, do nhà nước ban hành và bảo
đảm thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã
hội vì sự tồn tại và phát triển của cả xã hội, đồng thời vì lợi ích, mục đích của giai
cấp thống trị.

19


Mỗi quốc gia đều có một hệ thống pháp luật riêng, được phân định thành các
ngành luật, các chế định pháp luật và là tổng hợp các quy phạm pháp luật thể hiện
trong các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh.
Pháp luật về Luật sư và hoạt động hành nghề luật sư là một chế định pháp luật,
trong đó có quy định điều chỉnh về các hình thức tổ chức hành nghề luật sư. Một số
quốc gia trên thế giới có đạo luật riêng để điều chỉnh về lĩnh vực này với tên gọi khác
nhau như: Luật luật sư; Luật về hành nghề luật sư; Luật về hành nghề pháp lý...

Tổ chức hành nghề luật sư là loại hình tổ chức cung cấp dịch vụ pháp lý, dựa
vào đặc điểm này, có thể khái quát định nghĩa về pháp luật hình thức tổ chức hành
nghề luật sư như sau: Là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình thành lập; tổ chức hoạt động và chấm dứt của tổ
chức hành nghề luật sư.
1.2.1.2 Nguồn luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh về các hình thức tổ chức
hành nghề luật sư:
Với đặc điểm là một loại hình tổ chức kinh tế cung cấp dịch vụ nghề nghiệp
luật sư, chịu sự quản lý và giám sát của cả cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực
tư pháp và tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư, do đó các quan hệ phát sinh trong
quá trình thành lập, cơ cấu tổ chức quản lý và hoạt động và giải thể của các tổ chức

hành nghề luật sư được điều chỉnh bởi các nguồn luật như sau:
-

Nguồn pháp luật quốc tế là các điều ước quốc tế về lĩnh vực đầu tư, thương
mại và doanh nghiệp, có thể kể đến như: GATS; ......

-

Nguồn luật quốc gia là các văn bản quy phạm pháp luật do các quốc gia ban
hành về hoạt động của tổ chức; doanh nghiệp, hành nghề luật sư và giao dịch
kinh doanh thương mại, có thể kể đến như: Bộ luật dân sự, Luật doanh
nghiệp; Luật thương mại và Luật về luật sư/ hành nghề luật sư; Bộ luật tố
tụng dân sự; Bộ luật tố tụng hình sự, Luật đầu tư....

20


-

Hệ thống quy tắc, quy định nội bộ của các tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư
và của chính tổ chức hành nghề luật sư, có thể kể đến như: Điều lệ tổ chức và
hoạt động; Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư....

1.2.2 Những nội dung chủ yếu của pháp luật về các hình thức tổ chức hành nghề
luật sư:
Cấu trúc pháp luật về hình thức tổ chức hành nghề luật sư bao gồm các quy
phạm pháp luật điều chỉnh về:
-

Quy định về điều kiện, chủ thể thành lập và đăng ký hoạt động của các hình

thức tổ chức hành nghề luật sư;

-

Quy định về cơ cấu tổ chức quản lý và hoạt động của các hình thức tổ chức
hành nghề luật sư;

-

Quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức hành nghề luật sư;

-

Quy định về tổ chức lại của các hình thức tổ chức hành nghề luật sư;

-

Quy định về việc tạm ngừng và chấm dứt hoạt động của các hình thức tổ
chức hành nghề luật sư;

-

Quy định về chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật của các hình
thức tổ chức hành nghề luật sư.

-

Các quy định có liên quan khác về hình thức tổ chức hành nghề luật sư.

1.2.2.1 Thành lập tổ chức hành nghề luật sư:

Với tư cách là một loại hình doanh nghiệp, hoạt động trong lĩnh vực cung
ứng dịch vụ nghề nghiệp nên pháp luật các quốc gia trên thế giới đều có quy định cụ
thể việc thành lập tổ chức hành nghề luật sư được điều chỉnh, bao gồm: Quy định về
chủ thể tham gia, điều kiện và thủ tục thành lập tổ chức hành nghề luật sư.
Về chủ thể tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải là các Luật sư
được cấp phép hành nghề và chỉ các Luật sư mới có quyền thành lập và tham gia
thành lập các tổ chức hành nghề luật sư. Ngoài ra, luật quốc gia của một số nước
còn quy định thêm các điều kiện khác cho Luật sư khi thành lập tổ chức hành nghề,
ví dụ: Việt Nam quy định về thời gian hành nghề (tối thiểu là 02 năm); Trung Quốc
quy định về vốn pháp định (100.000 tệ, tương đương 350 triệu đồng Việt Nam)

21


×