Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SKKN một số biện pháp chỉ đạo chất lượng dạy học môn tiếng việt 1 cho học sinh dân tộc hmông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.75 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC: ............................................................................................. 1
I: MỞ ĐẦU ............................................................................................. 2
1. Lí do chọn đề tài. ................................................................................. 2
2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................... 4
3. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 4
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ...................................... 4
1. Cơ sở lý luận. ........................................................................................
4
2. Thực trạng lớp, giáo viên và học sinh lớp 1 dân tộc H ’mông của trường
tiểu học Trung Lý 2 năm học 2015 - 2016......................................................... 4
3. Các biện pháp đã thực hiện. ................................................................ 6
3.1. Một số biện pháp nâng cao chất lượng học tập môn Tiếng Việt cho
học sinh lớp 1 của trường tiểu học trung Lý 2................................................... 6
3.2. Những biện pháp cụ thể cho từng phân môn: .................................. 7
3.3. Một số giải pháp bổ trợ: ................................................................... 9
4. Hiệu quả. ............................................................................................. 10
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................... 11
1. Kết luận. ............................................................................................. 11
2. Kiến nghị. ........................................................................................... 12

1


I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Trung Lý là một trong những xã miền núi cao thuộc huyện Mường Lát,
biên giới của tỉnh Thanh Hóa, giao thông đi lại khó khăn, đời sống của nhân dân
còn nghèo; phong tục, tập quán của một số bản trên địa bàn còn nặng nề, lạc
hậu. Tình hình di dân còn diễn biến phức tạp làm cho sĩ số học sinh của nhà


trường luôn biến động.
Hiện tại trường có 22 lớp, 342 học sinh, trong đó lớp 1 là 3 lớp và 67 học
sinh, tất cả đều là học sinh dân tộc thiểu số, trong đó học sinh dân tộc H ’mông là
60 em, cho nên việc dạy và học Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 của nhà trường để
đạt được chuẩn kiến thức và kỹ năng là một việc làm hết sức khó khăn cho nhà
trường bởi vì:
Khác với học sinh người Kinh, trước khi đến trường, đa số học sinh dân

tộc H mông chưa biết sử dụng tiếng Việt. Mặc dù học sinh đã trải qua các lớp ở
bậc Mầm non nhưng đối với các em, trường Tiểu học vẫn là một môi trường
hoàn toàn mới, tiếng Việt là một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ. Sự tồn tại của tình
trạng này trong đời sống các em là do điều kiện sử dụng ngôn ngữ trong đời
sống sinh hoạt cộng đồng, là do tâm lý sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ rất tự nhiên
theo bản năng. Thói quen này trong sử dụng ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng vào trong
đời sống gia đình của mỗi cá nhân, học sinh vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ khi rời
trường, rời lớp. Dần dà các em khó có thể sử dụng tiếng Việt, quên ngay những
kiến thức về tiếng Việt đã học trên lớp. Khi bước vào môi trường giáo dục phổ
thông, tiếng Việt lúc bấy giờ là ngôn ngữ thứ hai của các em. Việc giao tiếp
thông thường với thầy cô giáo đã khó khăn và cũng có khi là không thể đối với
nhiều em, việc nghe giảng những kiến thức về các môn học khác nhau bằng
tiếng Việt lại càng khó khăn hơn đối với các em. Từ đó khi đến trường, đến lớp
học tập đã khiến cho các em thụ động, thiếu linh hoạt, tâm lý rụt rè, e sợ luôn
thường trực trong các em. Ở trường, khi học trên lớp, các em chủ yếu được nghe
thầy, cô giáo giảng bài, học sinh được luyện đọc nhưng để hiểu được nội dung
của bài học là một điều hết sức khó khăn với các em, học sinh được luyện viết
nhưng kỹ năng để viết đúng các con chữ cũng là một điều hết sức nan giải. Về
với gia đình, các em lại sống trong môi trường thuần tiếng dân tộc, vốn tiếng
Việt ở trên lớp mà các em có được, những con chữ đầu tiên lại bị lãng quên
trong tiềm thức của các em. Môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt hạn hẹp và
không thuần nhất như vậy chính là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành và phát

triển kỹ năng sử dụng tiếng Việt của các em hết sức khó khăn. Vì vậy, vốn kiến
thức về tiếng Việt ở các em hạn chế, ít ỏi là điều hiển nhiên. Chính vì thế, các
em rất ngại phải giao tiếp bằng tiếng Việt, lo sợ phải phát biểu xây dựng bài
trong giờ học, lo ngại phải giao tiếp với giáo viên ngoài giờ học, đặc biệt là các
em rất khó tiếp thu bài ở những môn học khác. Điều này đồng nghĩa với việc
kìm hãm sự phát triển tư duy ở các em, khó tạo ra một môi trường giáo dục thân
thiện! Học sinh đã bắt đầu lo lắng cho mỗi giờ đến lớp, "sợ" phải đến trường,
2


học tập lúc này là công việc quá khó khăn đối với các em.
Các em học sinh ở đây đã biết ý thức về nguồn gốc, hoàn cảnh của mình.
Cái nghèo luôn nhắc nhở con người sống trong cảnh khó khăn cần hiểu sâu sắc
về nguồn gốc, về điều kiện, hoàn cảnh sống của bản thân. Nghèo đã giúp con
người ta vươn lên, nhưng nghèo cũng làm cho con người luôn mặc cảm, tự ti,
bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Mặc cảm số phận đã khiến con người không
thể thoát khỏi những thiếu thốn vật chất, không thể vươn xa hơn không gian
sống hiện tại. Nhiều học sinh còn phải giúp bố mẹ lên nương rẫy trỉa lúa, trồng
ngô, ở nhà trông em cho bố mẹ đi làm... khi vào mùa, lo cho cuộc sống vật chất
của gia đình đang chật vật, thiếu thốn. Giáo viên của nhà trường còn phải vào
tận bản lùng sục các em, đưa các em đến trường; cũng có khi giáo viên còn phải
dùng tiền lương của mình để mua đồ dùng học tập cho các em, rồi mới đưa các
em trở lại trường. Thế nhưng có lúc cũng không thành công,... Trong suy nghĩ
của các em và gia đình của các em thì ăn từng bữa còn chưa đủ, chưa đủ thì học
chữ để làm gì ? Họ không hiểu rằng, chính cái chữ sẽ giúp con người thoát khỏi
cuộc sống nghèo khó hiện tại, giúp con người hoạch định tương lai. Cho nên vào
thời điểm mùa màng, số lượng học sinh trên lớp học giảm với tỉ lệ tương đối
cao. Ban Giám hiệu nhà trường cùng các giáo viên dạy ở bản đã họp Ban quản
lý bản và phụ huynh, xuống bản tới từng gia đình học sinh, giảng giải cho các
em, thuyết phục gia đình các em về ý nghĩa của việc học, động viên gia đình cần

phải dành thời gian cho các em học tập, bởi các em còn trong độ tuổi đến
trường. Thế nhưng, hiệu quả của công việc "tuyên truyền" này không phải lúc
nào cũng như ý, lắm lúc, giáo viên còn phải nhận những câu trả lời không hay
của phụ huynh hoặc là những lời hứa nhưng lại quên ngay lúc ấy. Một vài học
sinh có ý thức học tập, đến mùa màng, cũng xin phép giáo viên chủ nhiệm, nghỉ
phép vài hôm, nhưng rồi các em cũng quên trở lại trường khi mùa kết thúc. Giáo
viên lại phải tìm đến gia đình các em để vận động các em đến trường.
Đa số các phụ huynh đều chưa quan tâm đến việc học tập của con em họ,
việc học tập của các em phải nhờ đến sự tận tâm của giáo viên, nhờ vào kế
hoạch giáo dục của nhà trường.
Hiện tại, trình độ chuyên môn của nhiều giáo viên địa phương trong nhà
trường tuy đã chuẩn hoặc trên chuẩn về bằng cấp nhưng năng lực chuyên môn
còn yếu nên công việc giảng dạy của họ khó mang lại được hiệu quả mong
muốn. Bản thân họ cũng chưa nắm vững những kiến thức về tiếng Việt nên họ
truyền tải những kiến thức này đến cho học sinh rất khó khăn. Như vậy, để đạt
hiệu quả cao trong dạy học của những giáo viên nói trên là khó có thể.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi lựa chọn đề tài “Một số biện pháp
chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 cho học sinh dân tộc
H’mông” ở trường tiểu học Trung Lý 2, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa
nhằm từng bước nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1
dân tộc H’mông.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng
3


Việt lớp 1 cho học sinh dân tộc H ’mông góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
của học sinh nhằm đáp ứng được mục tiêu giáo dục.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 cho

học sinh dân tộc H’mông ở trường Tiểu học Trung Lý 2 - huyện Mường Lát năm
học 2015-2016.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lý luận: Qua việc nghiên cứu các tài liệu để hiểu cơ sở lý
luận của việc nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 cho học sinh
dân tộc H’mông.
Phương pháp điều tra, khảo sát.
Phương pháp thống kê.
Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm...
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận.
Tiếng Việt là môn học có vai trò đặc biệt quan trọng ở bậc Tiểu học, là
phương tiện chủ yếu để học sinh tiếp thu kiến thức của các môn học khác. Môn
Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực ngôn ngữ cho học sinh
thể hiện ở bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Do đó, môn Tiếng Việt có một vị trí
rất quan trọng đối với học sinh Tiểu học, nhất là học sinh lớp 1.
Môn Tiếng Việt là một công cụ hữu hiệu trong hoạt động và giao tiếp của
học sinh, giúp học sinh tự tin và chủ động hoà nhập các hoạt động học tập trong
trường học, giúp học sinh hình thành và rèn luyện các kỹ năng cơ bản ở Tiểu
học, đồng thời nó chi phối kết quả học tập của các môn học khác.
2. Thực trạng lớp, giáo viên và học sinh lớp 1 dân tộc H ’mông của
trường tiểu học Trung Lý 2 năm học 2015 - 2016.
- Tổng số học sinh lớp 1: 67 em. Số học sinh dân tộc H’mông: 60 em.
- Tổng số lớp 1 có học sinh dân tộc H’mông: 4 lớp ở 4 khu: Pa Búa = 21
em; khu Cá Giáng 16 em. Khu Cánh Cộng: 6 em; khu Tà Cóm: 17 em.
* Thuận lợi.
Một số điểm trường tỷ lệ học sinh trên lớp thấp vì thế việc giáo viên quan
tâm tới từng học sinh có rất nhiều thuận lợi.
100% giáo viên được đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn về bằng cấp; đa số
các giáo viên đều chịu khó, bám trường, bám lớp, có tinh thần trách nhiệm cao.

* Khó khăn.
Do địa bàn dân cư thưa thớt, không tập trung, trường có nhiều điểm lẻ, có
những khu lẻ cách điểm trường chính đến 15 km như khu Pa Búa, khu Tà Cóm
giao thông đi lại khó khăn dẫn đến việc kiểm tra thường xuyên cũng như đột
xuất của Ban giám hiệu nhà trường còn bị hạn chế, vẫn còn phải ghép lớp ở một
số khu trong nhà trường như khu Cò Cài, khu Cánh Cộng, khu Lìn. Hiện tại nhà
trường có 6 lớp ghép nằm ở các khu trên.
Mặt khác, giáo viên người dân tộc của nhà trường chiếm tỷ lệ cao
4


(74,2%), mặc dù đã chuẩn và trên chuẩn về bằng cấp nhưng năng lực chuyên
môn thực sự vẫn còn nhiều hạn chế do đó việc nắm bắt nội dung chương trình,
sách giáo khoa còn chậm, việc tiếp cận và đổi mới phương pháp dạy học, việc
sử dụng đồ dùng dạy học trực quan, tranh ảnh, chưa khai thác hết tác dụng của
đồ dùng dạy học còn phổ biến. Vì vậy, việc bố trí giáo viên chủ nhiệm các lớp
rất khó khăn.
Số lượng từ vựng của các học sinh khi bước vào lớp 1 sử dụng được trong
giao tiếp không nhiều, học sinh chỉ nói được những từ, câu rất đơn giản như:
Thầy giáo, cô giáo, bạn,… hay các sự vật gần gũi như: Quyển vở, quyển sách,
bút chì, viên phấn, cái bảng,... Có thể nói số lượng từ mà các em sử dụng được
chỉ tương đương với một trẻ em 2 hoặc 3 tuổi ở Miền xuôi.
Khả năng chú ý và tập trung vào bài học của học sinh không bền.
Học sinh đi học thất thường, có em đi học trong một tuần chỉ được 2- 3
buổi. Qua khảo sát đầu năm, các chỉ số đạt được như sau:

TT

Khu


Tổng
số
HS
của
lớp

1
2
3
4

Pa Búa
Cá Giáng
Cánh Cộng
Tà Cóm
Tổng

21
16
6
17
60

Nói
đạt
chuẩn
(SL)

Nói
chưa

đạt
chuẩn
(SL)

4
3
1
3
12

17
13
5
14
48

Biết
cầm
bút
đúng
cánh
(SL)

Cầm
bút
không
đúng
cách
(SL)


2
1
0
1
4

19
15
6
16
56

Số
lượng
học
sinh
còn
rụt rè
18
14
5
14
51

Số
lượng
học
sinh
mạnh
dạn


Ghi
chú

3
2
1
3
9

Từ thực trạng nêu trên ở địa phương, trên cơ sở khảo sát, phân tích thực
trạng và từ đó đề xuất ý tưởng chỉ đạo việc dạy học Tiếng Việt cho học sinh lớp
1 của nhà trường trong những năm học qua, tôi đã áp dụng một số biện pháp sau
để chỉ đạo việc dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 trong nhà trường:
Vai trò hết sức quan trọng, có tính quyết định chính là người giáo viên.
Giải pháp đối với người giáo viên là giải pháp của tất cả các giải pháp. Do vậy,
tôi xin được nêu lên những yêu cầu đối với người giáo viên làm nhiệm vụ dạy
học ở vùng cao có học sinh là người dân tộc H’mông mà không đưa vào hệ
thống giải pháp về công tác tư tưởng và công tác bồi dưỡng cho đội ngũ, đó là:
Để tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc H ’mông, trước hết đòi hỏi
người giáo viên phải có lòng nhiệt tình, sự kiên trì chịu khó và tận tuỵ với học
sinh, phải thực sự nắm bắt được tâm lý, sở thích của học sinh, hiểu biết tiếng nói
và phong tục của người H’mông. Đặc biệt phải có năng lực sư phạm vững vàng,
có sự say mê và sáng tạo trong công việc. Vì vậy tôi đã đưa ra một số biện pháp
chỉ đạo sau để áp dụng vào dạy Tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân
5


tộc H’mông thông qua dạy – học môn Tiếng Việt.
3. Các biện pháp đã thực hiện.

3.1. Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng học tập môn Tiếng
Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc H’mông của trường Tiểu học Trung Lý 2.
+ Chỉ đạo Hội đồng tuyển sinh phối kết hợp với Trường Mầm non tuyển
hết số trẻ trong độ tuổi ra lớp.
+ Chỉ đạo Ban chuyên môn tham mưu bố trí những giáo viên nhiệt tình,
có năng lực, có trình độ chuyên môn và trách nhiệm cao, là người địa phương
hoặc thông thạo tiếng địa phương làm công tác chủ nhiệm lớp 1. Tăng cường
công tác dự giờ đồng nghiệp trong trường, góp ý lẫn nhau để tích luỹ thêm kinh
nghiệm dạy học cho bản thân mình. Tăng cường tổ chức giao lưu về chuyên
môn giữa các khu, các Tổ trong nhà trường để cho các giáo viên học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau.
+ Chỉ đạo giáo viên dạy học theo hướng phân hoá các đối tượng học sinh,
bám sát đối tượng, phù hợp và phát huy được tính tích cực của nhiều đối tượng
học sinh trong cùng một lớp học.
+ Chỉ đạo tốt việc dạy học theo Chuẩn kiến thức và kỹ năng, lựa chọn nội
dung, phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh, phù hợp với
địa phương, dạy học tới từng học sinh; tăng cường việc nhận xét, góp ý hướng
dẫn của giáo viên và học sinh, chỉ ra những lỗi sai của học sinh để giúp các em
tự sửa những lỗi của mình; kịp thời động viên, khích lệ những cố gắng của học
sinh.
+ Chỉ đạo Ban chuyên môn khuyến khích giáo viên tăng cường làm đồ
dùng dạy học và sử dụng đồ dùng tự làm, các loại đồ dùng có sẵn ở địa phương,
đồ dùng dạy học được cấp phát một cách hợp lý, phù hợp với học sinh để tạo
hứng thú trong học tập của học sinh, làm cho học sinh nhận thấy học tiếng Việt
là có ích và thực sự cần thiết, tạo niềm đam mê trong học tập của các em, tạo
môi trường thân thiện để các em tham gia, tạo động cơ “Mỗi ngày đến trường là
một ngày vui” đối với học sinh để từng bước nâng cao hơn nữa chất lượng dạy
học.
+ Xây dựng đội ngũ giáo viên cốt cán trong trường, đặc biệt là các tổ
trưởng, tổ phó chuyên môn làm công tác hỗ trợ về chuyên môn cho nhà trường.

+ Thực hiện dạy học Tiếng Việt lớp 1 cho học sinh dân tộc thiểu số theo
hướng điều chỉnh kế hoạch dạy học theo phương án tăng thời lượng Tiếng Việt.
Điều chỉnh phù hợp, linh hoạt thời gian dạy học của các môn học khác để tăng
thêm thời gian cho môn Tiếng Việt.
+ Tăng cường tích hợp dạy Tiếng Việt trong các môn học, các hoạt động
giáo dục. Vận dụng các phương pháp dạy học Tiếng Việt với tư cách dạy học
ngôn ngữ thứ hai; tăng thời gian luyện nói cho học sinh.
+ Tăng cường sự phối hợp với chính quyền địa phương, phụ huynh học
sinh trong việc huy động học sinh ra lớp và xây dựng cơ sở vật chất cho các
trường.
+ Phối hợp với Đoàn thanh niên tại các địa phương để giúp đỡ các nhà
6


trường trong việc xây dựng hàng rào cho các điểm trường, trồng cây xanh,...
tăng cường công tác sinh hoạt Đội - Sao để học sinh được tham gia các hoạt
động tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp từ đó giúp các em tự tin, mạnh dạn
hơn trong giao tiếp.
+ Thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả và động viên, khuyến khích
kịp thời công tác quản lý, sự tiến bộ về đọc đúng, viết đẹp, tính mạnh dạn tự tin
của học sinh các khu trong nhà trường.
3.2. Những biện pháp chỉ đạo cụ thể cho từng phân môn:
a) Phân môn Học vần:
Là phân môn chiếm nhiều thời lượng nhất của môn Tiếng Việt. Nếu học
sinh không thuộc được các chữ cái, không biết ghép các vần thì học sinh không
thể đọc, không thể viết cũng như không thể học các môn học khác được. Vì vậy
trong công tác chỉ đạo, tôi đưa ra một số giải pháp sau:
+ Giáo viên chủ nhiệm lớp tạo mọi điều kiện về thời gian và tài liệu, thiết
bị dạy học để học sinh được thực hành các kỹ năng đọc, viết, nghe, nói và phát
triển nhiều nhất hai kỹ năng đọc, viết.

Tăng thời lượng dạy học phân môn Học vần từ 2 tiết lên 3 tiết. Sử dụng
nhiều hình thức dạy học sinh động để tạo hứng thú cho học sinh trước khi bước
vào bài học mới: Hội thoại tự nhiên giữa giáo viên và học sinh; vào bài bằng
một bài hát, một câu chuyện nhỏ, một câu đố vui, tổ chức nhiều trò chơi học tập
cho học sinh tham gia,…
Sử dụng triệt để các đồ dùng được cấp phát trong dạy học, giáo viên tăng
cường làm và sưu tầm các đồ dùng dạy học đơn giản, có sẵn ở địa phương.
+ Rèn cho học sinh đọc đúng, viết đúng các âm, vần, tiếng dễ lẫn do ảnh
hưởng của cách phát âm địa phương:
Ví dụ: các vần ăn và ăng; ăn cơm thì học sinh đọc là ăng cơm.
Vần ăt thì đọc thành ắc: Bắt - Bắc ...
+ Tăng cường sử dụng các đồ dùng trực quan sinh động, các hình thức dạy
học phát huy tính tích cực của học sinh. Ví dụ: Khi dạy vần ai, ay giáo viên có
thể tổ chức trò chơi “Em là họa sĩ”:
- Hướng dẫn cho học sinh tô màu xanh vào những đám mây có chứa vần ai.
- Hướng dẫn cho học sinh tô màu hồng vào những đám mây có chứa vần ay.
Chắc chắn với vai trò của “một họa sĩ tí hon” các em sẽ vô cùng say sưa
với các tác phẩm nghệ thuật của mình mà không hề cảm thấy mệt mỏi và căng
thẳng. Tuy nhiên giáo viên cần phải thay đổi thường xuyên những hình ảnh
minh họa để giúp học sinh khỏi bị nhàm chán.
+ Không giải nghĩa từ bằng định nghĩa, từ điển mà nên giải nghĩa từ bằng
các hình ảnh trực quan, các vật thật hoặc đưa các từ vào trong văn cảnh cụ thể
để học sinh hiểu được nghĩa của từ.
+ Sử dụng ngữ liệu chứa nội dung hấp dẫn, sưu tầm các câu đồng giao,
thơ để giúp học sinh dễ thuộc, viết đúng các chữ cái. Ví dụ:
- i, t hai chữ giống nhau
i ngắn có dấu, t dài có ngang.
7



Hoặc sử dụng một số câu đố vui để giới thiệu một số âm, vần thay cho
việc yêu cầu học sinh quan sát tranh để tạo hứng thú trong học tập cho học sinh.
Ví dụ:
- Nét tròn em đọc chữ o
Khuyết đi một nửa sẽ cho chữ gì?
(Chữ c)
Giáo viên cùng học sinh tham gia đố vui rồi dẫn học sinh vào bài học một
cách nhẹ nhàng:
GV: Đố các con đây là con gì?
Mắt màu hồng, thích rau xanh
Đôi tai dài thượt, chẳng nhanh hơn Rùa.
(Con Thỏ - Dạy bài 15: t, th, tổ, thỏ)
e) Hạn chế tối đa sử dụng tiếng địa phương trong dạy học. Chỉ sử dụng
khi thật sự cần thiết với học sinh lớp 1.
b) Phân môn Tập đọc.
+ Kết hợp nhiều hình thức, biện pháp tổ chức dạy đọc thích hợp để huy
động được nhiều học sinh đọc. Một trong những hình thưc tối ưu đó là chia
nhóm, đọc nối tiếp.
+ Chú ý cho học sinh luyện đọc nhiều và sửa sai kịp thời cho học sinh
những phương ngữ địa phương.
+ Thực hiện quy trình dạy tập đọc linh hoạt phù hợp với từng thể loại văn
bản và với từng giai đoạn học tập của học sinh.
+ Tăng thời lượng dạy học từ 2 tiết lên 3 tiết.
c) Dạy phân môn kể chuyện
Được nghe kể chuyện là một nhu cầu tâm lý của học sinh lớp 1, đồng thời
cũng là một yêu cầu của chương trình giảng dạy. Để tạo hứng thú cho học sinh
trong giờ kể chuyện và nâng cao hiệu quả giờ dạy, giáo viên cần sử dụng một số
giải pháp sau:
+ Giáo viên chú ý rèn luyện giọng kể của mình, làm cho học sinh hứng
thú khi nghe kể chuyện, coi trọng các thủ pháp mở đầu câu chuyện, thêm tình

tiết cho văn bản truyện.
+ Sử dụng linh hoạt các biện pháp dạy học thích hợp: Làm mẫu, dẫn dắt,
gợi mở bằng câu hỏi hoặc tranh ảnh nhằm khích lệ học sinh mạnh dạn, tự tin,
tích cực tham gia vào các hoạt động rèn kỹ năng nói của mình.
+ Hướng dẫn học sinh kể bằng lời của mình, không đọc thuộc lòng câu
chuyện.
+ Tổ chức tốt các hình thức luyện tập, gây hứng thú đối với học sinh
(phân vai, hoạt cảnh, đóng kịch...); chú ý tạo mọi cơ hội cho học sinh được thực
hiện luyện tập kể chuyện trên lớp, trong nhóm, tổ hoặc theo cặp.
+ Một số yêu cầu khó có thể được điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với
trình độ học sinh.
+ Giáo viên cần tế nhị hướng dẫn học sinh kể chuyện.
d) Phân môn Tập viết
+ Giáo viên viết chữ mẫu đúng và đẹp từng kiểu chữ, mẫu chữ.
8


+ Dạy cho học sinh cách cầm bút và viết đúng các nét chữ cơ bản như nét
gạch ngang, nét xiên phải, cong tròn,... Dạy viết theo nhóm các chữ có nét cơ
bản giống nhau.
+ Hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập với số chữ, số dòng theo trình
độ học sinh: Giáo viên hướng dẫn học sinh cụ thể về các yêu cầu kỹ thuật viết
từng nét chữ, điểm đặt bút, điểm dừng bút trên dòng kẻ ly để hình thành nên một
chữ cái, rồi đến tiếng, từ, cụm từ và cả câu. Giáo viên cần viết lại chữ mẫu nhiều
lần để học sinh bắt chước viết theo.
+ Sử dụng có hiệu quả các phương tiện, thiết bị hỗ trợ dạy học Tập viết:
Bảng cài, bảng lớp, bảng con...; Rèn tư thế ngồi viết đúng cho học sinh.
e) Phân môn Chính tả.
+ Giáo viên chuẩn bị và hướng dẫn học sinh chuẩn bị tốt các phương tiện
viết bài chính tả (vở, bút, bảng lớp, bảng phụ).

+ Giáo viên chú ý cách đọc: Đọc to, rõ ràng, điều chỉnh tốc độ đọc cho
phù hợp với trình độ học sinh.
+ Có thể thay đổi bài tập chính tả cho phù hợp với lỗi của học sinh trong
lớp.
+ Thường xuyên nhận xét, chữa lỗi cho học sinh, hướng dẫn học sinh cách
tự nhận xét, chữa lỗi cho nhau.
3.3. Một số biện pháp bổ trợ:
a) Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp tạo cơ hội học sinh được giao tiếp.
Việc tăng cường các kỹ năng nghe - nói - đọc - viết cho học sinh không
những chỉ thực hiện trên lớp mà phải được tổ chức cả ngoài lớp học. Đó là các
hoạt động ngoài giờ lên lớp bao gồm:
- Sinh hoạt ca múa hát tập thể, trò chơi dân gian.
- Sinh hoạt văn nghệ, thi kể chuyện, hoạt động TDTT.
- Các buổi sinh hoạt tập thể theo chủ đề, chủ điểm.
Thông qua các hoạt động trên mà tạo ra các tình huống thực cho học sinh
được giao tiếp bằng tiếng Việt với nhiều người, học sinh với học sinh của nhóm
này với nhóm khác hoặc tập thể của lớp này với lớp khác dưới sự hướng dẫn
tích cực của giáo viên phụ trách. Từ các hoạt động này làm cho học sinh tự tin
trong giao tiếp.
b) Tạo môi trường tiếng Việt thông qua các phương tiện bổ trợ. Các
phương tiện bổ trợ bao gồm:
- Tranh ảnh, sách báo ở thư viện.
- Thông qua đồ dùng dạy học, trang trí lớp học...
Để làm tốt giải pháp này, cần phải phát huy tốt vai trò chức năng của bộ
phận thư viện và thiết bị trường học, tạo cơ hội để học sinh được mượn và đọc
sách, thiết bị dạy học phải được đưa về tận lớp học. Tổng phụ trách đội của nhà
trường phải phát huy tốt vai trò của mình trong việc tổ chức và đánh giá các đợt
thi đua từng tuần, từng tháng.
Làm tốt những giải pháp bổ trợ nêu ở trên vừa góp phần tăng cường khả
năng tiếng Việt của học sinh đồng thời góp phần tích cực vào thực hiện cuộc vận

9


động “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ GD&ĐT đã
phát động.
4. Hiệu quả.
Sau khi chỉ đạo áp dụng các biện pháp trên vào việc dạy - học của nhà
trường, qua kiểm tra và khảo sát chất lượng của Ban giám hiệu nhà trường vào
giữa học kỳ II, kết quả đạt được như sau:
Học sinh đã bớt rụt rè và đã mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Học sinh
đọc đã phát âm chuẩn hơn, khả năng đọc liền mạch và ngắt nghỉ câu đã được
nâng lên rõ rệt. Khả năng nói từng câu, từng ý của học sinh đã tốt hơn. Đã giảm
được tình trạng nói cộc lốc, không đủ ý, đủ câu ở học sinh.
Chữ viết của các em cũng đã tiến bộ, chữ của các em viết đã đẹp hơn và ít
bị sai lỗi chính tả. Cách trình bày khi viết của các em cũng đã hợp lý hơn. Các
em cũng đã chủ động hơn trong cách nghĩ, các em đã biết tự suy nghĩ để làm bài
tập.
Chất lượng giáo dục đã có những bước tiến bộ đáng kể. Qua đó cho thấy
tăng cường tiếng Việt cho học sinh đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng giáo dục và cũng là điều kiện quan trọng để thực hiện cuộc vận động
“Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Kết quả sau khi khảo sát đạt được như sau:

TT

Khu

Tổng
số
HS

của
lớp

Nói
đạt
chuẩn
(SL)

Nói
chưa
đạt
chuẩn
(SL)

Biết
cầm
bút
đúng
cánh
(SL)

Cầm
bút
không
đúng
cách
(SL)

Số
lượng

học
sinh
còn
rụt rè

Số
lượng
học
sinh
mạnh
dạn

Ghi
chú

1
2
3
4

Pa Búa
21
14
7
19
2
5
16
Cá Giáng
16

12
4
15
1
3
13
Cánh Cộng
6
4
2
6
0
1
5
Tà Cóm
17
12
5
15
2
5
12
Tổng
60
42
18
55
5
14
46

Qua một thời gian chỉ đạo và thực hiện những giải pháp nâng cao chất
lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 của trường tiểu học Trung Lý
2 tôi thấy: Chất lượng học tập môn Tiếng Việt của học sinh lớp 1 được nâng cao
rõ rệt so với những năm học trước.
Mặt khác, giờ dạy Tiếng Việt của giáo viên lớp 1 cũng gần gũi, sinh động
và hấp dẫn hơn với học sinh, một số giáo viên chủ nhiệm là người địa phương
vừa đóng vai trò là một giáo viên chủ nhiệm lớp lại vừa là một trợ giảng đắc lực
giúp các em tiếp nhận kiến thức mới nhẹ nhàng.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Để nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 cho
10


học sinh dân tộc H’mông không phải là việc làm một sớm, một chiều mà là cả
một quá trình rèn luyện gian nan, bền bỉ, một mình Ban giám hiệu nhà trường
không thể làm được mà cần phải có sự tham gia tích cực của cộng đồng phối
hợp với các thầy, cô giáo trong việc vận động học sinh ra lớp và giáo dục học
sinh; đặc biệt là sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo của các
cấp chính quyền địa phương trong việc chỉ đạo, quan tâm xây dựng cơ sở vật
chất, hỗ trợ sách, vở, đồ dùng học tập... cho học sinh.
Việc chọn lựa giáo viên dạy lớp 1 cho học sinh dân tộc, chú trọng đổi mới
phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh và đặc thù của từng vùng,
miền cũng góp phần lớn trong việc nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt
lớp 1.
Chỉ đạo tốt việc dạy học theo Chuẩn kiến thức và kỹ năng môn học.
Thường xuyên tổ chức giao lưu cho học sinh như giao lưu Tiếng Việt của
chúng em, câu lạc bộ Tiếng Việt, các trò chơi dân gian... để nâng cao vốn Tiếng
Việt cho học sinh.
Trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo về các hình thức tiếp

cận, các phương pháp để dạy tăng cường tiếng Việt cho học sinh thì mỗi giáo
viên cần có sự tìm tòi, rút kinh nghiệm từ thực tiễn giảng dạy để tìm ra giải pháp
phù hợp nhất áp dụng đúng đối tượng học sinh của lớp mình nhằm đạt được hiệu
quả giáo dục cao nhất.
Trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng, với khả năng còn hạn chế
nên không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Rất mong sự góp ý chân tình của các đồng
nghiệp để tôi cố gắng hoàn thiện mình hơn và tìm ra thêm nhiều phương pháp
hay để áp dụng nhằm góp phần đưa nền giáo dục của chúng ta phát triển nhanh
và mạnh hơn nữa, đặc biệt là ở những nơi vùng sâu vùng xa, nơi có điều kiện
khó khăn và học sinh là người dân tộc Hmông nói chung và học sinh các dân tộc
khác nói chung.
2. Kiến nghị
Trên đây là một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn
Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc H’mông ở trường tiểu học Trung Lý 2,
mỗi biện pháp có một thế mạnh và vị trí cần thiết trong quá trình dạy học môn
Tiếng Việt cho học sinh. Biện pháp này thúc đẩy sự phát triển của biện pháp kia
và ngược lại. Do đó, muốn phát huy được sức mạnh của các biện pháp trên cần
có sự liên kết, hỗ trợ giữa các biện pháp. Tuy nhiên, tùy theo thực tế của từng
điểm trường để lựa chọn các biện pháp phù hợp và đạt hiệu quả cao. Rất mong
được sự góp ý chân thành và chia sẻ kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hoá, ngày 13 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép của người khác.
NGƯỜI VIẾT

11



Nguyễn Tiến Hiệp

12



×