Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN phát huy tính chủ động tích cực của học sinh trong giờ dạy ngữ văn 11 theo hướng gợi mở đối thoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.51 KB, 20 trang )

Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
MỤC LỤC
I. Mở đầu …………………………………….………………………......……...1
1 Lí do chọn đề tài..…………………………………...........................................1
2. Mục đích nghiên cứu……………..……………………………………..…….2
3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………………2
4. Phương pháp nghiên cứu…………….…………………………………..……2
II. Nội dung Sáng kiến kinh nghiệm..…………………………………………...3
1. Cơ sở lí luận……………………… ……………………………………….....3
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN……………… …………………5
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề……..…...………………..…..6
4. Hiệu quả của SKKN…………………………..………………………...…...15
III. Kết luận và kiến nghị……………………………………………...………. 16
1. Kết luận…………..………………………………………….………………16
2. Kiến nghị….……………………………………………….………………...16
Tài liệu tham khảo...……………………………………………………………18
Danh mục các đề tài SKKN đã được đánh giá xếp loại..………………………19

1


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................

A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học là một việc làm thường xuyên và rất
cần thiết đối với mỗi người giáo viên, nó không chỉ có ý nghĩa thiết thực trong


việc nâng cao chất lượng giảng dạy cho học sinh trong mỗi giờ lên lớp mà còn
tạo thói quen say mê nghiên cứu khoa học cho mỗi thầy cô nhằm đáp ứng được
yêu cầu của giáo dục trong thời đại mới.
Trong những năm gần đây, theo khảo sát thực tế nhiều học sinh không còn
tâm huyết và yêu thích bộ môn văn. Trước tình hình đó, để tạo không khí và
gieo vào lòng học sinh sự yêu thích học bộ môn văn là một thử thách đối với
giáo viên. Mặc dù Bộ giáo dục đã tiến hành thay sách và liên tục có sự đổi mới
trong phương pháp giảng dạy của giáo viên nhưng không phải hoàn cảnh nào
giáo viên cũng có thể làm được. Bởi vậy cần tổ chức cho học sinh tham dự vào
những tình huống mâu thuẫn văn học, vào hành động sáng tạo với nhà văn tạo
mọi điều kiện thuận lợi để các em phát hiện bộc lộ các quan điểm cách hiểu chủ
kiến của riêng mình về các hiện tượng văn học. Có như vậy các em mới phát
huy vai trò chủ thể tiếp nhận của mình hay nói đúng hơn là chủ động tiếp nhận
kiến thức trong giờ học văn. Vì những lẽ trên tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài
“Phát huy tính chủ động tích cực của học sinh trong giờ dạy ngữ văn 11
theo hướng gợi mở - đối thoại”
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ xin mạnh dạn đề xuất một vài giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học tác phẩm ngữ văn trong nhà trường
phổ thông qua việc tạo không khí đối thoại trong quá trình lĩnh hội tác phẩm văn
học của học sinh ở cấp học trung học phổ thông đúng theo tinh thần đổi mới
trong hoạt động dạy và học văn hiện nay, mong rằng sẽ đem lại những hiệu quả
thiết thực.
Với vốn kinh nghiệm ít ỏi và thời gian có hạn, khó tránh khỏi những
khiếm khuyết trong quá trình thực hiện. Mong rằng các đồng chí, đồng nghiệp
sẽ có nhiều ý kiến đóng góp để sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn.
2


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn

.................................................................................................................................
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Quá trình dạy học văn vốn phong phú và phức tạp. Mỗi tác phẩm là một sinh
mệnh riêng, một sáng tạo độc đáo, là con đẻ tinh thần của nghệ sĩ, là tiếng nói
nghệ thuật về thế giới tinh thần hoặc về hiện thực cuộc sống. Giờ học đối thoại
xét về bản chất chính là quá trình tổ chức mối quan hệ giao tiếp nghệ thuật giữa
ba chủ thể này nhằm giải phóng tiềm năng sáng tạo cho giáo viên và học sinh
thoát khỏi những công thức gò bó đi ngược quá trình vận động đổi mới. Đối
thoại phải được tổ chức hợp lí trong một kết cấu chặt chẽ, uyển chuyển linh hoạt
theo lôgíc của quá trình tiếp nhận. Đối thoại phải được xây dựng từ hệ thống
tình huống học tập đặt ra từ bản thân tác phẩm phù hợp với tầm đón nhận của
học sinh. Thông qua đối thoại, chủ thể học sinh sẽ tự bộc lộ quá trình nhận thức,
tình cảm, quan điểm, vốn sống, năng lực, bản lĩnh. Thầy có điều kiện để dẫn dắt
học sinh từng bước chiếm lĩnh tác phẩm một cách hứng thú và hoàn thiện nhân
cách.
Tổ chức giờ học đối thoại sẽ bảo đảm không khí dân chủ cởi mở trong
môi trường sư phạm, tạo không khí văn chương, có ý nghĩa tích cực tạo hiệu quả
cao cho giờ dạy. Song không nhìn nhận kiểu giờ học này biệt lập với các giờ học
khác. Vấn đề đặt ra là phải biết phối hợp đồng bộ giữa sáng tạo năng động của
chủ thể học sinh với yêu cầu định hướng sư phạm của giáo viên.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu và xây dựng hệ thống câu hỏi ở mức độ nhận biết, thông hiểu và vận
dụng trong chủ đề “Phát huy tính chủ động tích cực của học sinh trong giờ
dạy ngữ văn 11 theo hướng gợi mở - đối thoại”.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Vận dụng kiến thức tiếp thu từ các chuyên đề do Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT
triển khai để xây dựng hệ thống câu hỏi theo các mức độ nhận biết của học sinh.
- Kết hợp nghiên cứu hệ thống câu hỏi trong môn Ngữ văn qua Sách tham khảo,
qua các đề thi THPT Quốc Gia.
- Từ đó xây dựng hệ thống câu hỏi trong chủ đề “Phát huy tính chủ động tích

cực của học sinh trong giờ dạy ngữ văn 11 theo hướng gợi mở - đối thoại”
3


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
theo một số bước sau:
1. Bước 1: Xác định nội dung chủ đề.
- Xác định những nội dung quan trọng trong chủ đề.
- Đối chiếu mục tiêu, chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình và nội
dung SGK môn Ngữ văn THPT với mục tiêu và nội dung dạy học và kiểm tra,
đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh .
2. Bước 2: Xác định mục tiêu và hình thức của đề kiểm tra.
- Mục tiêu kiểm tra, đánh giá kết quả học tập là theo định hướng đánh giá
năng lực học sinh.
- Với điều kiện thực hiện ở trường phổ thông hiện nay thì phương pháp
kiểm tra, đánh giá chủ yếu là kiểm tra viết và hình thức kiểm tra, đánh giá kết
hợp giữa các câu hỏi trắc nghiệm với các câu hỏi tự luận.
3. Bước 3: Xây dựng hệ thống câu hỏi trong nội dung chủ đề.
Sau khi xác định được nội dung, mục tiêu bài học giáo viên nghiên cứu
rồi xây dựng hệ thống câu hỏi. Nội dung câu hỏi phải bám sát với nội dung của
bài học, đảm bảo tính giáo dục cao, trang bị kĩ năng sống cho học sinh và giúp
các em có thể trả lời nhanh, chính xác. Thông qua đó có thể phân hoá được đối
tượng học sinh một cách tốt nhất.

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN :
Phương pháp có vai trò rất quan trọng trong đời sống, trong nghiên cứu khoa
học. Nó tồn tại trong lí luận và trong thực tiễn cuộc sống, nó là công cụ, vừa là

động lực sáng tạo ra cái mới.
Dạy và học cũng là một khoa học, nó đòi hỏi có phương pháp riêng phù
hợp với quá trình giảng dạy, và học sinh do giáo viên hướng dẫn nhờ đó mà lĩnh
hội được kiến thức, kĩ năng nhằm từng bước tự hoàn thiện về nhân cách.

4


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
Trước hết chúng ta cần phải hiểu phương pháp là gì? Phương pháp được
hiểu một cách chung nhất là con đường, cách thức để đạt được mục đích.
Phương pháp dạy học văn nghiên cứu bản chất của quá trình dạy học văn,
chỉ ra phương pháp (cách thức) tiếp nhận văn học có hiệu quả nhất nhằm phát
huy được vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh.
So với các môn khoa học khác trong nhà trường, môn văn là môn học vừa
mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Văn chương vốn có khả năng đi
sâu vào tâm hồn người đọc. Nó lắng đọng kết tinh trong tâm hồn, giúp hiểu con
người, hiểu cuộc sống và khát vọng vươn tới cái Chân- Thiện- Mĩ. Do vậy, đổi
mới phương pháp dạy học môn văn không chỉ là đổi mới cách đánh giá, xem xét
mối quan hệ giữa giáo viên, học sinh với tác phẩm văn chương, mà quan trọng
là đổi mới phương pháp, biện pháp dạy học của giáo viên.
Thực tế giảng dạy các tác phẩm văn chương ở các nhà trường cho chúng
ta thấy học sinh chưa thực sự hứng thú học các giờ Ngữ văn, đôi khi giáo viên
còn thấy lúng túng khi dạy một tác phẩm có sức lôi cuốn. Điều đó đòi hỏi chúng
ta phải đổi mới phương pháp dạy các tác phẩm văn chương.
Thực tế nữa cho thấy, việc đổi mới phương pháp dạy học đã được Bộ GD
& ĐT triển khai nhiều năm nay cùng với việc thay sách giáo khoa để tiện cho
việc tích hợp kiến thức của giáo viên và học sinh. Nhưng là một giáo viên dạy

nhiều năm, chúng tôi thấy rất rõ kết quả của việc áp dụng phương pháp mới vào
dạy học chưa thực sự có kết quả.
Xuất phát từ những yêu cầu của quan điểm dạy học văn hiện đại trên,
cũng như những đặc trưng của bộ môn, tôi cho rằng muốn nâng cao chất lượng
giờ dạy học tác phẩm văn học thì cần phải tổ chức được những giờ dạy tác phẩm
theo tinh thần đối thoại. Bởi vì chỉ có trong đối thoại và bằng đối thoại mới có
thể giải quyết được những giờ dạy học văn nhàm chán đã nêu, kích thích óc sáng
tạo của học sinh để học sinh thực sự đóng vai trò trung tâm trong giờ học tác
phẩm văn chương.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SKKN:
5


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
Qua thực tế giảng dạy ở nhà trường phổ thông, một vấn đề đặt ra đối với
cả thầy và trò là việc tiếp cận, tìm hiểu các tác phẩm văn học còn gặp phải nhiều
khó khăn.
- Về phía thầy:
Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học văn không ngừng
được cải tiến, tuy nhiên vẫn còn chịu ảnh hưởng của phương pháp dạy truyền
thống mang tính chất thuyết giảng. Việc nêu câu hỏi trong giờ dạy đã được chú ý
hơn nhưng các câu hỏi trong giờ giảng văn thường mang tính chất vụn vặt, chưa
có tính hệ thống, chưa phát huy được tính sáng tạo của chủ thể học sinh trong
việc chiếm lĩnh tác phẩm.
- Về phía học sinh:
Nhìn một cách khách quan, hiện nay học sinh có tâm lí chung là ngại học bộ
môn Văn. Tâm lí thụ động, trông chờ vào sự truyền thụ kiến thức của thầy vẫn
còn phổ biến, dẫn tới tình trạng học vẹt, thầy đọc trò chép, làm cho tác phẩm

văn học trở nên khô cứng, chưa thực sự thâm nhập vào học sinh.
Là giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi nhận thấy trách nhiệm của mình là
phải làm gì để đáp ứng được yêu cầu đổi mới đó trong từng tiết học. Nhận thức
rõ những vấn đề cụ thể của riêng sách giáo khoa nhằm đảm bảo tốt kết quả giảng
dạy, tôi đã nhận thức được hệ thống văn bản và ý đồ nâng cao chất lượng văn
bản của sách giáo khoa Ngữ văn THPT qua việc đọc và hiểu văn bản.Từ thực
trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung
phương pháp tiếp cận, tìm hiểu các tác phẩm văn học được chọn giảng trong nhà
trường phổ thông, nhằm giúp người thầy tìm ra được những phương pháp giảng
dạy tích cực, khoa học theo hướng đổi mới. Đối với học trò khi đã nắm được
phương pháp học tập, hiểu văn bản kĩ hơn sâu hơn sẽ tạo được niềm hứng thú
say mê trong học tập, khơi dậy tính tích cực chủ động sáng tạo, dần dần làm
thay đổi phương pháp học cũ “thầy đọc- trò chép” mang tính thụ động.
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1.Tạo không khí dân chủ trong giờ dạy học văn.
6


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
Trong giờ dạy học, tác phẩm văn học như một đối tượng nhận thức thẩm
mĩ, một phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện cho học sinh cần phải được
hiểu trong quá trình giao tiếp. Có như thế, bạn đọc- học sinh- mới tiếp thu được
những giá trị tinh thần mà người nghệ sĩ đã sáng tạo nên. Tác phẩm chỉ có thể
trở thành tài sản của các em trong mối liên hệ trực tiếp với tiếng nói trữ tình hay
quan điểm, thái độ, tư tưởng của nhà văn thông qua các hình tượng nghệ thuật
dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tức giáo viên phải là người bắc cầu nối giữa
văn bản và học sinh. Người giáo viên trong giờ dạy học phải xây dựng được mối
quan hệ liên chủ thể giữa nhà văn, giáo viên và học sinh thông qua văn bản văn

chương, phải thực hiện được sự đối thoại tay ba giữa ba chủ thể.
Người giáo viên phải tạo ra sự hoà đồng giữa hai quá trình tác động của
văn bản và sự tiếp nhận các tác động thẩm mĩ của văn bản ở học sinh. Chính vì
vậy, thực chất của giờ dạy học tác phẩm văn chương là phải nhằm tổ chức được
hoạt động giao tiếp nghệ thuật giữa các chủ thể trong môi trường sư phạm theo
qui luật của quá trình tiếp nhận văn chương.
Tạo không khí dân chủ trong giờ học văn chính là xác lập một mối quan
hệ bình đẳng, cởi mở, tự do sáng tạo trong quan hệ giao tiếp với tác phẩm của
chủ thể học sinh, là xác lập ở các em tư cách bạn đọc sáng tạo đối thoại với tác
phẩm. Bầu không khí dân chủ là tiền đề kích thích sự hăng hái, sáng tạo ở các
em để cùng trao đổi, thảo luận với giáo viên, với bạn bè về cách nhìn, cách nghĩ,
cách cảm, cách biểu đạt, phản ánh, xây dựng hình tượng nghệ thuật trong tác
phẩm, bộc lộ những đánh giá, nhận thức, quan điểm, xúc cảm về tư tưởng, chủ
đề tác phẩm. Thông qua đối thoại dân chủ, giáo viên hướng dẫn, điều chỉnh, bổ
sung sự cảm thụ của các em tác động hình thành nên những trí tuệ mới, phẩm
chất mới ở học sinh, để các em là một chủ thể tiếp nhận chủ động chứ không
phải là một thực thể thụ động. Các em không những phát triển về mặt văn học
mà còn được phát triển về nhiều mặt như bộc lộ nhân cách, trau dồi khả năng
giao tiếp nghệ thuật.
Không khí dân chủ trong giờ học văn phải được xác lập trên cơ sở ý thức
sâu về tính sư phạm của giáo viên trong tổ chức tiến hành phải phù hợp với yêu
7


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
cầu nội tại của tác phẩm và sự vận động trí tuệ, tình cảm, vốn kinh nghiệm của
học sinh. Đó phải là không khí cởi mở thực sự chứ không phải là không khí giả
tạo. Ở đó, năng lực tiếp nhận của từng em có điều kiện bộc lộ, cọ xát qua trao

đổi để tự điều chỉnh nhằm phù hợp với hệ thống chuẩn giá trị mang ý nghĩa xã
hội.
Giờ dạy phải có sức hấp dẫn, thuyết phục cao từ chính cái đẹp trong văn
bản, hấp dẫn và say mê người học. Tức người thầy phải biết gợi, biết mở ra
những điều bí ẩn sau câu, chữ, hình ảnh nằm chết cứng trên trang giấy để chúng
lên tiếng đối thoại với từng học sinh. Đây là quá trình giáo viên hoá thân vào
văn bản, sáng tạo lại văn bản thành tác phẩm sinh động, có hồn.
Tạo không khí dân chủ trong giờ học văn chương đòi hỏi giáo viên phải
xử lí nhiều mối quan hệ phức tạp. Không thể chỉ hiểu sâu sắc tác phẩm là đủ mà
còn phải dự kiến những tình huống tiếp nhận nảy sinh trong cách bộc lộ đối
thoại giao tiếp với tác phẩm của học sinh nhằm định hướng trong việc sử dụng
các phương pháp, biện pháp tổ chức hoạt động tiếp nhận cho các em một cách
linh hoạt, phối hợp có hiệu quả các phương pháp, biện pháp tác động như đọc,
tái tạo gợi mở… sao cho có trật tự lô gíc tạo điều kiện cho các em tham gia vào
các tình huống đầy sáng tạo với tác giả, tự thể nghiệm, đồng cảm, tự thanh lọc
về tâm hồn trong bước tiếp nhận.
2. Xây dựng các câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề, phát hiện các tình huống có
vấn đề trong tác phẩm nhằm kích thích hứng thú tìm hiểu, khám phá của
học sinh
2.1. Hệ thống câu hỏi gợi mở
Có thể dựa vào một số vấn đề then chốt về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm giúp học sinh khắc sâu và nâng cao năng lực cảm thụ ban đầu.
Từng câu hỏi là một “dấu hiệu” có tính chất chi tiết và bị phân hướng vào
nội dung cơ bản của tài liệu. Hệ thống câu hỏi không chỉ phục vụ cho hoạt động
trí tuệ để học sinh tự lĩnh hội tri thức phù hợp với đặc trưng bộ môn nghệ thuật.
Những câu hỏi gợi mở vừa hấp dẫn về mặt nội dung vấn đề nêu ra vừa
phải có ý nghĩa nghệ thuật và hình thức mới. Bằng cách đặt các câu hỏi gợi mở,
8



Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
giúp các em tự mình cảm thụ cái hay, cái đẹp trong văn chương, tự mình có thói
quen và khả năng phát hiện, chiếm lĩnh tri thức từ những tài liệu học trong nhà
trường hay đọc ngoài nhà trường.
2.2. Các câu hỏi nêu vấn đề.
Dạy học nêu vấn đề nhằm phát huy trí tuệ sáng tạo của học sinh. Các phương
pháp dạy học văn ứng với ba giai đoạn tiếp cận- đi sâu, tổng hợp và khái quát.
Cái quí nhất đối với người học sinh chưa phải là kết luận về hiện thực mà là con
đường dẫn tới những kết luận đó. Phương pháp dạy học văn là con đường vạch
ra hình thức tồn tại của nội dung. Con đường hình thành nhân cách và lĩnh hội
tri thức phải thông qua sự vận động tự nhiên của chủ thể học sinh. Dạy học nêu
vấn đề là dựa vào những qui luật của tư duy, đặc biệt là tư duy sáng tạo.
Trong dạy học truyền thống, chỗ hạn chế nhất là thói quen đưa đến cho người
học những kiến thức có sẵn và người học chỉ còn tiếp nhận một cách thụ động
và rồi ghi nhớ, ghi nhớ để rồi lặp lại.
Trong dạy học nêu vấn đề, kiến thức không đưa đến dưới hình thức có sẵn mà
thông qua tình huống có vấn đề đặt ra trước học sinh.
 Tình huống có vấn đề: Là trạng thái tâm lí nảy sinh trước khó khăn về trí
tuệ mà con người ta không thể giải thích hoặc hành động bằng kiến thức
cũ, phương thức cũ. Là tình huống trong đó chủ thể cảm thấy có cái khó
trong nhận thức hay nói cách khác có mâu thuẫn nhận thức giữa cái đã
biết và cái chưa biết, đồng thời chủ thể có mong muốn giải quyết mâu
thuẫn bằng cách huy động những cái đã biết tạo ra phương thức hành
động mới để đạt được hiểu biết mới. Muốn có tình huống có vấn đề cần
có ba thành tố liên quan chặt chẽ với nhau:
+ Cái chưa biết: Đó là tri thức mới, cách thức hành động mới mà học sinh
cần phát hiện và chiếm lĩnh.
+ Nhu cầu nhận thức của chủ thể.

+ Khả năng có thể chiếm lĩnh cái chưa biết của chủ thể.

9


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
Cơ chế của quá trình này: Giáo viên đặt vấn đề- học sinh tri giác- giáo
viên tổ chức quá trình giải quyết vấn đề. Kết quả là học sinh nắm kiến thức,
phương thức giải quyết và phương pháp nhận thức khoa học.
Tình huống có vấn đề sẽ có tác dụng lôi cuốn học sinh vào quá tình tư
duy. Một bài văn, một tác phẩm văn học, số phận nhân vật chỉ trở thành đối
tượng suy tư của mỗi người khi chính người đó nhận ra trong đó một tình huống,
một vấn đề, một tâm trạng có liên quan đến suy nghĩ hay rung động của mình.
Một giờ dạy văn muốn thành công nhất thiết phải xây dựng được một hay những
tình huống có vấn đề và được học sinh tiếp nhận một cách có ý thức.
Như vậy, người giáo viên phải là người nêu nên được những tình huống có vấn
đề thông qua các câu hỏi nêu vấn đề nhằm gợi sự hứng thú của học sinh. Ở đây
chúng ta cần phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa câu hỏi nêu vấn đề và câu hỏi
tái hiện:
- Câu hỏi trong hoạt động tái hiện thường vụn vặt, rời rạc, xa lạ với quan
điểm hệ thống vốn là một đặc trưng của khoa học hiện đại.
- Câu hỏi nêu vấn đề chứa đựng một nội dung rộng lớn bao gồm một khối
lượng tư liệu rộng rãi. Nó mang tính tổng hợp bao gồm nhiều mối liên hệ
giữa các yếu tố, sự kiện nhằm sáng tỏ quan điểm chung của tác giả trong
tác phẩm.
Câu hỏi nêu vấn đề thường có tính chất phức tạp về nội dung. Nó gợi lên mối
mâu thuẫn giứa cái đã biết với cái chưa biết, giữa cái cũ với cái mới trong nhận
thức của học sinh với tác giả, giữa học sinh với nhau về một vấn đề trung tâm

trong tác phẩm.
Câu hỏi nêu vấn đề phải vạch ra được mối quan hệ hữu cơ giữa những yếu tố
cụ thể với những quan điểm kép của bài văn, của tác phẩm như chủ đề, quan
điểm tác giả, tác dụng, ý nghĩa tác phẩm.
Câu hỏi nêu vấn đề phải mang tính hệ thống liên tục nhằm dẫn dắt học
sinh từng bước khám phá tư tưởng, ý đồ nghệ thuật của tác giả, câu sau bổ sung
cho câu trước làm thành một chuỗi những liên hệ nối tiếp nhau trong một hệ
thống vấn đề.
10


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
Câu hỏi phải sát hợp với tác phẩm văn học, khêu gợi được hứng thú của
bản thân học sinh. Giáo viên phải cân nhắc để câu hỏi vừa phản ánh được bản
chất của tác phẩm, vừa nằm trong tầm cảm nghĩ của học sinh. Các câu hỏi nêu
vấn đề được đặt ra thông qua sự đối thoại giữa giáo viên và học sinh, trong
không khí tự do, dân chủ trình bày quan điểm khoa học của học sinh.
3. Hướng dẫn học sinh đối thoại trong hoạt động phân tích.
Đối tượng của hoạt động phân tích là văn bản, phân tích hình tượng, phân tích
kết cấu, nội dung, nghệ thuật tác phẩm, phân tích tính cách nhân vật, ngôn ngữ
đối thoại, tâm trạng, phân tích tình huống truyện, lời kể, nhân vật tác giả (người
dẫn truyện hoặc chủ thể trữ tình), phân tích đoạn văn, đoạn thơ, hình ảnh, biện
pháp tu từ, thời gian, không gian nghệ thuật, tính chiến đấu, giá trị nhân đạo, cái
bi, cái hài. Tức là đối tượng các hoạt động phân tích rất đa dạng phong phú.
Thông qua đối thoại tiến hành hoạt động phân tích nhằm thực hiện các nhiệm
vụ:
+ Không dừng lại ở nhận thức câu từ mà là nhận thức lí tính ở học sinh.
+ Đây là hoạt động có chủ đích nên giáo viên phải hướng cho học sinh đến

phân tích cái gì, phân tích như thế nào?
+ Thông qua phân tích giúp học sinh khám phá chiều sâu nội dung, tư tưởng
nghệ thuật của tác phẩm.
Tiến trình phân tích theo hai con đường cơ bản là qui nạp hoặc phân tích.
Tuỳ từng tác phẩm mà giáo viên vận dụng linh hoạt để giúp các em chiếm lĩnh
kiến thức một cách chủ động.
4. Hướng dẫn học sinh đối thoại trong hoạt động bình mở rộng nâng cao.
- Hoạt động này giúp học sinh nắm bắt được quan niệm, cách bộc lộ thái độ,
quan điểm của nhà văn về thế giới và con người. Nắm bắt được nội dung triết lí,
tư tưởng…của tác giả là bước quan trọng nhằm nâng cao trình độ tiếp nhận cho
học sinh ở cấp độ khái quát.
- Ở đây, việc tổ chức đối thoại phải được thực hiện trong việc nắm bắt tác phẩm
ở cấp độ cao hơn: Cấp độ chủ thể trong sự thống nhất giữa nội dung và hình
thức nghệ thuật và thấy được cái hay, cái đẹp, cái tài năng nghệ thuật của tác giả.
11


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
Trên đây là những biện pháp cơ bản trong việc dạy học đối thoại nhằm phát
huy chủ thể nhận thức ở học sinh. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, giáo
viên cần vận dụng kết hợp linh hoạt và sáng tạo tuỳ từng phong cách của mỗi
người.
5. Minh họa qua văn bản : “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” ( Trích “Vũ Như Tô” Nguyễn Huy Tưởng ) – Ngữ văn 11
I. Giới thiệu tác giả- tác phẩm.
Giáo viên gợi cho học sinh nhớ lại tác phẩm đã được học trong chương
trình của Nguyễn Huy Tưởng, từ đó hướng học sinh tìm hiểu về tác giả và tác
phẩm, đoạn trích.
1. Tác giả:

Hỏi:Căn cứ vào phần tiểu dẫn SGK, em hãy nêu những nét chính về tác
giả Nguyễn Huy Tưởng?
Hỏi: Qua chuẩn bị bài ở nhà, em hãy cho biết đâu là điều vừa quen vừa lạ
khi đọc trích đoạn kich Vũ Như Tô của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng?
- Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) xuất thân trong gia đình nhà nho của
đất kinh Bắc xưa.
- Ông có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử để xây dựng tác phẩm có qui
mô lớn và có đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch.
- Ông sớm tham gia cách mạng, hoạt động trong những tổ chức văn hoá
văn nghệ do Đảng lãnh đạo.
Hỏi: Nét đặc sắc trong phong cách viết văn của ông?
-Văn phong giản dị, trong sáng, vừa đôn hậu, thâm trầm sâu sắc.
2. Tác phẩm:
Hỏi: Nêu hoàn cảnh sáng tác tác phẩm “Vũ Như Tô”?
Hỏi: Hãy tóm tắt thật ngắn gọn tác phẩm?
-Vũ Như Tô là vở bi kịch lịch sử 5 hồi viết về một sự kiện xảy ra ở kinh
thành Thăng Long khoảng năm 1516-1517 dưới triều Lê Tương Dực.Tác phẩm
được hoàn thành 1941.
12


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
- HS khái quát chung về tác phẩm, đọc tóm tắt.
- GV giới thiệu bảng nhân vật bằng máy chiếu hoặc in trên giấy khổ lớn.
Hỏi: Nêu vị trí đọan trích?
- Đoạn trích thuộc hồi thứ V của vở kịch.
II. Đọc hiểu văn băn bản
1. Đọc:

- GV hướng dẫn phân vai cho HS đọc đoạn trích
- Hướng dẫn HS chú ý dựa vào các chỉ dẫn sân khấu để thể hiện giọng
đọc cho phù hợp với tình huống kịch.
+ Giọng Đan Thiềm đầy lo lắng, hốt hoảng, cứng cỏi, đau đớn.
+ Giọng Vũ Như Tô băn khoăn, chất chứa những câu hỏi lớn vừa nhức
nhối vừa da diết vừa khắc khoải.
+ Giọng quân lính hỗn hào, giọng lũ cung nữ bợ đỡ, lẳng lơ…..
2. Phân tích văn bản
a. Các mâu thuẫn cơ bản
GV hướng dẫn HS tóm tắt các sự việc chính, phát hiện mâu thẫn và bước
phát triển của xung đột cao trào trong hồi cuối, từ đó phân tích các xung đột
kịch:
Hỏi: Anh (chị) hãy tóm tắt nội dung hồi V của vở kịch?
Hỏi: Đan Thiềm hốt hoảng thông báo: “loạn đến nơi rồi”và thở dài “Biến
đến thế là cùng”, theo em “loạn” và “biến” xảy ra trong hồi V xuất phát từ đâu?
Liệu có cách giải quyết nào khác ngoài “loạn” và “biến”?
- Xuất phát từ: mâu thuẫn giữa nhân dân và bọn hôn quân bạo chúa.
- Quá trình phát triển của mâu thuẫn này đã chỉ ra tính tất yếu của hồi V.
(phân tích)
Hỏi: Theo anh (chị) vì sao lại có những ánh mắt và thái độ khác biệt như
vậy khi nhìn nhận và đánh giá Cửu Trùng Đài?
Hỏi: Hãy liệt kê những lời thoại thể hiện sự khác biệt này. Từ đó, anh
(chị) hãy chỉ ra mâu thuẫn thứ hai trong vở kịch?
13


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
- HS lí giải, liệt kê và khái quát mâu thuẫn.

- GV chiếu bảng liệt kê, nhận xét, bổ sung.
Hỏi: Điều gì tạo nên sự khác biệt đến đối lập khi nhìn nhận và đánh giá
về công trình mà Vũ Như Tô kì vọng?
- Ước mơ, khát khao ấy là rất đẹp, là chân chính, bởi nó được xuất phát từ
cái tâm tha thiết với dân tộc.
- Nhưng Cửu Trùng Đài càng xây cao, mạng người càng rẻ mạt, nhân dân
càng điêu đứng, bọn hôn quân bạo chúa càng vơ vét.
=>Sự đối lập này đã chỉ ra mâu thuẫn thứ hai: mâu thuẫn giữa quan niệm
nghệ thuật cao siêu, thuần tuý muôn đời và lợi ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân.
Hỏi: Kết thúc vở kịch, dân chúng đã hiểu gì về Vũ Như Tô? Cách hiểu đó
liệu có khác so với trước đây?
Hỏi: Liệu Vũ Như Tô khi ra pháp trường đã tự trả lời được cho mình câu
hỏi “ta tội gì?” hay vẫn một câu trả lời không thay đổi “Vô lí. Ta không có tội”?
- HS trả lời.
b. Phân tích tâm trạng bi kịch của Vũ Như Tô và Đan Thiềm.
*Đan Thiềm:
Hỏi: Nguyễn Huy Tưởng đã viết trong tựa đề: “cầm bút chẳng qua cùng
một bệnh với Đan Thiềm”. Dựa vào đoạn trích, anh (chị) hãy lí giải điều mà nhà
văn gọi là “bệnh Đan Thiềm”?
- HS trả lời:“bệnh Đan Thiềm” chính là bệnh đam mê, trân trọng, nâng niu
cái tài, cái đẹp, bệnh của kẻ “biệt nhỡn liên tài”.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích tâm trạng của Đan Thiềm trong
đoạn trích
Hỏi: Hãy phân tích những biểu hiện của tấm lòng trân trọng, hết mình bảo
vệ cái tài, cái đẹp của Đan Thiềm?
- Bà là người đã khuyên Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài giờ lại bằng mọi
cách thuyết phục ông trốn đi. Cả hai việc đều có nghĩa duy nhất: bảo vệ cái tài,
cái đẹp.
14



Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
- Bà đau đớn nhận ra thất bại của giấc mộng lớn Cửu Trùng Đài.Trong hồi
5 có đến 20 lần nàng thúc giục Vũ Như Tô trốn đi, lánh đi, chạy đi.Tâm trạng lo
lắng, hốt hoảng, van xin tha tội cho ông cả .
* Vũ Như Tô:
- Giáo viên dẫn dắt: Đoạn trích là đỉnh cao của bi kịch Vũ Như Tô. Mọi
mâu thuẫn âm ỉ giờ trào ra thành sóng thác hành động và kết thúc đầy bi thảm.
- Giáo viên đặt vấn đề: Trong lớp kịch thứ 5, Đan Thiềm giục Vũ Như Tô
trốn. Nàng cảnh báo “ông đừng mơ mộng nữa”, phải chăng đó là tâm trạng đầy
bi kịch của nghệ sĩ tài hoa Vũ Như Tô?
- Giáo viên gợi mở để học sinh tìm hiểu:
Hỏi: Cái tài của Vũ Như Tô trong lớp kịch được thể hiện như thế nào?
Hỏi: Qua tóm tắt, anh (chị) thấy giấc mộng ảo vọng của Vũ như Tô bắt
đầu ra sao?
Hỏi: Trong thời khắc đầy biến động dữ dội, sự thật phũ phàng dội xuống,
họ Vũ có còn mơ?
Hỏi: Đâu là khoảnh khắc Vũ Như Tô nhận ra giấc mộng lớn đã tan tành?
Tâm trạng của ông trong khoảnh khắc ấy?
Hỏi: Nỗi đau vỡ mộng của bi kịch Vũ Như Tô thức tỉnh ở chúng ta điều gì?
- HS trả lời từng khía cạnh câu hỏi.
- Giáo viên nhận xét, tổng hợp.
III. Tổng kết:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích, đánh giá thành công nghệ thuật
của đoạn trích.
Hỏi: Anh (chị) hãy đánh giá những đặc sắc về nghệ thuật của đoạn trích?
- HS trả lời.
Hỏi: Anh (chị) hãy nêu ý nghĩa của bi kịch Vũ Như Tô?

- HS trả lời và đọc phần ghi nhớ SGK.
Trên đây là hệ thống câu hỏi vận dụng trong quá trình giảng dạy văn học.
Tuy nhiên việc vận dụng của người giáo viên trong từng bài dạy cần linh hoạt,
15


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
sáng tạo giúp các em tiếp cận văn bản, tích cực tìm đến được kiến thức bài học
một cách chủ động, lĩnh hội kiến thức một cách sâu hơn, rộng hơn bằng chính
năng lực tư duy sáng tạo của mình.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SKKN:
Sau một thời gian vận dụng phương pháp dạy học theo hương gợi mở đối thoại tôi nhận thấy:
- Giờ dạy văn đã gây sự chú ý, cuốn hút các em tập trung học tập, động
não, suy nghĩ. Số học sinh tham gia phát biểu ý kiến tăng lên. Nội dung câu trả
lời tập trung vào kiến thức trọng tâm không lan man, dài dòng.
- Giờ học sôi nổi, học sinh nắm được nội dung tác phẩm ngay trên lớp.
So với phương pháp cũ, học sinh đã giảm được tình trạng hiểu văn bản một cách
hời hợt, cảm thấy khó hiểu dẫn đến tâm lí ngại học, dần dần mất đi niềm hứng
thú, say mê.
Với cách học này còn tạo cho học sinh một thói quen học tập nghiêm túc,
khoa học
Để kiểm nghiệm kết quả của cách học trên, tôi có tiến hành khảo sát trên
cùng một đối tượng học sinh, tôi đã thu thập được các số liệu như sau:
Năm học 2016 - 2017 khi dạy ở hai lớp là 11C3 và 11C6 với cách dạy cũ,
tôi có tiến hành kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh qua một đề bài tự
luận: Cảm nhận của em về vẻ đẹp của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Và kết quả cho
thấy: 40% đạt yêu cầu, 60% chưa đạt yêu cầu.
Năm học 2017- 2018 với đối tượng là học sinh ở hai lớp 11A5 và 11A6,

sau khi áp dụng một số giải pháp tích cực trên, qua một số đề bài kiểm tra tương
tự, kết quả cho thấy 80% đạt yêu cầu, chỉ có 20% chưa đạt yêu cầu.
Có thể nói đó là một kết quả khả quan, việc áp dụng phương pháp dạy học
theo hướng đổi mới đã cho thấy số lượng học sinh nắm được kiến thức cơ bản
nhiều hơn, chứng tỏ chất lượng dạy và học đã được nâng lên một bước.

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN:
16


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
Trên đây là những đề xuất còn mang tính chủ quan. Tuy nhiên khi áp
dụng vào các giờ dạy học trong các năm học gần đây, tôi thấy có hiệu quả rõ rệt.
Học sinh hứng thú thực sự trong giờ học, có những tiết học vô cùng sôi nổi, hào
hứng. Bản thân tôi cũng thấy bất ngờ khi có những phát hiện mới mẻ từ học
sinh. Thậm chí có những tiết dạy tôi đưa ra câu hỏi nêu cảm nhận về ý nghĩa tư
tưởng của tác phẩm, về hình tượng nhân vật vừa học để các em làm bài tập
luyện tập để minh chứng quá trình tổ chức dạy học như đã nêu ở trên và đã đạt
được rất nhiều khả quan trong việc tiếp nhận tác phẩm của học sinh.
II. KIẾN NGHỊ:
Thực hiện quá trình đổi mới là công việc phức tạp, đòi hỏi nhiều công sức
tâm huyết của mỗi giáo viên chúng ta. Trong quá trình thực hiện, đổi mới đòi hỏi
phải có sự kết hợp đồng bộ giữa nhiều cấp độ. Chính vì vậy tôi xin nêu một vài
kiến nghị đề nghị tới các cấp như sau:
- Sở giáo dục nên tiếp tục tổ chức các đợt học tập chuyên đề và tập trung
nhiều hơn đến vấn đề đổi mới thiết kế giáo án và phương pháp đối thoại
trong giờ học và tạo điều kiện để các cụm tổ chức trao đổi kinh nghiệm giảng

dạy thử về chuyên đề này.
- Ban chuyên môn nhà trường vẫn tiếp tục tăng cường kiểm tra dự giờ để
động viên thúc đẩy giáo viên đổi mới trong soạn bài, chuẩn bị tốt cho bài
giảng, nâng cao chất lượng giáo dục.
- Tổ nhóm chuyên môn và mỗi người thầy cần quan tâm đúng mức tới công
việc thiết kế giáo án và áp dụng đổi mới theo tinh thần chỉ đạo, không chủ
quan ỷ vào kinh nghiệm, khả năng dạy vốn có nếu không chính chúng ta là
người lạc hậu trì trệ.
Trên đây là một số đề xuất nhỏ, mong rằng những ý kiến trên sẽ góp
phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng dạy và học các tác phẩm văn chương
trong nhà trường phổ thông. Tôi xin chân thành cảm ơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG

Thanh Hoá, ngày 20 tháng 05 năm 2018
17


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
ĐƠN VỊ
Tôi xin can đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

PHẠM THANH SƠN

TÀI LIỆU THAM KHẢO
18



Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
1. Phương pháp dạy văn- Giáo sư Phan Trọng Luận
2. Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở trường THPT- Gồm nhiều tác
giả ( NXB giáo dục)
3. Tạp chí văn học tuổi trẻ
4. Diễn đàn văn học Việt Nam
5. Phương pháp dạy văn- Giáo sư Phan Trọng Luận
6. Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở trường THPT- Gồm nhiều tác
giả ( NXB giáo dục)
7. Tạp chí văn học tuổi trẻ
8. Diễn đàn văn học Việt Nam

DANH MỤC
19


Trường THPT Hoàng Lệ Kha
GV Phạm Thanh Sơn
.................................................................................................................................
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT TỪ LOẠI C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Phạm Thanh Sơn
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Trường THPT Hoàng Lệ
Kha


TT

1.

Tên đề tài SKKN

Đổi mới phương pháp dạy văn
bản chữ Hán trong nhà trường
phổ thông

2.

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

C


2006 - 2007

Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

C

2012 - 2013

Xây dựng hệ thống câu hỏi tích
cực trong giờ đọc văn qua đoạn
trích: “Vĩnh biệt Cửu trùng đài”
– Nguyễn Huy Tưởng.

20



×