Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Đề số 23 TPQT bình luận những quy định của pháp luật việt nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.14 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và đang
là xu thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại, và Việt Nam đã và đang bắt kịp
xu thế đó. Trước xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi Việt nam phải cần phải xây
dựng một môi trường pháp lý an toàn, minh bạch khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi cho quan hệ dân sự quốc tế.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về áp dụng pháp luật điều chỉnh hợp đồng
dân sự quốc tế nói chung nhằm tạo một khuôn khổ pháp lý cho các quan hệ dân
sự quốc tế phát triển. Đây là yêu cầu thực tiễn, không chỉ đối với các đối tác
nước ngoài mà đối với bên Việt Nam cũng cần có một môi trường pháp lý thuận
lợi an toàn, tránh rủi ro cho các bên.
Và trong phạm vi bài viết, em sẽ đi sâu nghiên cứu về Đề số 23 “Bình luận
những quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải
quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngoài” để hiểu rõ hơn về pháp luật Việt Nam trong việc quy định các cơ sở pháp
lý cho các hợp đồng dân sự quốc tế.
NỘI DUNG
I. Khái quát về hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài
1. Khái niệm hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài
1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài
Hợp đồng trong tư pháp quốc tế là hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng có
yếu tố nước ngoài. Để nhận diện hợp đồng trong tư pháp quốc tế, cần lưu ý tới
1


hai khái niệm đó là “hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng” và “có yếu tố nước
ngoài”.1
Thứ nhất, Hợp đồng dân sự quốc tế là “hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng”.
Theo Điều 385 BLDS 2015: Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên
chủ thể về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý”.
Ngoài các hợp đồng được quy định trong bộ luật dân sự thì các loại hợp đồng


về thương mại, lao động đều là hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng.
Thứ hai, hợp đồng dân sự trong tư pháp quốc tế “có yếu tố nước ngoài”.
Bộ luật dân sự năm 2015 không quy định về các dấu hiệu riêng của quan hệ
hợp đồng dân sự mà quy định chung về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
khi thuộc các trường hợp: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ
dân sự(1) có ít nhất một bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài hoặc là
(2) các bên tham gia đều là công dân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi,
thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó lại xảy ra ở nước ngoài hoặc (3) các bên
tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhận Việt Nam nhưng đối tượng của
quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.
1.2. Khái niệm hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài
Hình thức của hợp đồng không được giải thích trong luật nhưng được hiểu
là cách ghi nhận, lưu trữ, truyền tải nội dung hợp đồng, hay hình thức hợp đồng
chính là cách thể hiện, chứa đựng các điều khoản do các bên chủ thể thỏa
thuận. Trên thực tế, sự thỏa thuận của các bên có thể được thể hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau như văn bản, ghi âm, ghi hình, lời nói, hành vi, dữ liệu
điện tử,...Để xem xét tính hợp pháp của hợp đồng thì hình thức của hợp đồng
trong một số trường hợp cũng là một yêu cầu bắt buộc.
1 Trường Đại học Luật Hà Nôi, giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. CAND, Hà Nội, 2017, tr.408.

2


Hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài là hình thức của hợp
đồng dân sự theo nghĩa rộng và có “yếu tố nước ngoài”.
1.3. Ảnh hưởng của hình thức tới hiệu lực của hợp đồng dân s ự có
yếu tố nước ngoài
Thực chất, việc yêu cầu hình thức bắt buộc đối với hợp đồng phục vụ nhiều
mục đích khác nhau như: để đảm bảo vấn đề chứng cứ; để đối kháng với người
thứ ba hoặc là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.

Đối với những hợp đồng yêu cầu hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng – tức là phải đảm bảo hình thức bắt buộc đó thì hợp đồng mới có hiệu lực
thì nếu vi phạm về hình thức hợp đồng có thể dẫn tới hợp đồng bị vô hiệu. Do
đó, khi các bên giao kết hợp đồng dân sự quốc tế với nhau, cần chú ý quan tâm
tới hình thức của hợp đồng để đảm bảo hợp đồng không bị vô hiệu do vi phạm
về hình thức.
2. Khái niệm xung đột phát luật về hình thức hợp đồng, giải quyết xung
đột pháp luật về hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài
Xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài là
hiện tượng có hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng
có thể áp dụng để điều chỉnh hình thức của hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngoài. Và để giải quyết, vấn đề đặt ra là áp dụng pháp luật nước nào để xác
định tính hợp pháp của hình thức hợp đồng đó nói riêng và tính hợp pháp của
hợp đồng nói chung.

3


3. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng
dân sự có yếu tố nước ngoài
Xung đột về hình thức của hợp đồng nói riêng hay xung đột về hợp trong
tư pháp nói chung được giải quyết bằng 02 phương pháp điều chỉnh cơ bản,đó
là: phương pháp thực chất và phương pháp xung đột
- Phương pháp thực chất: là phương pháp trực tiếp giải quyết ngay quan
hệ pháp lý phát sinh bằng cách xác định trực tiếp quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia quan hệ. Phương pháp này được thực hiện trên cơ sở áp dụng các
quy phạm pháp luật thực chất xây dựng trong pháp luật quốc gia, điều ước
quốc tế và tập quán quốc tế có liên quan2
- Phương pháp xung đột: là phương pháp điều chỉnh quan hệ một cách
gián tiếp. Phương pháp này không đưa ra phương án giải quyết trực tiếp ngay

quan hệ pháp lý phát sinh mà điều chỉnh các quan hệ này bằng cách lựa chọn
một hệ thống pháp luật cụ thể trong số những hệ thống pháp luật có liên quan,
rồi dùng hệ thống pháp luật được chọn ra ấy để giải quyết quan hệ pháp lý phát
sinh. Để giải quyết xung đột về hình thức của hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngoài, phương pháp được sử dụng chủ yếu cũng là phương pháp xung đột.
II. Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng
1. Quy định trong BLDS năm 2015 về hình thức hợp đồng có yếu tố
nước ngoài
Khoản 7 Điều 683 BLDS 2015 của Việt Nam quy định: “Hình thức của hợp
đồng được xác định theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó. Trường hợp
hình thức hợp đồng không phù hợp với hình thức hợp đồng theo pháp luật áp
2 Giáo trình Tư pháp quốc tế, Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND, Hà Nội, 2017, tr.13

4


dụng đối với hợp đồng đó, nhưng phù hợp với hình thức hợp đồng theo pháp luật
nơi giao kết hợp đồng hoặc pháp luật Việt Nam thì hình thức hợp đồng đó được
công nhận ở Việt Nam.”
- Trong quy định này, có thể hiểu thuật ngữ “pháp luật áp dụng đối với hợp
đồng đó” là pháp luật điều chỉnh những vấn đề pháp lý của hợp đồng bao gồm
nội dung, hình thức, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và những vấn đề
pháp lý khác của hợp đồng được quy định tại Khoản 1 Điều 683.
Theo quy định trên thì xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng được giải
quyết theo Luật áp dụng với hợp đồng, Luật nơi ký kết hợp đồng, Luật Việt
Nam. Các hình thức hợp đồng được công nhận hợp pháp tại Việt Nam là: (i)
Hình thức hợp đồng hợp pháp theo pháp luật áp dụng với toàn bộ hợp đồng (bao
gồm nội dung, hình thức và các vấn đề khác do các bên thỏa thuận trong hợp
đồng); (ii) Hình thức hợp đồng phù hợp với pháp luật nơi ký kết hợp đồng hoặc
pháp luật Việt Nam.

2. Đánh giá
2.1 Những điểm tiến bộ so với BLDS năm 2005
- (i) Trước đây, trong BLDS năm 2005, quy định về hình thức hợp đồng
nằm trong một điều luật riêng là Điều 770, nay đã được gộp chung vào thành
một điều luật. Sự thay đổi số lượng điều luật điều chỉnh vê quan hệ hợp đồng
cũng là để thu gọn số điều luật, tạo sự thống nhất trong cả phần năm, mỗi loại
quan hệ được quy định trong duy nhất một điều luật, vừa dễ nhớ và cũng tạo sự
thống nhất đồng bộ.3
- (ii) Mở rộng điều kiện hình thức của hợp đồng dân sự quốc tế được thừa
nhận tại Việt Nam. Nếu như BLDS 2005 quy định hình thức của hợp đồng giao
3 Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015, tr.1084

5


kết được công nhận tại Việt Nam khi phù hợp với pháp luật nơi giao kết hợp
đồng hoặc phù hợp với pháp luật Việt Nam về hình thức hợp đồng (Khoản 1
Điều 770) thì tới BLDS 2015, hình thức của hợp đồng được bổ sung thêm một
trường hợp có được thừa nhận tại Việt Nam là phù hợp với “pháp luật áp dụng
đối với hợp đồng”. Sự bổ sung này thể hiện sự tôn trọng đối với sự thỏa thuận
chọn luật áp dụng của các chủ thể, sự thống nhất về pháp luật được lựa chọn điều
chỉnh cả về nội dung, hình thức, các vấn đề pháp lý khác sẽ tạo điều kiện thuận
lợi nhất trong việc ký kết hợp đồng dân sự. Quy định về hình thức của hợp đồng
dân sự quốc tế tại BLDS 2015 đã tiếp thu BLDS 2005 cũng như bổ sung, hoàn
thiện hơn để phù hợp với thực tiễn xã hội, tạo thuận lợi hơn cho các chủ thể
trong quan hệ hợp đồng dân sự quốc tế cũng như tạo một cơ sở pháp lý để bảo vệ
tốt nhất quyền và lợi ích chính đáng cho các chủ thể.
2.2 So sánh với quy đình về hình thức hợp đồng trong Công ước
Vienna 1980 về Mua bán hàng hóa quốc tế (CISG)
- Theo BLDS 2015, hợp đồng dân sự có thể giao kết bằng lời nói, bằng văn

bản hoặc bằng hành vi cụ thể, trừ một số loại hợp đồng có yêu cầu riêng. Trong
khi đó, đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Luật Thương mại 2005 chỉ
công nhận theo hình thức bằng văn bẳn hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp
lý tương đương. CISG đã công nhận nguyên tắc tự do về hình thức hợp đồng,
nghĩa là một hợp đồng mua bán hàng hóa không nhất thiết phải bằng văn bản mà
có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng hành vi và có thể chứng minh được bằng
mọi cách, kể cả lời khai của nhân chứng (Điều 11 Công ước Viên 1980). Đây là
một điểm khác biệt cơ bản giữa CISG và pháp luật Việt Nam về hình thức hợp
đồng. Tuy nhiên CISG cho phép các thành viên có quyền tuyên bố bảo lưu đối
với nội dung và hình thức của hợp đồng nên Việt Nam hoàn toàn có thể tuyên bố
bảo lưu nội dung này để đảm bảo sự tương thích với pháp luật trong nước.
6


2.3. Những hạn chế, vướng mắc khi áp dụng pháp luật vào thực
tiễn
- Hình thức được xác định theo “nơi ký kết hợp đồng” khó có thể xác định
trong trường hợp các bên ký kết hợp đồng bằng các phương tiện thương mại điện
tử. Từ đó, pháp luật nên có hướng dẫn cụ thể về quy định hình thức hợp đồng
xác định theo nơi ký kết hợp đồng đối với trường hợp trên
- Ngoài ra về hợp đồng dân sự quốc tế có đối tượng là bất động sản cũng
đặt ra một số xung đột về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Việc hình thức của
hợp đồng chỉ được thừa nhận hợp pháp khi phù hợp với một trong ba điều kiện
tại Khoản 7 Điều 683 dường như vẫn chưa đủ để hình thức của hợp đồng hợp
pháp. Xét ví dụ sau: Hợp đồng dân sự quốc tế có đối tượng của hợp đồng là bất
động sản tại Việt Nam, hai bên thỏa thuận lựa chọn pháp luật Anh, hình thức hợp
đồng không phải bằng văn bản hay hình thức có giá trị tương đương và được ký
kết tại Việt Nam. Theo quy định tại Khoản 4, pháp luật áp dụng đối với đối
tượng bất động sản phải là pháp luật Việt Nam. Như vậy, vô hình chung, hình
thức của hợp đồng là không được thừa nhận tại Việt Nam. Vì hình thức của hợp

đồng không phù hợp với pháp luật áp dụng với hợp đồng (Luật Việt Nam),
không phù hợp với pháp luật nơi ký kết hợp đồng (Luật Việt Nam) và đương
nhiên, không phù hợp với pháp luật Việt Nam. Như vậy, phải chăng, pháp luật
Việt Nam nên mở rộng phạm vi để hình thức của hợp đồng được hợp pháp, bởi
trên thực tế, ý chí tham gia của các chủ thể là hoàn toàn tự nguyện và có thiện
chí để thực hiện hợp đồng.
2.4. Nhận xét chung
Thực trạng hệ thống quy phạm của pháp luật Việt Nam về giải quyết XĐPL
về hình thức hợp đồng tuy còn tồn tại một số hạn chế nhưng về cơ bản đã có
nhiều điểm tiếp thu, tiến bộ hơn so với các quy phạm cũ; có sự phù hợp với
7


thông lệ quốc tế và tương thích với hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia trên
thế. Pháp luật Việt Nam đã có những quy định cụ thể đối với việc giải quyết
XĐPL về hình thức hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các chủ thể trong
quan hệ dân sự quốc tế được bảo đảm về mặt hình thức của hợp đồng.
III. Một số kiến nghị khắc phục những vướng mắc về hình thức hợp
đồng
1. Đề xuất biện pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam
- Bổ sung quy định cho phép các bên được lựa chọn pháp luật áp dụng
cho từng phần của hợp đồng
Pháp luật Việt Nam hiện hành không có quy định về việc các bên được lựa
chọn pháp luật áp dụng cho một phần hợp đồng hay không. Đối với các hợp
đồng có yếu tố nước ngoài thường là những vấn đề phức tạp và các bên khó
lường trước được cho nên BLDS. Hơn nữa, đây là hợp đồng “dân sự” nên cần
tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của các bên về pháp luật áp dụng đối với hợp
đồng. Vậy nên pháp luật cần quy định theo hướng cho phép các bên được lựa
chọn pháp luật áp dụng cho từng phần của hợp đồng và được lựa chọn nhiều hệ
thống pháp luật.

- Hình thức thể hiện sự lựa chọn luật áp dụng của các bên
Pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể về hình thức thể hiện sự lựa
chọn luật áp dụng đối với hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Bởi vậy, pháp luật
Việt Nam cần bổ sung quy định về hình thức thể hiện sự thỏa thuận chọn luật áp
dụng trong hợp đồng theo hướng việc chọn luật áp dụng phải được thể hiện rõ
bằng các điều khoản trong hợp đồng và không chấp nhận hình thức thỏa thuận
ngầm trong việc lựa chọn luật áp dụng. Đồng thời, pháp luật Việt Nam cũng cần
quy định rõ nếu các bên không đáp ứng được yêu cầu này thì thỏa thuận lựa chọn
8


luật áp dụng sẽ không có hiệu lực. Bởi một số lí do như sau:(i) Do điều kiện các
chủ thể Việt Nam gần đây mới tham gia giao lưu thương mại quốc tế với các chủ
thể nước ngoài nên chưa có sự hiểu biết pháp luật nói chung và nhất là trong việc
ký kết hợp đồng với các chủ thể có yếu tố nước ngoài nói riêng. Vì vậy, việc quy
định rõ ràng trong hợp đồng về luật áp dụng sẽ tránh cho các bên sự tranh chấp
không cần thiết. (ii) Việc giải thích áp dụng pháp luật của các cơ quan có thẩm
quyền tại Việt Nam còn chưa có sự thống nhất cao. Do đó, việc quy định rõ ràng
trong hợp đồng sẽ giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền nắm bắt được ý chí của
các bên khi giải thích hợp đồng trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh giữa
các bên.
2. Các đề xuất khác
- Nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp các vụ việc có yếu tố nước
ngoài của thẩm phán Việt Nam
Trong thực tiễn, việc giải quyết tranh chấp của Tòa án Việt Nam đối với các
tranh chấp có liên quan đến xung đột pháp luật về hợp đồng quốc tế, các thẩm
phán đôi khi không áp dụng quy phạm xung đột để giải quyết tranh chấp mà xác
định luật áp dụng là pháp luật Việt Nam. Đây là cách làm trái ngược với những
nguyên tắc chung được đề ra trong tư pháp quốc tế. Để giải quyết tranh chấp
phát sinh, các thẩm phán phải có hiểu biết sâu sắc về tư pháp quốc tế nước mình

và các quy phạm xung đột. Thực tế đòi hỏi nhà nước, tòa án nhân dân tối cao
thường xuyên có lớp tập huấn, chương trình đào tạo nâng cao cho các thẩm phán
để bổ sung kiến thức, cập nhập thường xuyên về thực tiễn tư pháp quốc tế, đặc
biệt là những quy phạm xung đột
Ngoài ra, một thực tế là khi sử dụng các quy phạm xung đột có những
trường hợp thẩm phán Việt Nam phải sử dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết
9


tranh chấp liên quan đến hợp đồng dân sự quốc tế. Việc thiếu hiểu biết về pháp
luật nước ngoài cũng là một khó khăn, hạn chế trong quá trình xét xử của thẩm
phán Việt Nam. Để giải quyết các khó khăn này, nhà nước và tòa án nhân dân tối
cao cần có một trung tâm hỗ trợ pháp lý để thường xuyên cập nhập về thực tiễn
tư pháp quốc tế. Qua đó, giúp các thẩm phán Việt Nam hoàn thiện công tác xét
xử liên quan đến tranh chấp về hợp đồng dân sự quốc tế.
- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tư pháp quốc tế
Các thương nhân Việt Nam khi tham gia ký kết các hợp đồng dân sự quốc tế
còn thiếu những hiểu biết chung nhất và tư pháp quốc tế. Vì vậy, cần tăng cường
tuyên truyền, phổ biến các vấn đề tư pháp quốc tế, đặc biệt là những vấn đề liên
quan đến xung đột pháp luật trong quá trình tham gia ký kết các hợp đồng này.
KẾT LUẬN
Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thì có
nhiều chủ thể đến từ các quốc gia khác nhau đến Vệt Nam để tiến hành hoạt
động kinh doanh. Khi tiến hành giao kết hợp đồng các chủ thể từ các quốc gia
với hệ thống pháp luật khác nhau dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật về hợp
đồng nói chung và về hình thức hợp đồng nói riêng.
Hoàn thiện pháp luật giải quyết xung đội pháp luật về hợp đồng có yếu tố
nước ngoài là yêu cầu khách quan, xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn khi Việt
Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như WTO, ASEAN, Hiệp định
Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Việc hoàn thiện các quy định về giải

quyết xung đột pháp luật về hợp đồng tạo cơ chế pháp luật phù hợp với tiến trình
hội nhập với kinh tế thế giới của Việt Nam.

10


PHỤ LỤC
 Cách xác định pháp luật áp dụng đối với hợp đồng trong trường hợp
pháp luật quy định “hình thức của hợp đồng được xác định theo pháp luật
áp dụng đối với hợp đồng đó”.
1 Hình thức của hợp đồng được xác định theo pháp luật áp dụng đối với
hợp đồng đó.
1.1. Xác định luật áp dụng theo thỏa thuận hoặc theo nơi có mối liên hệ
gắn bó nhất
Cách xác định pháp luật áp dụng trong trường hợp này sẽ không được áp
dụng đối với hợp đồng tại mục 1.2. sẽ phân tích dưới đây
Theo đó, Điều 683 cho phép các bên trong hợp đồng được tự do lựa chọn
pháp luật áp dụng đối với hợp đồng. Nếu các bên không thỏa thuận lựa chọn
pháp luật áp dụng hoặc không thỏa thuận được thì hệ thuộc luật của nước có mối
liên hệ gắn bó nhất đối với hợp đồng được áp dụng (Lex propria). Để cụ thể hóa
các trường hợp có mối liên hệ và để thống nhất cách áp dụng pháp luật của nước
nơi có mối liên hệ gắn bó nhất được quy định tại Khoản 2 Điều 683 4. Ngoài ra,
4 Điều 683. Hợp đồng
“2. Pháp luật của nước sau đây được coi là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng:
a) Pháp luật của nước nơi người bán cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng mua bán hàng
hóa;
b) Pháp luật của nước nơi người cung cấp dịch vụ cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng
dịch vụ;
c) Pháp luật của nước nơi người nhận quyền cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng
chuyển giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ;

d) Pháp luật của nước nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc đối với hợp đồng lao động. Nếu người lao động
thường xuyên thực hiện công việc tại nhiều nước khác nhau hoặc không xác định được nơi người lao động thường xuyên thực

hiện công việc thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng lao động là pháp luật của nước nơi
người sử dụng lao động cư trú đối với cá nhân hoặc thành lập đối với pháp nhân;
đ) Pháp luật của nước nơi người tiêu dùng cư trú đối với hợp đồng tiêu dùng.”

11


nếu có thể chứng minh được pháp luật của một nước có mối quan hệ gắn bó hơn
những trường hợp trên thì pháp luật của nước đó được áp dụng.
1.2. Pháp luật áp dụng đối với các hợp đồng có đối tượng là bất động sản
và hợp đồng lao động có ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao động,
người tiêu dùng theo quy định của Việt Nam
Đây là hai trường hợp đặc biệt, do tính chất đặc thù của tài sản và để bảo vệ
người lao động Việt Nam, luật áp dụng không phải do các bên thỏa thuận hay
luật của nước có mối quan hệ gắn bó mà sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam, cụ thể:
- Pháp luật áp dụng đối với các hợp đồng có đối tượng là bất động sản thì
pháp luật áp dụng trong trường hợp này là pháp luật nơi có bất động sản, bất kể
các bên có thỏa thuận lựa chọn hợp đồng hay không
- Pháp luật áp dụng đối với hợp đồng lao động, tiêu dùng có ảnh hưởng đến
quyền lợi tối thiểu của người lao động, người tiêu dùng theo quy định của pháp
luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng.
2. Hình thức của hợp đồng được xác định theo pháp luật nơi giao kết hợp
đồng hoặc pháp luật Việt Nam
Nếu như hình thức hợp đồng không phù hợp với hình thức hợp đồng theo
pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó nhưng phù hợp với hình thức hợp đồng
theo pháp luật nơi giao kết hợp đồng hoặc pháp luật Việt Nam thì hình thức hợp
đồng đó được công nhận ở Việt Nam.


12


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU------------------------------------------------------------------------------------1
NỘI DUNG----------------------------------------------------------------------------------1
I. Khái quát về hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài--------------1
1. Khái niệm hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài-------------------1
1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài---------------------------1
1.2. Khái niệm hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài---------------2
1.3. Ảnh hưởng của hình thức tới hiệu lực của hợp đồng dân sự có yếu tố
nước ngoài-------------------------------------------------------------------------------3
2. Khái niệm xung đột phát luật về hình thức hợp đồng, giải quyết xung đột
pháp luật về hình thức hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài--------------------3
3. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngoài-------------------------------------------------------------------------4
II. Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng----------4
1. Quy định trong BLDS năm 2015 về hình thức hợp đồng có yếu tố nước
ngoài----------------------------------------------------------------------------------------4
2. Đánh giá---------------------------------------------------------------------------------5
2.1 Những điểm tiến bộ so với BLDS năm 2005----------------------------------5
2.2 So sánh với quy đình về hình thức hợp đồng trong Công ước Vienna
1980 về Mua bán hàng hóa quốc tế (CISG)----------------------------------------6
2.3. Những hạn chế, vướng mắc khi áp dụng pháp luật vào thực tiễn---------7
2.4. Nhận xét chung--------------------------------------------------------------------7
III. Một số kiến nghị khắc phục những vướng mắc về hình thức hợp đồng--8
13



1. Đề xuất biện pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam-------------------------------8
2. Các đề xuất khác-----------------------------------------------------------------------9
KẾT LUẬN--------------------------------------------------------------------------------10
PHỤ LỤC----------------------------------------------------------------------------------11

14



×