Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Phán quyết của trọng tài thương mại quốc tế về giao hàng sai quy cách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (60.77 KB, 4 trang )

PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI QUỐC TẾ
TRANH CHẤP VỀ VIỆC GIAO HÀNG SAI QUY CÁCH
TRONG HỢP ĐỒNG MUA THÉP PHẾ LIỆU
Các bên:
Nguyên đơn : Người mua Việt Nam
Bị đơn : Người bán Nhật Bản
Các vấn đề được đề cập:




Thẩm quyền xét xử của trọng tài
Giao hàng sai quy cách theo thoả thuận với người uỷ thác nhập khẩu
(người thứ ba) sau khi hợp đồng xuất nhập khẩu đã được ký có bị coi là
vi phạm hợp đồng không?

Tóm tắt vụ việc:
Nguyên đơn ký hợp đồng mua của Bị đơn 4000 MT thép phế liệu. Hợp đồng quy
định số lượng và phẩm chất thép phế liệu thực tế sẽ căn cứ vào biên bản giám định của
NKKK (công ty giám định Nhật bản) tại cảng xếp hàng và biên bản giám định của
Vinacontrol (công ty giám định Việt nam) tại cảng dỡ hàng. Trong trường hợp dung sai
vượt quá ± 5% so với tỷ lệ kích cỡ đã quy định trong hợp đồng theo biên bản giám định
của Vinacontrol và NKKK (như điều 1 Hợp đồng đã ghi) thì phần hàng có tỷ lệ vượt quá
đó được trả theo giá 50 USD/MT.
Bị đơn đã tiến hành giao cho Nguyên đơn 4.018 MT thép phế liệu. Biên bản giám
định của Vinacontrol tại cảng dỡ hàng kết luận:


Độ dày lớn hơn 40mm: 570 MT




Độ dày từ 20mm đến 40mm


Chiều dài từ 2.000mm đến 3.000mm: 925 MT



Chiều dài lớn hơn 3.000mm: 180 MT



Độ dày từ 6mm đến 19mm: 1.220 MT



Chiều rộng nhỏ hơn 100mm: 1.123 MT

Như vậy, so với qui định về phẩm chất hàng hoá theo Hợp đồng thì một phần khối
lượng thép được giao không đúng loại quy định hoặc vượt quá tỷ lệ quy định của hợp
đồng, cụ thể:


Độ dày lớn hơn 40mm (hợp đồng không cho phép): 570 MT



Độ dày từ 20mm đến 40mm







Chiều dài từ 2.000mm đến 3.000mm: 325 MT



Chiều dài lớn hơn 3.000mm (hợp đồng không cho phép): 180 MT

Chiều rộng nhỏ hơn 100mm (hợp đồng không cho phép): 1.123 MT

Tổng cộng số lượng hàng sai tỷ lệ kích cỡ là 2.198 MT
Trong khi đó, dung sai cho phép theo hợp đồng là 5%: 4.018,581 × 5% = 200,929
MT
Theo quy định của hợp đồng số thép này được tính theo giá 50USD/MT thay cho
giá hợp đồng 137 USD/MT.
Số lượng thép Bị đơn giao đúng theo quy định của hợp đồng là:
4.018 MT - 1.997,071 MT = 2.020,929 MT
Số tiền mà Nguyên đơn phải trả theo kết quả giám định thực tế của Vinacontrol là:
1.997,071 MT × 50 USD/MT = 99.853,55 USD
2.020,929 MT × 137 USD/MT = 276.876,27 USD
Cộng = 376.720,82 USD
Vì Nguyên đơn đã trả cho Bị đơn tổng số tiền hàng là 561.152 USD nên Bị đơn
phải hoàn trả lại cho Nguyên đơn số tiền:
561.152 USD - 376.720,82 USD = 184.431,18 USD
Vì bị đơn từ chối không hoàn lại số tiền nói trên nên Nguyên đơn đã kiện Bị đơn
ra trọng tài đòi số tiền này.
Trong Bản giải trình, Bị đơn trình bày như sau:
Hợp đồng mua bán thép giữa Nguyên đơn và Bị đơn thực chất là trên cơ sở uỷ

thác nhập khẩu của Công ty X Việt Nam cho Nguyên đơn. Và vì Công ty X mới thực chất
là người có nhu cầu mua số thép phế liệu nói trên để cán lại nên trong suốt thời gian thực
hiện hợp đồng, Bị đơn đã thương lượng trực tiếp với Công ty X và giao hàng theo hướng
dẫn của Công ty X.
Trên thực tế, số thép được giao mà Nguyên đơn coi là “không đúng tiêu chuẩn” lại
đắt hơn loại hàng quy định trong hợp đồng, cho nên Công ty X đã quyết định nhận lô
hàng này trên cơ sở thoả thuận giữa Công ty X và Bị đơn. Vì thế, Nguyên đơn không có
lý do gì để khiếu nại về việc này.
Về phần mình, Nguyên đơn lập luận:
Nguyên đơn không hề biết việc thương lượng và thoả thuận giữa Bị đơn và Công
ty X, đồng thời Nguyên đơn không nhận được bất kỳ một thông báo nào của Bị đơn và
Công ty X.


Nguyên đơn khởi kiện Bị đơn là căn cứ vào Hợp đồng mua bán ký kết giữa
Nguyên đơn và Bị đơn. Hợp đồng này không liên quan gì đến công ty X như trình bày
của Bị đơn.

Phán quyết của trọng tài:
1. Về thẩm quyền xét xử của trọng tài:
Điều khoản trọng tài trong Hợp đồng quy định: trong trường hợp hai bên không
giải quyết được tranh chấp bằng thương lượng thì sự việc được đưa ra Trung tâm trọng tài
quốc tế của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, quyết định của trọng tài là
cuối cùng đối với hai bên.
Theo qui định về tổ chức hiện nay, bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam chỉ có duy nhất một Trung tâm trọng tài quốc tế đó là Trung tâm trọng tài quốc
tế Việt Nam, vì vậy Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam có thẩm quyền xét xử tranh chấp này.
Mặt khác, sau khi có thông báo về đơn kiện của Nguyên đơn, Bị đơn gửi văn thư
cho Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam trình bày quan điểm của mình về đơn kiện.

Như vậy, Bị đơn và Nguyên đơn đã chấp nhận thẩm quyền xét xử của Trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong vụ việc
này.
2. Về hàng được giao sai tỷ lệ kích cỡ so với quy định của hợp đồng:
Biên bản giám định tại cảng bốc hàng của NKKK kết luận số thép được giao có
tiêu chuẩn phù hợp với qui định của hợp đồng với tỷ lệ sai lệch trong phạm vi dung sai
cho phép. Trong khi đó, biên bản giám định ở cảng dỡ hàng do Vinacontrol cấp lại có kết
luận khác (2.198 MT được giao sai kích cỡ). Bị đơn không có phản đối gì về biên bản
giám định này (trong bản giải trình gửi cho trọng tài, Bị đơn còn thừa nhận là lô hàng này
“thiếu tiêu chuẩn”). Như vậy, dù biên bản giám định có đánh giá khác nhau về chất lượng
hàng hoá nhưng có thể kết luận là Nguyên đơn và Bị đơn đều thừa nhận việc giao hàng
sai qui cách. Giao hàng sai tỷ lệ kích cỡ thì Bị đơn phải chịu trách nhiệm trước Nguyên
đơn.
Uỷ ban trọng tài không chấp nhận lý do có liên quan đến công ty X mà Bị đơn nêu
trong bản giải trình bởi việc Bị đơn giao hàng là theo hợp đồng ký kết với Nguyên đơn
chứ không phải với công ty X. Công ty X không phải là một bên của hợp đồng nên không
có tư cách để tiến hành thương lượng với Bị đơn về việc thực hiện Hợp đồng. Vì vậy, mọi
thoả thuận giữa Bị đơn và người thứ ba không có giá trị ràng buộc đối với Nguyên đơn và
càng không có giá trị sửa đổi bổ sung điều khoản của hợp đồng về kích cỡ của hàng hoá.
Nguyên đơn đã xuất trình cho trọng tài hai văn thư của Bị đơn trong đó Bị đơn từ


chối hoàn trả lại một phần tiền hàng với lý do nhà cung cấp số thép đó cho Bị đơn đã từ
chối trả tiền bồi thường. Số tiền mà Nguyên đơn đòi là quá lớn và để tránh nguy cơ phá
sản, Bị đơn không thể trả tiền cho Nguyên đơn được. Lý do này không thể chấp nhận
được bởi Bị đơn đã tham gia ký kết hợp đồng thì phải có trách nhiệm thực hiện các nghĩa
vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Khó khăn về tài chính không thể được coi là một nguyên
nhân để miễn cho Bị đơn khỏi trách nhiệm trước Nguyên đơn.
3. Về số tiền phải hoàn trả:
Cách tính số tiền hoàn trả của Nguyên đơn hoàn toàn phù hợp với qui định tại Hợp

đồng. Vì vậy, trọng tài quyết định buộc Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn (người
nhập khẩu) 184.405,12 USD.
Bình luận và lưu ý:
Trong hoạt động xuất nhập khẩu, uỷ thác xuất nhập khẩu là một việc làm phổ biến,
đặc biệt trong các trường hợp đơn vị có nhu cầu nhập khẩu/xuất khẩu hàng hoá không
được phép nhập khẩu/xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, cần lưu ý là trong uỷ thác nhập
khẩu/xuất khẩu, người nhận uỷ thác là người trực tiếp ký hợp đồng xuất nhập khẩu (hợp
đồng mua bán với đối tác nước ngoài) và là một bên của hợp đồng này. Người uỷ thác
không phải là một bên của hợp đồng nên không có quyền tham gia vào việc điều chỉnh
hay sửa đổi hợp đồng. Do đó, nếu có tranh chấp phát sinh từ hợp đồng xuất nhập khẩu,
các bên không thể viện dẫn đến người uỷ thác nhập khẩu để làm căn cứ miễn trách cho
mình.
Khi ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, đặc biệt trong trường hợp có uỷ thác xuất
nhập khẩu, nên xác định và ghi rõ tên của các bên trong hợp đồng để tránh những tranh
chấp không đáng có sau này liên quan đến chủ thể của hợp đồng.



×