Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Hệ quả pháp lý của miễn trách nhiệm theo quy định công ước vienna 1980

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.21 KB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM
KHOA LUẬT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

HỆ QUẢ PHÁP LÝ CỦA MIỄN TRÁCH NHIỆM
THEO QUY ĐỊNH CÔNG ƯỚC VIENNA 1980

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn

: ThS. NGUYỄN CHÍ THẮNG

Sinh viên thực hiện

: NGUYỄN THỊ KIM HẰNG

MSSV: 1511270667

Lớp: 15DLK06

TP. Hồ Chí Minh, 2019


LỜI CẢM ƠN
Để khóa luận tốt nghiệp này đạt kết quả tốt đẹp, em đã nhận được sự hỗ trợ,
giúp đỡ từ rất nhiều cá nhân và tổ chức. Với tình cảm chân thành, cho phép em
được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tất cả các cá nhân và tổ chức đã tạo điều kiện
giúp đỡ em trong quá trình học tập và hoàn thành đề tài.


Với sự quan tâm và chỉ bảo tận tình chu đáo của thầy cô, đến nay em đã có thể
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Hệ quả pháp lý của miễn trách nhiệm
theo quy định công ước Vienna 1980”.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến lãnh đạo Trường Đại học Công nghệ Thành
phố Hồ Chí Minh – Hutech, các Khoa, Phòng ban chức năng đã trực tiếp và gián
tiếp giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành đề tài.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Thạc sĩ Nguyễn
Chí Thắng. Cảm ơn Thầy đã quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành tốt
chuyên đề khóa luận này trong thời gian vừa qua.
Với điều kiện thời gian cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của một sinh viên,
chuyên đề khóa luận tốt nghiệp này không thể tránh được những thiếu sót. Em rất
mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô để em có điều kiện bổ
sung, nâng cao ý thức của mình, phục vụ tốt hơn công tác thực tế sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

Nguyễn Thị Kim Hằng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: Nguyễn Thị Kim Hằng, MSSV: 1511270667
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khóa luận tốt nghiệp
này được thu thập từ các nguồn trên các sách, báo khoa học chuyên ngành (có trích
dẫn đầy đủ và theo đúng qui định);
Nội dung trong khóa luận này do kinh nghiệm của bản thân được rút ra từ quá
trình nghiên cứu đề tài, KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu, báo cáo khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường và
pháp luật.
Sinh viên


Nguyễn Thị Kim Hằng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Nội dung viết tắt

CISG

Công ước Vienna 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

PICC

Những Nguyên tắc Hợp đồng Thương mại Quốc tế của Unidroit

PECL

Các nguyên tắc của pháp luật hợp đồng Châu Âu

UNIDROIT

Viện Thống Nhất Tư Pháp Quốc Tế

BLDS

Bộ luật Dân sự

CLOUT


Văn bản án lệ

VIAC

Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam

VCCI

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

UNCITRAL

y ban của Liên Hợp Quốc về Luật thương mại quốc tế


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1
1. Lý do lựa chọn đề tài................................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài................................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài........................................................... 2
4. Tình hình nghiên cứu................................................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................3
6. Kết cấu của khóa luận.............................................................................................. 4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUY ĐỊNH MIỄN TRÁCH NHIỆM VÀ HỆ
QUẢ PHÁP LÝ THEO CÔNG ƯỚC VIENNA......................................................5
1.1. Khái niệm và đặc điểm của các trường hợp miễn trách nhiệm theo công
ước Vienna...................................................................................................................5
1.1.1. Miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng......................................................6
1.1.2. Miễn trách nhiệm do lỗi của các bên..............................................................10

1.1.2.1. Miễn trách nhiệm do lỗi của bên bị thiệt hại (lỗi của người có quyền)......10
1.1.2.2. Miễn trách nhiệm do bên thứ ba gặp bất khả kháng.................................... 13
1.1.3. Miễn trách nhiệm do các trường hợp khác......................................................15
1.1.3.1. Miễn trách nhiệm do quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền..... 15
1.1.3.2. Miễn trách nhiệm do thoả thuận của các bên...............................................17
1.2. Áp dụng hệ quả pháp lý trong trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định
của công ước Vienna................................................................................................ 18
1.2.1. Biện pháp áp dụng trong trường hợp miễn trách nhiệm................................. 18
1.2.1.1. Yêu cầu giảm giá hàng hoá...........................................................................18
1.2.1.2. Buộc thực hiện hợp đồng.............................................................................. 22
1.2.1.3. Gia hạn hợp đồng và huỷ hợp đồng..............................................................26
1.2.2. Biện pháp không áp dụng trong trường hợp miễn trách nhiệm...................... 33
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.........................................................................................35
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HỆ QUẢ PHÁP LÝ CỦA MIỄN
TRÁCH NHIỆM THEO CÔNG ƯỚC VIENNA................................................. 36
2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về hệ quả pháp lý của miễn trách nhiệm
thông qua một số vụ kiện.........................................................................................36


2.1.1. Vụ kiện về sản phẩm trang phục judo của Thuỵ Sĩ đối với Pháp....................37
2.1.2. Vụ kiện cảng giao hàng bị đóng băng với tranh chấp giữa RMI và Forberich..
................................................................................................................ 39
2.1.3. Vụ kiện về sản phẩm gà đông lạnh của Romania đối với Hoa Kỳ..................43
2.2. Một số vấn đề về nghĩa vụ thông báo khi gặp sự kiện dẫn đến áp dụng các
biện pháp miễn trách nhiệm....................................................................................47
2.3. Một số đề xuất về việc áp dụng hệ quả pháp lý trong trường hợp miễn
trách nhiệm................................................................................................................49
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.........................................................................................52
KẾT LUẬN CHUNG............................................................................................... 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................54



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Tháng 12/2015, Việt Nam đã chính thức được phê duyệt và trở thành thành
viên thứ 84 của Công ước Viên của Liên Hợp Quốc về Hợp đồng Mua bán Hàng
hóa Quốc tế, các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Doanh nghiệp Việt Nam
sẽ được áp dụng theo chuẩn quốc tế. Việc gia nhập CISG đã đánh dấu một mốc mới
trong quá trình tham gia vào các điều ước quốc tế đa phương về thương mại, tăng
cường mức độ hội nhập của Việt Nam, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam về mua bán hàng hóa quốc tế và cho các doanh nghiệp Việt Nam một khung
pháp lý hiện đại, công bằng và an toàn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế. Công ước Viên bắt đầu có hiệu lực ràng buộc tại Việt Nam từ ngày
1/1/2017.
Như chúng ta đã biết, càng ít nhân tố gây trở ngại nền kinh tế càng tự do thì thị
trường càng hoạt động hiệu quả và có tính cạnh tranh cao. Trong đó nhân tố gây trở
ngại lớn nhất cho giao dịch thương mại quốc tế, đặc biệt cho những nước đang phát
triển như Việt Nam, chính là môi trường luật nước ngoài. Hơn nữa trong đàm phán
ký kết hợp đồng giữa Việt Nam và các nước phát triển thì luật được chọn để điều
chỉnh thường là luật của các nước phát triển vì các doanh nghiệp Việt Nam có ít thế
và lực trong đàm phán lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Điều này làm doanh
nghiệp trong nước khó đánh giá được kết quả kinh doanh vì môi trường luật của
nước ngoài thường không ổn định và chứa đựng nhiều rủi ro. Việc áp dụng CISG
như một nền tảng luật cho các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ giảm sự bất
ổn và các chi phí pháp luật liên quan.
Ngày nay, những loại hình giao dịch thương mại quốc tế mới xuất hiện ngày
càng nhiều như cung ứng dịch vụ quốc tế, đầu tư quốc tế… song mua bán hàng hóa
quốc tế vẫn giữ vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia,
nhất là sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO. Tuy nhiên,
cùng với sự phát triển của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế là sự gia tăng

về số lượng, phạm vi và mức độ phức tạp của các tranh chấp, trong đó có các tranh
chấp liên quan đến vấn đề miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế. Miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là việc một
bên không bị áp dụng các chế tài xử phạt do vi phạm hợp đồng. Cùng với chế độ
1


trách nhiệm, miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế góp
phần đảm bảo sự cân bằng quyền lợi, chia sẻ bớt rủi ro giữa các bên tham gia hợp
đồng. Tuy nhiên, trong thực tiễn các bên thường lạm dụng quy định này để trốn
tránh trách nhiệm, gây thiệt hại cho đối tác. Một phần là do sơ suất của các bên khi
thỏa thuận hợp đồng, một phần do các quy định pháp luật và thực tế áp dụng quy
định về miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế còn nhiều
bất cập. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Hệ quả pháp lý của miễn trách nhiệm
theo quy định công ước Vienna 1980” có một vai trò quan trọng và ý nghĩa thiết
thực không chỉ về mặt pháp luật mà còn góp phần giải quyết những vướng mắc phát
sinh trong hoạt động kinh tế quốc tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ nội dung và hệ quả pháp lý các
quy định của CISG về miễn trách nhiệm trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế,
tìm ra những điểm khó khăn cũng như bất cập, lổ hỏng trong vấn đề này, từ đó đề
xuất những giải pháp để áp dụng thuận lợi điều khoản miễn trách cho doanh nghiệp
Việt Nam. Trên tư thế là một thành viên của CISG mang một cái nhìn mới mẻ hơn
về quyền lợi khi gặp các trường hợp vi phạm có thể xảy ra khi tham gia hoạt động
mua bán hàng hoá quốc tế. Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật quốc tế
về miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, có liên hệ với
pháp luật Việt Nam và phân tích các vụ việc cụ thể để rút ra một số bất hợp lý trong
quy định pháp luật và kiến nghị phương hướng hoàn thiện vấn đề pháp lý về miễn
trừ trách nhiệm trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Những nội dung cơ bản của Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế (CISG - United Nations Convention on Contracts for the
International Sale of Goods), Bộ nguyên tắc UNIDROIT năm 2004 về hợp đồng
thương mại quốc tế, Công ước Lahay năm 1964 về mua bán quốc tế những động
sản hữu hình… Hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ mua bán
hàng hóa quốc tế: Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015.

2


4. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây Công ước Vienna 1980 bắt đầu được biết đến và sử
dụng rộng rãi khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 84 của Công ước này. Nhiều
tác giả đã có nhiều bài viết nghiên cứu về Công ước này đặc biệt là điều khoản về
miễn trách nhiệm theo Công ước Vienna 1980 như trong bài khoá luận tốt nghiệp
của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền đến từ trường Đại học Luật Hà Nội hay bài
khóa luận tốt nghiệp khác của một nhóm tác giả đến từ Đại học luật Thành Phố Hồ
Chí Minh. Bên cạnh đó có rất nhiều bài viết quy định trong Công ước này được
đăng trên trang web Công ước Vienna 1980 dành cho người Việt Nam.
Khác với các công trình nghiên cứu đó, khóa luận “Hệ quả pháp lý của miễn
trách nhiệm theo quy định công ước Vienna 1980” người viết sẽ nói về các căn cứ
miễn trách nhiệm và hệ quả pháp lý của miễn trách nhiệm theo Công ước Vienna
1980 đồng thời kết hợp với các vụ kiện thực tiễn để người đọc có thể hiểu rõ hơn về
vấn đề này. Bên cạnh đó, người viết cũng so sánh với Pháp luật Việt Nam để làm rõ
hơn những quy định này và từ đó người đọc có thể rút kinh nghiệm khi tham gia
vào hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện khóa luận tốt nghiệp, người viết đã sử dụng những phương pháp
nghiên cứu chung được sử dụng trong khoa học xã hội như: Phương pháp thu thập,
tổng hợp tài liệu để xác định thông tin và tổng hợp các tài liệu liên quan đến đề tài,

kết hợp với phương pháp lịch sử nhằm tận dụng, đối chiếu, trình bày các cơ sở liên
quan. Ngoài ra, người viết còn sử dụng phương pháp diễn giải để trình bày nội dung
của đề tài, những nghiên cứu và ý kiến của bản thân về đề tài thực hiện. Không
những thế, các phương pháp như phương pháp thống kê đơn giản, hay phương pháp
phân tích, tổng hợp cũng được sử dụng để làm rõ hơn nội dung của bài khóa luận
này.

3


6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Tổng quan về quy định miễn trách nhiệm và hệ quả pháp lý theo
Công ước Vienna
Chương 2: Thực tiễn áp dụng hệ quả pháp lý của miễn trách nhiệm theo công
ước Vienna
Với năng lực, kinh nghiệm và thời gian còn hạn chế nên đề tài nghiên cứu của
em không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự ý kiến hướng
dẫn chỉ bảo của các Thầy Cô.

4


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUY ĐỊNH MIỄN TRÁCH NHIỆM VÀ
HỆ QUẢ PHÁP LÝ THEO CÔNG ƯỚC VIENNA
1.1. Khái niệm và đặc điểm của các trường hợp miễn trách nhiệm theo công
ước Vienna
Miễn trách nhiệm trong hợp đồng thương mại quốc tế là việc không thực hiện
đúng nghĩa vụ đã ghi trong hợp đồng thương mại quốc tế nhưng không phải chịu
trách nhiệm trước những hậu quả phát sinh do chính hành vi không thực hiện nghĩa

vụ đó gây nên. Miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
cũng có thể được hiểu là trường hợp bên vi phạm hợp đồng được giải thoát khỏi các
chế tài thông thường được áp dụng khi có vi phạm hợp đồng. Về bản chất, các
trường hợp này có thể được hiểu là những trường hợp loại trừ yếu tố lỗi của bên vi
phạm. Cở sở để miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng chính là ở chổ họ
không có lỗi khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng. Các trường
hợp này có thể là các trường hợp được các bên thoả thuận trong hợp đồng hoặc quy
định trong pháp luật. Khi bên vi phạm chứng minh được mình thuộc vào những
trường hợp miễn trách nhiệm, họ sẽ được giải thoát khỏi các biện pháp chế tài do vi
phạm hợp đồng.
Miễn trách là một trong những quy định cần thiết của hệ thống pháp luật thế
giới nói chung và hệ thống pháp luật Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên hệ quả pháp lý
của miễn trách lại là một trong những vấn đề khó quy định vì nếu đối với các
trường hợp vi phạm nghĩa vụ khác, bên vi phạm đương nhiên phải gánh chịu những
hậu quả bất lợi cho hành vi thiếu trung thực, thiện chí hoặc thiếu tận tâm của mình
thì trong trường hợp miễn trách, hành vi vi phạm xuất phát từ các yếu tố khách
quan, không phải do lỗi của bên vi phạm nên nhà làm luật không chỉ làm nhiệm vụ
bảo vệ bên bị vi phạm mà còn phải chú trọng bảo vệ cả bên vi phạm. Quy định như
thế nào để vừa cân bằng quyền và lợi ích giữa các bên, vừa bảo vệ lợi ích chung của
xã hội, đồng thời phải rõ ràng, chặt chẽ nhưng không theo hướng bó buộc các chủ
thể hợp đồng là một vấn đề không dễ.
Pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực dân sự, thương mại quy định khá rõ
ràng những trường hợp miễn trừ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên,
trong luật thương mại quốc tế, các trường hợp miễn trừ trách nhiệm do hoàn toàn
không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng được xem xét dưới
góc độ khác và có thể nói là toàn diện hơn. Xuất phát từ nguyên tắc tự do ý chí
5


trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng thương mại quốc tế, tức là khi ký kết các

bên có toàn quyền tự lựa chọn pháp luật áp dụng cho hợp đồng, cần thiết phải
nghiên cứu, phân tích các quy định của luật Thương mại Việt Nam trong sự so sánh
với các quy định của pháp luật thương mại quốc tế và pháp luật của một số nước
phát triển về vấn đề này: Theo quy định của pháp Luật Việt Nam (ví dụ, Điều 294
Luật Thương mại 2005), các bên sẽ không chịu trách nhiệm do không thực hiện hay
thực hiện không đúng nghĩa vụ của hợp đồng, nếu: Xảy ra trường hợp miễn trách
nhiệm mà các bên đã thoả thuận; Xảy ra sự kiện bất khả kháng; Hành vi vi phạm
của một bên là hoàn toàn do lỗi của phía bên kia (lỗi của người có quyền).1
Tuy nhiên quy định này chưa đầy đủ, rõ ràng và còn nhiều điểm chưa tương
thích với CISG. Việc gia nhập CISG đã đánh dấu một mốc mới trong quá trình
tham gia vào các điều ước quốc tế đa phương về thương mại, tăng cường mức độ
hội nhập của Việt Nam, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về mua
bán hàng hoá quốc tế và cho các doanh nghiệp Việt Nam một khung pháp lý hiện
đại, công bằng và an toàn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Mặc dù
quy định về miễn trách nhiệm của Công ước Vienna 1980 chỉ được đề cập trong hai
điều đó là Điều 79 và Điều 80 thuộc Mục IV Chương V nhưng đã được quy định
một cách cụ thể các trường hợp có thể xảy ra.2
1.1.1. Miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng
CISG quy định về bất khả kháng tại khoản 1 Điều 79 dưới tiêu đề Exemption
(Miễn trách) theo đó “một bên không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện bất
k㌳ một nghĩa vụ nào đó của h nếu chứng minh được r ng việc không thực hiện đó
là do một tr ngại n m ngoài sự ki m soát của h và người ta không th chờ đợi
một cách hợp lí r ng h phải tính tới tr ngại đó vào lúc kí kết hợp đồng hoặc là
tránh được hay kh c phục được hậu quả của nó”. Peter Schlechtriem (1998) cho
rằng bằng việc dùng thuật ngữ “impediment” (trở ngại) cùng với hàng loạt quy định
theo sau đó, CISG quy định chặt chẽ các tiêu chí để một trường hợp bất khả kháng
được công nhận miễn trách. Chỉ những trở ngại nào thực sự đến mức khiến cho việc
thực hiện các nghĩa vụ là không thể (impossibile) mới được xem xét, còn những
Giáo trình Luật hợp đồng thương mại quốc tế khoa kinh tế Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Tác
giả: PGS.TS Nguyễn Văn Luyện, NXB: ĐHQG tp HCM 2009.

1

101 câu hỏi đáp về Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nguồn:
/>2

6


trường hợp tuy có gây hoặc đe doạ gây khó khăn trở ngại đến việc thực hiện nghĩa
vụ hoặc chỉ dừng ở mức không khả thi (impracticable) thường có thể sẽ không được
xem xét.3 Một trở ngại được xem là trường hợp bất khả kháng nếu nó thoả mãn
đồng thời bốn điều kiện sau: (i) xảy ra ngoài tầm kiểm soát của các bên; (ii) không
thể lường trước một cách hợp lí tại thời điểm kí kết hợp đồng; (iii) sự kiện và hậu
quả của nó không thể tránh được hoặc không thể khắc phục được và; (iv) có mối
quan hệ nhân quả trực tiếp giữa việc vi phạm hợp đồng và sự kiện trở ngại.4 Về
nguyên tắc, trách nhiệm chứng minh thoả mãn bốn yếu tố này thuộc về bên vi phạm
muốn được miễn trách. Ví dụ, công ty A và B đã thỏa thuận mua bán đậu phộng giá
CIF, tuy nhiên, kênh đào giao thông lối tắt của các tàu hàng bất ngờ đóng cửa làm
cho lộ trình của tàu phải đi vòng xa hơn. Như vậy, với một lộ trình mới này, Người
mua phải chịu thêm một khoản phí lớn nữa so với dự tính ban đầu, tuy nhiên đây
không phải là trường hợp bất khả kháng vì trở ngại này không làm cho việc thực
hiện của người mua là không thể thực hiện được. Và quan trọng là một bên không
được viện dẫn việc không thực hiện nghĩa vụ của bên kia trong chừng mực mà việc
không thực hiện nghĩa vụ đó là do những hành vi hay sơ suất của chính họ (Điều
80). CISG quy định miễn trách cho cả người bán và người mua, đề cập đến tất cả
các trường hợp bất khả kháng có thể xảy ra trong việc thực hiện bất cứ nghĩa vụ
được quy định trong hợp đồng.5
Điều 79 Công ước Vienna 1980 quy định một bên không chịu trách nhiệm về
việc không thực hiện bất kì một nghĩa vụ nào đó của họ nếu chứng minh được rằng
việc không thực hiện ấy là do một cản trở nằm ngoài sự kiểm soát của họ và người

ta không thể mong đợi một cách hợp lí rằng họ phải tính tới trở ngại đó vào lúc ký
kết hợp đồng. Quy định của Công ước viên 1980 về miễn trừ trách nhiệm liên quan
đến việc không thực hiện bất kì nghĩa vụ nào. Như vậy sẽ nảy sinh vấn đề người
bán có thể được miễn trừ trách nhiệm trong trường hợp giao hàng có khuyết tật
nhưng không phải do lỗi của mình. Để trả lời câu hỏi này cần phải phân tích khái
niệm “tr ngại” được sử dụng trong Công ước là nguyên nhân của việc không thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng.

3

Phân tích một vụ kiện bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và lưu ý đối với doanh
nghiệp Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà, Trần Thanh Tâm, Võ Thành Vin.
Điều 79 CISG
Phân tích một vụ kiện bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và lưu ý đối với doanh
nghiệp Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà, Trần Thanh Tâm, Võ Thành Vin.
4

5

7


Nhiều khi một trong các bên không thể thực hiện được nghĩa vụ của mình theo
quy định của hợp đồng do xuất hiện những tình huống khách quan đặc biệt hay tình
huống pháp luật. Ví dụ, nhà máy của người bán bị phá huỷ do hoả hoạn, hay hợp
đồng không thể thực hiện được do Liên hợp quốc thông qua lệnh cấm vận hay nhà
nước cấm nhập khẩu hoặc xuất khẩu một loại hàng hoá nào đó,… Những tình
huống nói trên thường được pháp luật hầu hết các nước cũng như các văn bản pháp
luật thương mại quốc tế điều chỉnh. Các tình huống nói trên được khoa học pháp lí
gọi là tình huống bất khả kháng hay là những thay đổi bất ngờ của tình huống. Sự

tồn tại của chính sự kiện bất khả kháng chưa phải là căn cứ để miễn trừ trách nhiệm
của bên không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng nếu những sự kiện đó không thoả mãn
những yếu tố khách quan và chủ quan sau:
Để được coi là một căn cứ miễn trách nhiệm, thì sự kiện bất khả kháng phải là
nguyên nhân trực tiếp gây ra hành vi vi phạm hợp đồng. Do vậy, việc chứng minh
của bên gặp bất khả kháng sẽ gồm 2 điểm: một là, sự tồn tại của trường hợp bất khả
kháng và hai là, quan hệ nhân quả giữa nó và hành vi vi phạm hợp đồng. Do hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế được tiến hành ký kết và thực hiện giữa các thương
nhân ở các nước khác nhau, thậm chí ở rất xa nhau. Cho nên, để tránh việc một bên
đưa ra các sự kiện minh chứng giả tạo, người ta đòi họ phải đưa ra được các bằng
chứng xác thực. Công ước Viên năm 1980 không quy định các biện pháp, cách thức
chứng minh cho trường hợp gặp bất khả kháng. Còn trong thực tiễn thì các bên
thường quy định trong hợp đồng về việc chứng minh bất khả kháng là một giấy
chứng nhận của Phòng thương mại tại quốc gia nơi xảy ra sự kiện hoặc là xác nhận
của một cơ quan nào đó có thẩm quyền của Nhà nước.
Pháp luật Việt Nam chỉ đưa định nghĩa thế nào là trường hợp bất khả kháng
nhưng lại không nói một cách tương đối rõ ràng những trường hợp nào được coi là
trường hợp bất khả kháng mà chỉ nói một cách chung chung trong một số văn bản
pháp luật. Không có khả năng thực hiện nghĩa vụ là tiền đề chung cho sự miễn trừ
trách nhiệm. Sự không có khả năng này có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân.
Những nguyên nhân này trong lí luận về pháp luật, được phân chia thành nhiều
nhóm như sau6:

6

Giáo trình Luật hợp đồng thương mại quốc tế khoa kinh tế Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Tác
giả: PGS.TS Nguyễn Văn Luyện, NXB: ĐHQG tp HCM 2009

8



Thiên tai: là những hiện tượng của tự nhiên và được coi là cơ sở miễn trừ trách
nhiệm lần đầu tiên được sử dụng trong luật La Mã. Ví dụ: lũ lụt, bão, động đất, dịch
bệnh,... Những hiện tượng này được gọi bằng thuật ngữ “Act of God – Hành vi của
Chúa”.
Chiến tranh: chiến tranh có tuyên bố hay không tuyên bố, nội chiến, các cuộc
cách mạng, nổi loạn, khởi nghĩa cũng được coi là cơ sở miễn trừ trách nhiệm. Pháp
luật sử dụng thuật ngữ Act of King’s Enemies (hành vi của kẻ thù Hoàng đế) để gọi
những tình huống này.
Bãi công: là hiện tượng thường xảy ra trong thực tế và trong nhiều trường hợp
cũng được coi là cơ sở miễn trừ trách nhiệm. pháp luật của các nước xã hội chủ
nghĩa cũ không coi bãi công là cơ sở miễn trừ trách nhiệm vì cho rằng hiện tượng
này chỉ đặc trưng cho nhà nước tư sản. Đối với chủ thể của luật thương mại nói
chung và luật thương mại quốc tế nói riêng thì bãi công là tình huống không thể tiên
liệu trước được và cũng không thể khắc phục được, bởi không ai có thể yêu cầu
lãnh đạo của nhà máy xí nghiệp tránh bãi công bằng cách thoã mãn các yêu sách
của những người bãi công (trong trường hợp này chỉ nói đến nghĩa vụ pháp luật
thương mại, không nói đến nghĩa vụ chính trị hay nghĩa vụ lao động). Bãi công
đúng luật (tức là được luật cho phép tiến hành theo một thủ tục nhất định) hay
không đúng luật đều không có ý nghĩa trong trường hợp này.
Sự cố trong sản xuất: sự cố trong sản xuất được coi là cơ sở miễn trừ trách
nhiệm chỉ trong một số trường hợp. Rõ ràng, không thể không công nhận sự cố sản
xuất do thiên tai gây nên. Tuy nhiên, toà án hay trọng tài có thể từ chối việc công
nhận sự cố nào đó là cơ sở miễn trách nhiệm do mức độ của sự cố đó không đáng kể,
đặt biệt là trong những trường hợp sự cố xảy ra do thiếu bộ phận thay thế, máy móc
thiết bị quá cũ hay do những trường hợp khác mà người sản xuất phải nhìn thấy
trước hay buộc phải nhìn thấy trước khi ký hợp đồng.
Sự cản trở trong vận tải có thể được coi là cơ sở miễn trừ trách nhiệm. Đây có
thể là tai nạn giao thông trầm trọng, hoặc là hậu quả của thiên tai, của những quyết
định từ cơ quan nhà nước (như đóng cửa biên giới), v.v… Tuy nhiên, trong thực tế

vấn đề này còn rất nhiều tranh cãi. Ví dụ, trong hợp đồng mua bán hàng hoá, người
bán có thể áp dụng những biện pháp thích hợp để thay đổi lịch trình của phương
tiện vận chuyển và như vậy sẽ tránh được sự cản trở mới phát sinh. Cần phải chú ý
rằng sự cản trở giao thông chỉ được xem là cơ sở miễn trừ trách nhiệm nếu người
9


bán chứng minh được rằng trước khi sự cản trở xuất hiện, người bán đã chuẩn bị đủ
hàng để giao cho người mua.7
Do đặc điểm phức tạp của hoạt động thương mại quốc tế như sự mở rộng về
không gian, sự kéo dài về thời gian, sự khác nhau về địa lí, tập quán, quy định của
mỗi quốc gia mà khả năng xảy ra những trường hợp bất khả kháng là rất lớn. Bên
cạnh đó, do hậu quả pháp lí là được miễn trách và trong nhiều trường hợp có thể
thay đổi hoàn toàn vị thế của các bên nên không tránh được khả năng các bên tìm
cách lợi dụng trường hợp bất khả kháng để cố gắng giải thoát trách nhiệm khi có
những hoàn cảnh bất lợi xảy đến hoặc để trục lợi khi giá cả thị trường thay đổi theo
hướng có lợi cho bên mình.8 Một số hợp đồng được soạn thảo với điều khoản bất
khả kháng rất cụ thể chi tiết có thể hạn chế được tranh chấp xảy ra nhưng có rất
nhiều hợp đồng thiếu vắng điều khoản quan trọng này. Tính đến thời điểm ngày
23/1/2015 theo cập nhật tổng hợp từ Hệ thống dữ liệu của CISG tại
g. law.pace.edu/cisg/text/digest-cases-79.html, trong khoảng 145 vụ
tranh chấp về trường hợp bất khả kháng theo CISG, chỉ có khoảng 15 vụ là có điều
khoản bất khả kháng trong hợp đồng, chiếm tỷ lệ 10,3c.9
1.1.2. Miễn trách nhiệm do lỗi của các bên
1.1.2.1. Miễn trách nhiệm do lỗi của bên bị thiệt hại (lỗi của người có quyền)
Trong những yếu tố cấu thành nên hành vi vi phạm trong hợp đồng mua bán
hàng hóa thì lỗi được xem là yếu tố quan trọng cấu thành nên hành vi vi phạm đó.
Tuy nhiên lỗi ở đây phụ thuộc hoàn toàn do lỗi của bên có quyền tức bên bị vi phạm
và xác định theo nguyên tắc suy đoán vì trong rất nhiều trường hợp bên có nghĩa vụ
không thể nào hoàn thành được nghĩa vụ của mình nếu như thiếu đi sự hợp tác của

bên có quyền.
Luật Thương mại 1997 không quy định lỗi của bên bị thiệt hại là căn cứ miễn
trừ trách nhiệm do không thực hiện hay thực hiện không đúng hợp đồng, tuy nhiên
101 câu hỏi đáp về Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nguồn:
/>7

8

Xem UNCITRAL (2012), Digest of Case Law on the United Nations Convention On Contracts For The
Interna- tional Sale Of Goods, tại />9

Phân tích một vụ kiện bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và lưu ý đối với doanh
nghiệp Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà, Trần Thanh Tâm, Võ Thành Vin.

10


để phù hợp và thống nhất với quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành, đảm bảo sự
tương thích với luật pháp quốc tế, Luật Thương mại 2005 có quy định này (Khoản c
Điều 294). Như vậy nếu luật của Việt Nam được áp dụng cho hợp đồng thương mại
quốc tế thì có thể áp dụng quy định trên. Điều 80 Công ước Vienna 1980 cũng có
quy định tương tự: “Một bên không được viện dẫn một sự không thực hiện nghĩa vụ
của bên kia trong chừng mực mà sự không thực hiện nghĩa vụ đó là do những hành
vi hay sơ xuất của chính h ”.10 Tuy nhiên lỗi ở trường hợp miễn trách nhiệm này
không chỉ thu hẹp ở đó mà còn bao quát trong phạm vi rộng hơn thông qua các
trường hợp:
Thứ nhất, bên vi phạm nghĩa vụ sẽ được miễn trách nhiệm trong trường hợp
việc vi phạm đó là do chịu ảnh hưởng từ những hành xử của bên có quyền, hay nói
cách khác chính những hành vi của bên có quyền là nguyên nhân, khiến cho nghĩa
vụ không thể thực hiện được, mà nếu không có những hành vi đó thì nghĩa vụ đã

được thực hiện một cách bình thường. Cũng chính vì việc không thể thực hiện được
nghĩa vụ là do lỗi của mình, nên bên có quyền không được đòi bên có nghĩa vụ phải
có trách nhiệm với mình.11
Thứ hai, bên vi phạm nghĩa vụ sẽ được miễn trách nhiệm, trong trường hợp
bên có quyền có lỗi trong việc không phát hiện ra sự vi phạm nghĩa vụ (trong
trường hợp lẽ ra phải biết hoặc bắt buộc phải biết) hoặc đã phát hiện nhưng không
thông báo đến bên vi phạm nghĩa vụ trong thời gian hợp lí và căn cứ theo Khoản 1
Điều 39 CISG 1980 quy định: Nếu không thông báo cho bên bán trong thời hạn hợp
lí về tính chất không phù hợp của hàng hóa sau khi đã phát hiện hoặc lẽ ra phải phát
hiện sự không phù hợp này, bên mua mất quyền khiếu nại về sự không phù hợp đó.
Như vậy, khác với trường hợp thứ nhất là chính hành vi của bên có quyền (lỗi của
bên có quyền) khiến cho nghĩa vụ hợp đồng không thực hiện được thì ở trường hợp
thứ hai này, sự vi phạm nghĩa vụ đã xảy ra mà không xuất phát từ một hành vi nào
của bên có quyền, nhưng lỗi của bên có quyền ở đây là đã sơ xuất, cẩu thả, chủ
quan khi đã không phát hiện ra sự vi phạm hợp đồng của bên có nghĩa vụ, hay nói
cách khác lỗi của bên có quyền chính là sự thiếu trách nhiệm và để mặc cho hậu quả
xảy ra. Mặc dù bên có quyền đã không có bất cứ một hành vi nào trực tiếp dẫn đến
10

Điều 80 Công ước Vienna 1980

Bàn về lỗi của bên có quyền căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, nguồn: />11

11


việc nghĩa vụ không được thực hiện như trường hợp thứ nhất, nhưng nếu bên có
quyền cẩn trọng trong việc tiếp nhận nghĩa vụ thì họ đã có thể phát hiện ra sự vi
phạm và từ đó có thể giúp bên có nghĩa vụ hoàn thành đúng nghĩa vụ của mình nếu

như vẫn còn thời hạn để khắc phục. Từ đó, có thể kết luận rằng lỗi của bên có quyền
trong trường hợp này là đã tạo điều kiện cho hành vi vi phạm nghĩa vụ được hoàn
thành. Chính điều này đã tước đi quyền được áp dụng chế tài trách nhiệm của bên
có quyền và là căn cứ miễn trách nhiệm cho bên vi phạm nghĩa vụ. Như vậy theo
các quy định này, mặc dù bên bán đã vi phạm nghĩa vụ (giao hàng không đúng hợp
đồng) nhưng họ vẫn không phải chịu trách nhiệm vì bên mua đã có lỗi trong việc
đánh giá sự vi phạm hoặc thông báo về sự vi phạm.12
Thứ ba, bên vi phạm nghĩa vụ sẽ được miễn trách nhiệm trong trường hợp việc
không thực hiện được nghĩa vụ là do hậu quả của một sự kiện mà người có quyền
phải chịu rủi ro theo quy định rõ ràng hay ngầm hiểu trong hợp đồng. Để được miễn
trách nhiệm trong trường hợp này, bên vi phạm nghĩa vụ cần phải thỏa mãn các điều
kiện sau đây:
Việc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng là do chịu ảnh hưởng từ những sự
kiện nhất định xảy ra một cách bất thường mà các bên không biết trước được. Tuy
nhiên, các sự kiện xảy ra trong trường hợp này không nhất thiết phải là một trở ngại
khách quan vượt ra tầm kiểm soát của bên vi phạm như trong sự kiện bất khả kháng,
nó cũng không nhất thiết phải xuất phát từ những biến cố tự nhiên hay quyết định
của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà nó có thể xuất phát từ hành vi bất
cẩn của một bên nào đó thậm chí là cả của bên vi phạm nghĩa vụ.13
Hậu quả của sự kiện xảy ra dẫn đến việc không thực hiện được hợp đồng của
bên thực hiện nghĩa vụ là rủi ro mà bên có quyền phải gánh chịu. Khác với các
trường hợp đã nêu trên, trong trường hợp này bên có quyền đã không có bất kỳ một
hành vi nào dẫn đến việc không thể thực hiện được hợp đồng, cũng không phải là
thiếu trách nhiệm để hành vi vi phạm xảy ra mà chỉ đơn giản việc không thực hiện

Bàn về lỗi của bên có quyền căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế,nguồn: />13
Bàn về lỗi của bên có quyền căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, nguồn: />12


12


được nghĩa vụ là rủi ro không may mà họ là người phải gánh chịu.14 Việc không
thực hiện được nghĩa vụ là hậu quả của sự kiện mà người có quyền chịu rủi ro phải
được thỏa thuận quy định rõ ràng hay ngầm hiểu trong hợp đồng. Điều đó có nghĩa
là những rủi ro bất thường dẫn tới việc không thể thực hiện được hợp đồng của bên
có nghĩa vụ, không được mặc nhiên coi bất là những rủi ro mà bên có quyền phải
gánh chịu để từ đó miễn trách nhiệm cho bên vi phạm nghĩa vụ nếu trước đó vấn đề
này đã không được ghi nhận trong hợp đồng.15
Trong thực tiễn thương mại, thiệt hại xảy ra do lỗi của bên bị thiệt hại có thể
thấy trong trường hợp sau: theo hợp đồng mua bán hàng hoá người mua có nghĩa vụ
phải tiếp nhận hàng hoá. Ví dụ, ngày 15 tháng 10 người bán giao hàng, tuy nhiên
đến ngày 18 tháng 10 người mua mới nhận hàng. Khi kiểm tra, người mua phát hiện
hàng hoá không phù hợp với điều kiện của hợp đồng do hỏng hóc hay mất mát và
ngay sau đó bằng văn bản yêu cầu người bán bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, người
bán chứng minh được rằng hàng hoá bị hỏng hóc hay bị mất mát vào ngày 16 và 17
tháng 10 mặc dù người bán đã áp dụng mọi biện pháp ngăn chặn. Như vậy, trong ví
dụ nói trên, thiệt hại xảy ra do người mua chậm thực hiện nghĩa vụ nhận hàng của
mình và rõ ràng rằng người bán sẽ không chịu trách nhiệm về hàng hoá bị hỏng hóc
hay mất mát.
1.1.2.2. Miễn trách nhiệm do bên thứ ba gặp bất khả kháng
Trong Bộ luật Dân sự cũng như trong Luật Thương mại Việt Nam, không có
điều khoản nào quy định lỗi của người thức ba là căn cứ miễn trừ trách nhiệm do
không thực hiện hay thực hiện không đúng hợp đồng. Lỗi của người thứ ba được
coi là căn cứ miễn trừ trách nhiệm do không thực hiện hay thực hiện không đúng
hợp đồng. Lỗi của người thứ ba được coi là căn cứ miễn trừ trách nhiệm được quy
định trong Điều 4 Mục II Quy chế tạm thời số 4794 ngày 31/7/1991 và Điều 7
Quyết định số 299-TMDL ngày 09/04/1992 về việc kí kết và quản lí hợp đồng mua
bán ngoại thương, theo đó lỗi của người thứ ba cũng được coi là căn cứ miễn trừ

trách nhiệm.
Bàn về lỗi của bên có quyền căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, nguồn: />15
Bàn về lỗi của bên có quyền căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, nguồn: />14

13


Khác với các văn bản pháp luật của Việt Nam nói trên Công ước Vienna 1980
(Khoản 2 Điều 79) quy định cụ thể những trường hợp theo đó bên không thực hiện
hay thực hiện nghĩa vụ không đúng sẽ không phải chịu trách nhiệm về việc không
thực hiện hay thực hiện nghĩa vụ không đúng đó do lỗi của người thứ ba, cụ thể là
nếu người thứ ba không thực hiện nghĩa vụ của mình do trường hợp bất khả kháng
gây ra. Nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình do người thứ ba mà họ nhờ
thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng cũng không thực hiện điều đó thì bên
ấy chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp:
“a. Ðược miễn trách nhiệm chiếu theo quy định của khoản trên, và
b. Nếu người thứ ba cũng sẽ được miễn trách nếu các quy định của khoản trên
được áp dụng cho h .16”
Khoản 2 Điều 79 CISG 1980 là một quy định tương đối khắt khe, nghiêm ngặt
và rất cân nhắc.17 Để được miễn trách theo điều khoản này cần đáp ứng đồng thời
hai điều kiện: Đầu tiên, bên vi phạm được miễn trách theo Khoản 1 Công ước này
như đã đề cập ở khoản trước, tức là việc bên thứ ba không thực hiện hợp đồng cấu
thành một trường hợp bất khả kháng đối với bên vi phạm và bên thứ ba cũng được
miễn trách khi áp dụng các điều kiện tại Khoản 1 Điều 79 CISG 1980 cho bên đó,
hay nói cách khác bên thứ ba không thực hiện hợp đồng là do sự kiện bất khả kháng.
Quy định này của Công ước Vienna 1980 có ý nghĩa pháp lí quan trọng bởi
trong hoạt động thương mại nói chung và hoạt động thương mại quốc tế nói riêng,
việc thực hiện mỗi một hợp đồng riêng biệt đều có liên quan mật thiết đến việc thực

hiện các hợp đồng khác. Ví dụ, người bán không thực hiện nghĩa vụ giao hàng của
mình cho người mua theo hợp đồng mua bán hàng hoá do bên gia công đã không
thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người bán theo hợp đồng gia công sản phẩm
(đối tượng của hợp đồng mua bán chỉ có thể là sản phẩm của bên gia công và không
sản phẩm nào có thể thay thế được). Trong trường hợp việc bên gia công không
thực hiện nghĩa vụ được coi là căn cứ để miễn trừ trách nhiệm của người bán theo
hợp đồng mua bán hàng hoá của mình, Khoản 2 Điều 79 Công ước Vienna 1980 đã
quy định rõ: Người bán không chịu trách nhiệm với người mua do không thực hiện
hay thực hiện không đúng nghĩa vụ theo hợp đồng mua bán hàng hoá chỉ trong
16
17

Khoản 1, Điều 79, Công ước Vienna 1980.
Khoản 2, Điều 79, Công ước Vienna 1980.

14


trường hợp nếu người gia công không thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người
bán theo hợp đồng gia công sản phẩm là do trường hợp bất khả kháng. Pháp luật
của Việt Nam không có quy định chi tiết tương tự.
Trong những trường hợp khác, việc người gia công không thực hiện nghĩa vụ
chỉ có thể được coi là những khó khăn của người bán trong việc thực hiện nghĩa vụ
giao hàng của mình đối với người mua. Những khó khăn trong việc thực hiện Hợp
đồng thương mại quốc tế được quy định trong Điều 7.1.7 Các Nguyên tắc của
UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế. Tuy nhiên, văn bản này không có giá
trị pháp lí bắt buộc mà chỉ được coi như một trong những tập quán thương mại quốc
tế.
1.1.3. Miễn trách nhiệm do các trường hợp khác
1.1.3.1. Miễn trách nhiệm do quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Trường hợp hành vi vi phạm hợp đồng của một bên là do thực hiện theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời
điểm giao kết hợp đồng đây được xem là một trong những căn cứ để bên vi phạm
được miễn trách nhiệm. Cơ bản vì hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế là sự trao
đổi mua bán giữa các quốc gia do đó để vận chuyển hàng hóa từ một quốc gia này
sang một quốc gia khác phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà yếu tố bởi một quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành ra nhằm mục đích thiện chí cho
xã hội nhưng lại trở thành một trở ngại khách quan cho chủ thể thực hiện hợp đồng.
Có thể nói đây cũng thuộc trường hợp bất khả kháng do nằm ngoài tầm kiểm soát
của các bên như quy định tại Khoản 1 Điều 79 CISG 1980 và việc trở ngại xảy ra
các bên không thể lường trước được vào lúc ký hợp đồng mặc dù đã áp dụng mọi
biện pháp tránh hoặc khắc phục hậu quả nhưng vẫn không thể ngăn chặn được.
Quyết định của cơ quan nhà nước trong một số trường hợp cũng có thể được
coi là cơ sở miễn trừ trách nhiệm. Cơ sở miễn trừ trách nhiệm loại này chiếm vị trí
đặt biệt trong học thuyết pháp lý về miễn trừ trách nhiệm do có nhiều quan điểm trái
ngược nhau. Ví dụ, để bảo vệ công ty thuộc sở hữu nhà nước, nhà nước ban hành
lệnh cấm nhập hoặc xuất loại hàng hoá nào đó khi thấy công ty của mình không có
khả năng thực hiện nghĩa vụ tương ứng. Những quyết định được nói đến ở trên có
thể là quyết định đơn phương của cơ quan quyền lực nhà nước, cũng có thể là quyết
định của tổ chức quốc tế (như Liên hiệp quốc). Như vậy việc không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ có thể phát sinh do nhà nước cấm xuất, nhập khẩu một loạt hàng
15


hoá nào đó hay Liên hiệp quốc thực hiện lệnh cấm vận thương mại đối với quốc gia
nào đó.
Luật Thương mại Việt Nam 2005 (Khoản 4 Điều 294) quy định: hành vi vi
phạm hợp đồng của một bên là do tuân thủ các quyết định của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm nào vào thời
điểm nào giao kết hợp đồng. Có thể nói rằng, quy định nói trên của Luật Thuơng

mại chưa thật rõ ràng. Lí do của sự chưa rõ ràng đó thể hiện ở chỗ: thứ nhất, cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền là cơ quan cấp nào; thứ hai, cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền ban hành quyết định đó nhằm mục đích gì. Việc pháp luật
không có sự quy định rõ những vấn đề nói trên chắc chắn sẽ gây ra nhiều khó khăn
trong việc xác định một quyết định nào đó của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền có phải là trường hợp miễn trừ trách nhiệm hay không, đặc biệt là trong hợp
đồng thương mại quốc tế.
Trong một vụ tranh chấp18, công ty thương mại nhà nước của Ba Lan bán
đường cho một công ty của Anh. Hợp đồng được kí trên cơ sở hợp đồng mẫu của
Hiệp hội buôn bán đường quốc tế vào tháng 5 năm 1974 và thời hạn giao hàng được
quy định vào tháng 10-11 năm 1974. Đường là đối tượng của hợp đồng được tinh
chế từ củ cải đường. Trong điều khoản miễn trừ trách nhiệm của hợp đồng có quy
định: trong trường hợp có sự can thiệp của chính phủ thì thời hạn thực hiện hợp
đồng được gia hạn và cuối cùng hiệu lực của hợp đồng sẽ chấm dứt. Vì có mưa
nhiều trong tháng 8 nên phần lớn củ cải đường bị chết. Tháng 11. Bộ Ngoại thương
Ba Lan ban hành quyết định cấm xuất khẩu đường và quyết định này có hiệu lực
đến tháng 6 năm 1975. Công ty thương mại Ba Lan không thể thực hiện nghĩa vụ
giao hàng của mình do trường hợp bất khả kháng. Toà án Anh quyết định rằng lí do
công ty thương mại Ba Lan đưa ra là có cơ sở bởi lệnh cấm xuất khẩu đường của
chính phủ nhằm mục đích tránh các biến động có tính chất xã hội và chính trị trong
nước. Biện pháp này cần phải được coi là cơ sở miễn trừ trách nhiệm và nó cũng
phù hợp với quy định của Hiệp hội buôn bán đường quốc tế về trường hợp bất khả
kháng.
Những quyết định của chính phủ có tính chất cấm đoán nhưng không xuất
phát từ việc đảm bảo an ninh quốc gia trong một lĩnh vực nào đó (an ninh lương
thực, an ninh xã hội,…) không thể được coi là trường hợp bất khả kháng. Ví dụ,
18

Xem vụ C. Czarnikow Ltd. Vs. Rolimpex (1979-AC.351).


16


ngày 10/8, Bộ Thương mại nước a có văn bản (0571-TM/XNK)19 yêu cầu một số
doanh nghiệp huỷ hợp đồng mua bán gạo đã kí trước đó với Công ty Toepfer
International. Đây không thể được coi là trường hợp miễn trừ trách nhiệm.
1.1.3.2. Miễn trách nhiệm do thoả thuận của các bên
Các bên có quyền thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế các
trường hợp mà việc vi phạm hợp đồng sẽ được miễn trách nhiệm. Điều khoản miễn
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các bên thỏa thuận khi bên vi phạm hợp đồng
gây thiệt hại cho bên bị vi phạm. Mặc dù khoản 1 Điều 79 CISG không có quy định
về thỏa thuận căn cứ được miễn trách và khoản 5 Điều này cũng không có quy định
cho phép thỏa thuận hệ quả pháp lý. Tuy nhiên theo quy định chung tại Điều 6
CISG, các bên được quyền thỏa thuận loại trừ việc áp dụng toàn bộ hoặc bất kỳ điều
khoản nào của Công ước hoặc có thể sửa đổi hiệu lực các điều khoản đó miễn là
tuân thủ điều kiện về hình thức thỏa thuận tại Điều 12 CISG. Như vậy, có thể thấy
CISG cũng cho phép các bên có thỏa thuận khác đối với các điều khoản trong Công
ước nói chung và Điều 79 nói riêng.
Dựa vào quy định trên, các bên được quyền thỏa thuận về những căn cứ miễn
trách cũng như hậu quả pháp lý của miễn trách khác với Điều 79 CISG. Theo đó
nếu các bên có thỏa thuận thêm một số căn cứ miễn trách khác với khoản 1 Điều 79
CISG thì khi xảy ra các căn cứ đó, bên vi phạm sẽ được miễn trách nhiệm bồi
thường thiệt hại theo khoản 5 Điều 79 CISG. Trường hợp các bên thỏa thuận hậu
quả pháp lý miễn trách khác với quy định trong CISG thì khi phát sinh căn cứ miễn
trách, những hậu quả do các bên thỏa thuận sẽ được áp dụng, thay thế cho hậu quả
pháp lý tại khoản 5 Điều 79 CISG. Các hậu quả này có thể bao gồm hậu quả do các
bên tự thiết lập, hậu quả theo quy định trong pháp luật quốc gia của bất kỳ bên nào
theo thỏa thuận hoặc do các nguyên tắc tư pháp quốc tế dẫn chiếu đến. PECL và
PICC cũng có quy định cho phép các bên tự do thỏa thuận tương tự như CISG.20
Thực tế các bên cũng thường có thỏa thuận về hậu quả pháp lý theo hướng miễn

toàn bộ trách nhiệm cho bên vi phạm ch ng hạn như Vụ tranh chấp số 167/95, Tòa
án phúc thẩm quận Hamburg, Đức.21 Bên bán (Đức) và bên mua (Anh) cùng thỏa
thuận điều khoản về bất khả kháng trong hợp đồng mua bán sắt molypden (Điều 2),
theo đó bên bán sẽ không chịu bất kỳ trách nhiệm nào cho việc chậm trễ hoặc không
19
20
21

Xem: Báo Thanh niên số ra ngày 10/04/2003.
khoản 2 Điều 1:102 PECL và Điều 1.5 PICC
/>
17


thực hiện nghĩa vụ giao hàng. Tòa án cho rằng thỏa thuận này của các bên là hợp
pháp, phù hợp với CISG.
Điều 6 CISG cho thấy quyền tự do hợp đồng là một trong những nguyên tắc
cơ bản của pháp luật quốc tế về hợp đồng nói chung. Một số nhà nghiên cứu tỏ ý
nghi ngờ và không đồng tình với quy định cho phép các bên thỏa thuận hậu quả
pháp lý miễn trách như trên. Ch ng hạn như quan điểm của giáo sư Joachim Bonell
cho rằng một thỏa thuận hợp đồng cản trở quyền áp dụng các hậu quả tại khoản 5
Điều 79 CISG là không hợp lý vì “trái với giới hạn trách nhiệm tối thi u của các
bên đối với thất bại trong việc thực hiện nghĩa vụ của m㌳nh”, theo đó một bên có
thể không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì ngay cả trong trường hợp trở ngại xảy ra
với bên đó hoặc do sự sơ suất của chính bên đó.22 Quan điểm này có vẻ hơi khiên
cưỡng bởi lẽ CISG xem trọng nguyên tắc tự do hợp đồng và quy định tại Điều 6 là
một trong những quy định bảo vệ cho sự tự do ấy. Thỏa thuận về hướng giải quyết
trong trường hợp xảy ra sự kiện miễn trách theo ý chí của các bên và không ảnh
hưởng bất lợi đến bất cứ bên nào khác ngoài hợp đồng thì không có lý do gì bị từ
chối áp dụng. Hơn nữa các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là những

thương nhân có kinh nghiệm và hiểu biết. Họ có thể tự suy xét, cân nhắc trong từng
thỏa thuận với đối tác và khi tự nguyện thỏa thuận, các bên sẽ thực hiện cũng như
chấp nhận những hậu quả phát sinh từ chính sự thỏa thuận của mình.
1.2. Áp dụng hệ quả pháp lý trong trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định
của công ước Vienna
1.2.1. Biện pháp áp dụng trong trường hợp miễn trách nhiệm
1.2.1.1. Yêu cầu giảm giá hàng hoá
Theo quy định của Điều 50 CISG, khi người bán giao hàng không phù hợp
hợp đồng, người mua có thể giảm giá hàng hoá, tỉ lệ với sự khác biệt giữa giá trị
thực của hàng hoá vào lúc giao hàng và giá trị mà đáng lẽ hàng hoá phù hợp với
hợp đồng có được vào thời điểm giao hàng. Như vậy, CISG cho phép người mua có
thể giảm giá hàng hoá tuy nhiên, việc người mua giảm giá hàng hoá chỉ có thể áp
dụng khi thoả mãn các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, người mua chỉ có thể giảm giá hàng hoá nếu hàng giao không phù
hợp với hợp đồng theo các quy định được nêu tại Điều 35 CISG. Điều này cho thấy,
Xem thêm Michael Joachim Bonell (1987), “Article 6”, />22

18


khi người bán giao hàng chậm hoặc khi người bán không thực hiện hoặc thực hiện
không tốt bất kỳ nghĩa vụ nào khác không liên quan đến sự phù hợp của hàng hoá.
Tuy nhiên, Điều 50 CISG cũng xác định rõ ngay cả khi hàng hoá mà người bán giao
là không phù hợp với hợp đồng, thì người mua cũng không thể giảm giá hàng hoá
nếu người bán đã loại trừ mọi thiếu sót trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình theo
quy định của Điều 37 hoặc Điều 48 CISG hoặc khi người mua từ chối chấp nhận
việc thực hiện của người bán theo quy định của hai điều khoản nói trên.
Thứ hai, người mua phải biểu thị rõ ý định giảm giá hàng hoá của mình. Đây
là điều kiện được một toà án của Đức đưa ra trong phán quyết năm 1994 của mình.
Đồng thời, một toà án khác cũng đã xác định việc người mua từ chối thanh toán tiền

hàng được coi là một lý do đủ để biểu thị ý định giảm giá của người mua. Khi áp
dụng biện pháp giảm giá hàng hoá, người mua vẫn có thể yêu cầu người bán bồi
thường thiệt hại. Tuy nhiên, nếu được áp dụng đồng thời, người mua chỉ có thể đòi
bồi thường thiệt hại cho những thiệt hại nằm ngoài giá trị hàng hoá bị giảm sút bởi
phần giảm sút này đã được tính đến khi áp dụng biện pháp giảm giá hàng hoá.
Trong luật Việt Nam biện pháp giảm giá không được quy định trong Luật
Thương mại năm 2005. Điều 445 Bộ luật Dân sự 2015 cho phép người mua được
quyền áp dụng biện pháp này nếu người mua phát hiện ra khuyết tật của vật mua
bán làm mất giá trị hoặc làm giảm sút giá trị sử dụng của vật đó. Tuy nhiên Bộ luật
Dân sự 2015 không quy định cụ thể chi tiết về quyền và các điều kiện đi kèm với
quyền áp dụng biện pháp giảm giá của bên mua.
Nếu với vai trò là người mua, người mua sẽ thích quy định về giảm giá của
Công ước, còn nếu là người bán, người bán lại rất muốn sửa đổi lại giới hạn hiện
thời của điều khoản trách nhiệm pháp lý để kết thúc điều đó. Điều 50 CISG cung
cấp cho người mua trong trường hợp anh ta nhận được hàng hóa không phù hợp với
hợp đồng một biện pháp khắc phục được quy định trong phạm vi luật dân sự. Khi
hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, nếu người mua chấp nhận hàng như vậy thì
có thể đơn phương giảm giá với tỷ lệ căn cứ vào sai biệt giữa giá trị thực của hàng
hóa vào lúc giao hàng và giá trị của hàng hóa nếu hàng phù hợp với hợp đồng vào
lúc giao hàng. Có những tình huống mà khi đó Điều 50 có thể tạo ra những niềm tin
tốt hơn là cái có thể đạt được bằng việc thuyết phục một khiếu nại tổn thất. Ví nhụ
như trong trường hợp ở một thị trường đang đi xuống hoặc khi khiếu nại tổn thất bị
loại trừ bởi bất khả kháng .
19


×