Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.08 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI

Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn : Ths. Nguyễn Văn Thạch
Sinh viên thực hiện

: Tô Khánh Nhựt

MSSV: 1511270251

Lớp: 15DLK02

TP. Hồ Chí Minh, 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI



Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn : Ths. Nguyễn Văn Thạch
Sinh viên thực hiện

: Tô Khánh Nhựt

MSSV: 1511270251

Lớp: 15DLK02

TP. Hồ Chí Minh, 2019


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến giáo viên hướng dẫn ThS. Nguyễn Văn
Thạch đã hướng dẫn em thực hiện bài luận văn tốt nghiệp này.
Xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức tại Thanh tra Sở
Công thương đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ nhiệt tình trong quá trình thực tập tại
cơ quan.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám Hiệu, Ban Chủ Nhiệm Khoa Luật
và đội ngũ Giảng viên Khoa Luật - trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí
Minh đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã tạo niềm động lực, khuyến khích
em trong quá tình nghiên cứu đề tài luận văn tốt nghiệp này.
Cuối cùng em xin gửi chúc quý thầy, cô, toàn thể các anh, chị tại Sở Công
thương Thành phố Hồ Chí Minh và anh, chị tại trường Đại học Công nghệ Thành phố

Hồ Chí Minh dồi dào sức khỏe và thành công trong sự nghiệp.
Em xin cảm tạ chân thành!
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

Tô Khánh Nhựt


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: Tô Khánh Nhựt,

MSSV: 1511270251

Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khoá luận tốt nghiệp
này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn đầy đủ và
theo đúng qui định);
Nội dung trong khoá luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường và
pháp luật.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

Tô Khánh Nhựt


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số
hiệu
bảng

2.1.

2.2.

Tên bảng

Trang

Số vi phạm hành chính trong năm 2017 và 2018 tại Sở
Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh

40

Số tiền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thương mại trong năm 2017 và 2018 tại Sở Công
Thương Thành phố Hồ Chí Minh

43


MỤC LỤC
Trang

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ............................................................................ 1
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài ............................................................ 1
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài .......................................................... 2
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 3
6. Kết cấu của đề tài ................................................................................................. 3


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VÀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG
MẠI ......................................................................................................................... 3
1.1. Khái quát vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại ................................ 4
1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại ........................... 4
1.1.2. Đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại ............................. 7
1.1.3. Phân loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại .............................. 9
1.2. Khái quát xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại .................. 11
1.2.1. Khái niệm, vai trò xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại .. 11
1.2.2. Thẩm quyền và hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương
mại ............................................................................................................................ 16
1.2.3. Nguyên tắc, thời hiệu, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thương mại .............................................................................................................. 27


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT, ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI VÀ
KIẾN NGHỊ ............................................................................................................ 36
2.1.Thực trạng pháp luật, áp dụng pháp luật vào xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thương mại –thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh .................................. 36
2.1.1. Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
.................................................................................................................................. 36
2.1.2. Thực trạng áp dụng pháp luật vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thương mại –thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh ................................................. 30
2.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trong việc xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thương mại ........................................................................................ 51
2.2.1. Kiến nghị về các quy định pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thương mại ............................................................................................................... 51
2.2.2. Kiến nghị về áp dụng pháp luật trong xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực thương mại ....................................................................................................... 53
2.2.3. Một số kiến nghị khác liên quan đến việc xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thương mại ................................................................................................. 55

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn Nhà nước ta xác định phát triển kinh tế của đất nước theo nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế mở đã tạo ra những
điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập với các quốc gia trong khu
vực và cường quốc trên thế giới đồng thời thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển.
Nhưng biểu hiện của nền kinh tế thị tường là sự cạnh tranh, là hình thành một cách
tự phát trên nguyên lý cung cầu thông qua cơ chế thỏa thuận, tự nguyện được hiện
thực hóa bằng hợp đồng. Chính vì vậy, nhà nước cần thay mặt xã hội điều tiết kinh tế
thị trường, buộc nó phải hoạt động trong những khuôn khổ nhất định. Mặc dù vậy,
do sự cạnh tranh quyết liệt của nền kinh tế này nên các chủ thể trong nền kinh tế thị
trường nhằm mang lại lợi thế cho bản thân so với đối thủ cạnh tranh mà họ đã thực
hiện các hành vi hành vi vi phạm hành chính trong thương mại, để thoát khỏi khuôn
khổ mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra. Vấn đề vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thương mại đã gây ra những bất lợi nhất định trong định hướng phát triển kinh tế
nước ta. Ngoài ra, nó còn tạo nên những khó khăn và thiệt hại nghiêm trọng trong
việc huy động các nguồn lực phát triển đất nước. Điều quan trọng nhất, là việc xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại như thế nào cho thiết thực và hợp lý
trên thực tiễn nhằm duy trì môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh.
Nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề này, trong quá trình phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sao cho phù hợp quy luật khách quan trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nên em đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật

về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại” làm luận văn tốt nghiệp
ngành Luật Kinh tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Những vấn đề lý luận và thực trạng của việc xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thương mại, tìm hiểu về việc áp dụng các quy định pháp luật về việc xử lý
vi phạm hành chính trong thương mại trên thực tiễn. Từ đây, nêu lên những bất cập,
vướng mắc trong việc thực thi pháp luật của đơn vị thực tập.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài
3.1. Phạm vi nghiên cứu:
1


Vì lĩnh vực thương mại rất rộng nên phạm vi đề tài luận văn tốt nghiệp, em
xin giới hạn phạm vi nghiên cứu thực trạng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thương mại tại Sở Công thương Thành phố Hồ Chí Minh.
Về mặt không gian, luận văn chỉ nghiên cứu thực trạng xử phạt vi phạm trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và với thời gian trong năm 2017 và năm 2018.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính là vấn đề rất rộng, thể hiện
nhiều lĩnh vực khác nhau của quản lý nhà nước. Trong phạm vi của đề tài này, em
chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính về
văn phòng đại diện và xúc tiến thương mại trong lĩnh vực thương mại.
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau liên quan
đến đề tài luận văn, cụ thể như:
-

Cơ sở lý luận cho việc xây dựng chế định về xử phạt vi phạm hành chính ở
nước ta của Viện Nghiên cứu Khoa học –Pháp lý (năm 1990).


-

Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính: lý luận và thực tiễn của GS.TS.

-

-

-

Phạm Hồng Thái, Luận văn Thạc sĩ Luật học, năm 2018.
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế từ thực tiễn tỉnh Yên Bái của
Đào Hồng Ngọc, Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, năm
2018.
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường từ thực tiễn các khu
công nghiệp ở tỉnh Bắc Giang của Dương Thị Tuyên, Luận văn thạc sĩ Luật
Hiến pháp và Luật hành chính, 2018.
Trách nhiệm hành chính đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương
mại qua thực tiễn tỉnh Lạng Sơn. Luận văn thạc sỹ học, Trần Mạnh Hùng, Học
viện Khoa học xã hội, 2012.

Các công trình nghiên cứu đã có những thành công nhất định, góp phần làm
rõ thêm vấn đề lý luận và thực tiễn xử lý vi phạm hành chính nói chung và đối với
lĩnh vực thương mại nói riêng ở nước ta. Tuy nhiên, hiện vẫn còn thiếu những công
trình nghiên cứu về thực trạng xử phạt vi phạm hành chính về thương mại trên địa
2


bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Vì thế, đề tài sẽ nêu lên thực trạng xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thương mại và thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các vấn đề nghiên cứu đặt ra, các phương pháp nghiên cứu cụ
thể được sử dụng trong luận văn là: tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, danh mục các bảng, danh mục tài tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn tốt nghiệp này bao gồm:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật, áp dụng pháp luật trong xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thương mại tại Thành phố Hồ Chí Minh và kiến nghị

3


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VÀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
THƯƠNG MẠI
1.1.

Khái quát về vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại

1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
Với ý nghĩa là một thiết chế trong kiến trúc thượng tần của xã hội, quá trình
phát triển của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, cũng như pháp luật về thương
mại đều phụ thuộc vào những thay đổi căn bản của các điều kiện kinh tế, và là công
cụ pháp lý hữu hiệu để Nhà nước điều chỉnh các quan hệ kinh tế theo một trật tự và
định hướng nhất định trong từng giai đoạn phát triển. Lịch sử phát triền của pháp luật
về vi phạm hành chính sơ khai từ Điều lệ xử phạt vi cảnh đến nay hay về thương mại
từ năm 1997 đến nay, đã trải qua nhiều văn bản pháp luật, nhiều lần sửa đổi, bổ sung
nhưng khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại không được Nhà

nước quy định một một cách cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật, mà ta chỉ
có thể hiểu được định nghĩa một cách gián tiếp thông qua khái niệm về vi phạm hành
chính và khái niệm thương mại. Vì vậy, trước khi nêu lên khái niệm vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thương mại thì chúng ta cần hiểu được khái niệm vi phạm hành
chính và khái niệm thương mại.
Thứ nhất, về khái niệm vi phạm hành chính:
Khi nói đến xử lý vi phạm hành chính thì chúng ta cần quan tâm đến vấn đề
cơ sở của việc xử lý vi phạm hành chính. Đó chính là có hay không có hành vi vi
phạm hành chính được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Việc xác định
được khái niệm vi phạm hành chính có ý nghĩa quan trọng trong từng lĩnh vực quản
lý của Nhà nước. Ngoài ra, khi xác định được chính xác hành vi vi phạm hành chính,
thì khi xử phạt vi phạm hành chính mới đảm bảo được mục đích mà Nhà nước đề ra
là nhằm duy trì trật tự xã hội, ngăn chặn và răn đe các hành vi gây nguy hiểm cho xã
hội và tránh được những sai phạm trong xử lý vi phạm hành chính.
Vì vậy, khái niệm vi phạm hành chính được đề cập khá sớm trong hệ thống
pháp luật Việt Nam. Tại Điều 2 của Điều lệ xử phạt vi cảnh ban hành kèm theo Nghị
định số 143/CP của Hội đồng Chính phủ ngày 27/5/1977 (sau đây gọi là Điều lệ xử
phạt vi cảnh) có nêu: “Những hành vi xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội mà có tính
chất đơn giản, rõ ràng và hậu quả không nghiêm trọng, chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc chưa đến mức xử phạt bằng các biện pháp hành chính khác là
4


phạm pháp vi cảnh”1. Vi cảnh được hiểu là những vi phạm luật lệ sinh hoạt nơi công
cộng chưa tới mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, tên gọi này không được
sử dụng trong các văn bản quy phạm pháp luật sau này, thay vào đó với tên gọi mới
là vi phạm hành chính. Cho nên khái niệm về vi cảnh vẫn chưa được xem là một khái
niệm về hành vi vi phạm hành chính nhưng cũng có thể xem là một quy định tiền thân
của khái niệm vi phạm hành chính. Vi phạm hành chính được đề cập lần đầu tiên khi
Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính ban hành vào ngày 07 tháng 12 năm 1989.

Tại Điều 1 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính này có nêu: “Vi phạm hành chính
là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quy tắc
quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật
phải bị xử phạt hành chính”2. Từ định nghĩa ta có thể thấy được dấu hiệu pháp lý cơ
bản của vi phạm hành chính là: hành vi có lỗi và được pháp luật quy định phải xử
phạt vi phạm hành chính.
Nhưng khi, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính của Ủy ban thường vụ Quốc
hội ban hành ngày 06 tháng 07 năm 1995, Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
về việc xử lý vi phạm hành chính ban hành ngày 02 tháng 07 năm 2002 sửa đổi, bổ
sung bởi Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội về sửa đổi một số điều của pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính ban hành ngày 08 tháng 03 năm 2007 và Pháp lệnh
sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính của Ủy ban
thường vụ Quốc hội ban hành ngày 02 tháng 04 năm 2008 (sau đây gọi là Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính năm 2002 sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008) ban hành thì
khái niệm vi phạm hành chính không còn được định nghĩa tách biệt nữa, mà thay vào
đó ta chỉ có thể hiểu khái niệm vi phạm hành chính gián tiếp thông qua những quy
định về xử lý vi phạm hành chính. Có thể định nghĩa vi phạm hành chính như sau:
“Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do các cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm các
quy định pháp luật về quản lý nhà nước và hành vi này sẽ bị áp dụng các hình thức
xử lý vi phạm hành chính”. Ta có thể thấy được, một hành vi vi phạm hành chính
được cấu thành khi hành vi có lỗi của các cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm xâm
phạm đến trật tự xã hội mà Nhà nước duy trì, mà không bị truy cứu trách nhiệm hình
sự và chịu trách nhiệm trước pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Đ iề u lệ xử phạ t vi cả nh ban hành kèm theo Nghị đị nh 143/CP ngày 25/07/1977 củ a Hộ i đồ ng
Chính phủ
2
Pháp lệ nh củ a Hộ i đồ ng Nhà nư ớ c số 28 –LCT/HDDNN8 ngày 07 tháng 12 nă m 1989 về Xử
phạ t vi phạ m hành chính
1


5


Tuy vậy, cùng với những chuyển biến nhanh chóng và sâu rộng trong đời sống
xã hội của người dân, nhu cầu phát triển xã hội, hội nhập với thế giới nên một số quy
định trong các văn bản pháp luật nêu trên đã tỏ ra không phù hợp, bất cập. Do vậy,
ngày 20 tháng 06 năm 2012 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thông qua Luật xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm
2013 và được sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2017 (sau đây gọi là Luật xử lý vi phạm
hành chính hiện hành), khái niệm vi phạm hành chính được Nhà nước ta định nghĩa
rõ ràng và riêng biệt với khái niệm xử phạt hành chính tại khoản 1 điều 2 Luật xử lý
vi phạm hành chính hiện hành: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ
chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải
là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”3.
Qua các quy định pháp luật định nghĩa về vi phạm hành chính của từng thời
kỳ khác nhau, tuy có khác nhau về mặt hình thức nhưng bản chất thì tương tự nhau.
Đều mang các dấu hiệu cơ bản của vi phạm hành chính đó là:
- Chủ thể vi phạm hành chính là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm
hành chính.
- Hành vi vi phạm hành chính là hành vi có lỗi.
- Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi này thấp, chưa hoặc không cấu
thành tội phạm.
- Hành vi vi phạm phải được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt
hành chính.
Thứ hai, về khái niệm thương mại:
Ở nước ta, thuật ngữ “thương mại” được sử dụng khá phổ biến trong đời sống
xã hội hằng ngày và cả trong các văn bản quy phạm pháp luật, song đến nay vẫn chưa
được định nghĩa chính thức bằng bất kỳ văn bản nào của hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật Việt Nam.

Theo Wikipedia định nghĩa: “Thương mại là hoạt động trao đổi của cải, hàng
hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ v.v giữa hai hay nhiều đối tác, và có thể nhận lại một

3

Luậ t Xử lý vi phạ m hành chính nă m 2012 sử a đổ i, bổ sung nă m 2014, 2017

6


giá trị nào đó (bằng tiền thông qua giá cả) hay bằng hàng hóa, dịch vụ khác như trong
hình thức thương mại hàng đổi hàng. Trong quá trình này, người bán là người cung
cấp của cải, hàng hóa, dịch vụ… cho người mua, đổi lại người mua sẽ phải trả cho
người bán một giá trị tương đương nào đó.”4.
Đây là định nghĩa được hiểu rộng hơn nhiều so với Luật Thương mại do Quốc
hội ban hành ngày 10 tháng 05 năm 1997. Tại thời điểm này, khái niệm thương mại
được hiểu thông qua khe cửa hẹp quy định tại điều 45 của Luật thương mại năm 1997,
cụ thể bao gồm 14 hành vi điều chỉnh các quan hệ mua bán hàng hoá và dịch vụ liên
quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá: mua bán hàng hoá; đại diện cho thương nhân;
môi giới thương mại; uỷ thác mua bán hàng hoá; đại lý mua bán hàng hoá; gia công
trong thương mại; đấu giá hàng hoá; đấu thầu hàng hoá; dịch vụ giao nhận hàng hoá;
dịch vụ giám định hàng hoá; khuyến mại; quảng cáo thương mại; trưng bày giới thiệu
hàng hoá; hội chợ, triển lãm thương mại. Hơn thế nữa, đối tượng của việc mua bán
hàng hóa còn bị giới hạn là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng
tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh
doanh dưới hình thức cho thuê, mua, bán5. Ngay cả, các bất động sản như nhà máy,
công trình xây dựng (không phải là nhà ở), các quyền tài sản như cổ phần, cổ phiếu,
trái phiếu, các hành vi liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá như vận chuyển
hàng, thanh toán tiền mua hàng qua hệ thống ngân hàng… cũng không thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại 1997.

Khác với Luật thương mại năm 1997, hàng hóa được hiểu trong Luật Thương
mại do Quốc hội ban hành ngày 14 tháng 06 năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2017là
tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn
liền với đất đai6. Ở đây ta thấy, hàng hóa được hiểu rộng hơn so với hàng hóa được
hiểu theo Luật thương mại năm 1997. Dẫn đến, phạm vi điều chỉnh có thể hiện bao
quát hơn, cụ thể hơn là điều chỉnh các hoạt động thương mại được xem là nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương
mại và các hoạt động khác, điều này đã gớp phần mở rộng các hoạt động thương mại
mà không bị giới hạn trong 14 hành vi thương mại giống như Luật thương mại năm
1997.

Khái niệ m thư ơ ng mạ i theo Wikipedia (2017) sử a đổ i lầ n cuố i ngày 15 tháng 11 nă m 2017
Pháp lệ nh Xử lý vi phạ m hành chính nă m 1995
6
Luậ t Thư ơ ng mạ i 2005 sử a đổ i, bổ sung 2017
4
5

7


Cuối cùng, thông qua định nghĩa về vi phạm hành chính, về thương mại và các
yếu tố liên quan đến vi phạm hành chính, thương mại có thể nêu ra định nghĩa về vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại như sau: “Vi phạm hành chính trong lĩnh
vưc thương mại là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, hành vi này vi phạm
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại mà không phải
là tội phạm và bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định”.
1.1.2. Đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
Lĩnh vực thương mại có tầm quan trọng to lớn và rất đặc biệt trong công cuộc
phát triển của một đất nước. Vì thế, nó mang những đặc thù riêng biệt của mình so

với các lĩnh vực khác. Dẫn đến, hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương
mại ngoài mang các đặc điểm của vi phạm hành chính nói chung thì cũng tạo nên cho
mình những đặc điểm riêng so với vi phạm hành chính trong các lĩnh vực khác, cụ
thể là:
Về chủ thể: Chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại là các
cá nhân, tổ chức thực hiện hoạt động thương mại hoặc có liên quan đến hoạt động
thương mại.
Về hình thức: Vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại là hành vi thực
hiện của cá nhân, tổ chức mà mà hành vi này vi phạm các quy định về quản lý trong
lĩnh vực thương mại của Nhà nước và hành vi vi phạm hành chính này là hành vi có
lỗi. Hành vi vi phạm hành chính về thương mại bao gồm các hành vi như: Hành vi vi
phạm về hoạt động kinh doanh theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép
kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh và chứng chỉ hành nghề kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ; Hành vi kinh doanh dịch vụ cấm, sản xuất và buôn bán
hàng giả, hàng cấm; Hành vi kinh doanh hàng hóa nhập lậu; hàng hóa lưu thông
trong nước bị áp dụng biện pháp khẩn cấp; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh;
hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện; hàng hóa quá hạn sử dụng, không rõ
nguồn gốc, xuất xứ và có vi phạm khác; Hành vi vi phạm về sản xuất, kinh doanh
thuốc lá; Hành vi vi phạm về sản xuất, kinh doanh rượu; Hành vi đầu cơ hàng hóa
và găm hàng; Hành vi vi phạm về hoạt động xúc tiến thương mại; Hành vi vi phạm
về hoạt động trung gian thương mại; Hành vi vi phạm về xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hóa và dịch vụ liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa; Hành vi vi phạm về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Hành vi vi phạm về thương mại điện tử; Hành vi
8


vi phạm về thành lập và hoạt động thương mại của thương nhân nước ngoài và người
nước ngoài tại Việt Nam; Các hành vi vi phạm khác trong hoạt động thương mại.7
Về mục đích: chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại nhằm tạo
ra một khoản lợi nhuận bất hợp pháp do hành vi vi phạm hoặc nhờ vào hành vi vi

phạm đó tạo nên một lợi thế nhất định so với các chủ thể khác cùng hoạt động trong
lĩnh vực thương mại. Ngoài ra, chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương
mại thực hiện hành vi nhằm trốn tránh một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm, nghĩa vụ
của mình phải làm với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Về bản chất: chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại là trái với
chuẩn mực của xã hội trong quản lý an ninh trật tự, trong hoạt động kinh doanh và
trong các hoạt động khác của lĩnh vực thương mại.
Về hậu quả: chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại khi thực
hiện hành vi vi phạm sẽ gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho Nhà nước, cá nhân,
tổ chức khác và người tiêu dùng.
1.1.3. Phân loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
Thời gian vừa qua, những yêu cầu tiếp theo của công cuộc đổi mới kinh tế đất
nước, cùng với những thách thức của tiến trình hội nhập đất nước và đang đòi hỏi
Nhà nước phải có sự cải cách mạnh mẽ trong hoạt động lập pháp để tạo lập một hành
lang pháp lý đầy đủ, chặt chẻ mà lại thông thoáng giữa “vô hình vạn trạng”. Các hành
vi vi phạm các lĩnh vực nói chung và hành vi vi phạm trong lĩnh vực thương mại nói
riêng. Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại rất đa dạng, phong phú
và được biến thể bởi các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm. Theo Luật thương mại
hiện hành thì vi phạm trong lĩnh vực thương mại có thể chia thành các loại sau8:
Thứ nhất, các hành vi vi phạm quy định về đăng ký kinh doanh; giấy phép
kinh doanh của thương nhân; thành lập và hoạt động của Văn phòng đại diện, Chi
nhánh của thương nhân Việt Nam và của thương nhân nước ngoài.

7
8

Tạ i khoả n 2, Đ iề u 1 Nghị đị nh 185/2013/NĐ –CP
Luậ t Thư ơ ng mạ i 2005 sử a đổ i, bổ sung nă m 2014, 2017

9



Thứ hai, các hành vi vi phạm quy định về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong
nước và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái
nhập; chuyển khẩu; quá cảnh.
Thứ ba, các hành vi vi phạm chế độ thuế, hóa đơn, chứng từ, sổ và báo cáo kế
toán.
Thứ tư, các hành vi vi phạm quy định về giá hàng hóa, dịch vụ.
Thứ năm, các hành vi vi phạm quy định về ghi nhãn hàng hóa lưu thông trong
nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Thứ sáu, các hành vi buôn lậu, kinh doanh hàng nhập lậu, buôn bán hàng giả
hoặc nguyên liệu, vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng giả, kinh doanh trái phép.
Thứ bảy, các hành vi vi phạm các quy định liên quan đến chất lượng hàng hóa,
dịch vụ kinh doanh trong nước và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu.
Thứ tám, các hành vi gian lận, lừa dối khách hàng khi mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ.
Thứ chín, các hành vi vi phạm các quy định liên quan đến bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng.
Thứ mười, các hành vi vi phạm quy định về quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng
hóa, dịch vụ kinh doanh trong nước và xuất khẩu, nhập khẩu.
Thứ mười một, các hành vi vi phạm quy định về xuất xứ hàng hóa.
Thứ mười hai, các hành vi vi phạm khác trong hoạt động thương mại theo quy
định của pháp luật.
Những hành vi nêu trên là những hành vi vi phạm pháp luật về thương mại nói
chung nhưng khi những hành vi này có tính chất, mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra
mà cá nhân, tổ chức bị xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính, thì mặc nhiên các hành vi vi phạm này trở thành các hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thương mại.

10



1.2.

Khái quát xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại

1.2.1. Khái niệm, vai trò xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thương mại
Thực tiễn kinh tế của Việt Nam sau nhiều năm đổi mới là một kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là, nền kinh tế dựa trên
những nguyên tắc và quy luật của cơ chế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các
nguyên tắc, bản chất của chủ nghĩa xã hội. Là một nền kinh tế mà trong quá trình
chuyển đổi, một số yếu tố lạc hậu, hạn chế của cơ chế tập trung vẫn còn tồn tại. Những
nhân tố mới đang trong quá trình hình thành và phát triển, nhiều vấn đề còn đang
trong quá trình thể nghiệm, cần có thực tiễn để khẳng định. Bên cạnh đó, xu thế hội
nhập toàn cầu là một tác động tất yếu và mạnh mẽ đến mọi quốc gia mà Việt Nam
không thể đứng ngoài. Trong bước chuyển đổi, nền kinh tế thị trường nước ta đa
dạng, phong phú về thành phần tham gia quan hệ kinh doanh, thương mại và phức
tạp về các hành vi vi phạm phát sinh trong hoạt động thương mại. Vì vậy, việc xử
phạt các hành vi vi phạm trong lĩnh vực thương mại cần phải được giải quyết triệt để,
linh hoạt và đạt được hiệu quả cao nhất. Để đạt được mục tiêu này thì cần thấu hiểu
được khái niệm, vai trò xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại.
Về khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại:
Sau khi xác định được hành vi vi phạm hành chính thì cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiến hành sử dụng các chế tài áp dụng với đối tượng thực hiện hành vi vi
phạm hành chính. Biện pháp phổ biến và được sử dụng thường xuyên nhất, mang lại
tính răn đe đủ để ngăn chặn các hành vi mà các cá nhân, tổ chức thực hiện mà cơ
quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng là xử phạt vi phạm hành chính.
Theo Điều lệ xử phạt vi cảnh (vi cảnh được hiểu như là vi phạm hành chính
tại thời điểm hiện nay) thì các biện pháp xử phạt vi cảnh bao gồm: Cảnh cáo; Phạt

tiền từ 1 đồng đến 10 đồng; Phạt lao động công ích từ 1 ngày đến 3 ngày; Phạt giam
từ 1 ngày đến 3 ngày. Cũng như khái niệm về hành vi vi phạm vi cảnh, tại điều lệ này
vẫn chưa nêu lên được khái niệm về xử phạt vi phạm vi cảnh. Nhưng ta có thể hiểu
rằng: “Xử phạt vi cảnh là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng bốn biện
pháp xử lý vi cảnh đối với người có những hành vi xâm phạm đến trật tự an toàn xã
hội mà có tính chất đơn giản, rõ ràng và hậu quả không nghiêm trọng, chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa đến mức xử phạt bằng các biện pháp hành
chính khác”.
11


So với điều lệ xử phạt vi cảnh thì Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm
1989 quy định về hình thức xử phạt vi phạm hành chính có sự thay đổi rõ rệt. Nhà
nước đã chia hình thức xử phạt thành hai loại: hình thức phạt chính và hình thức phạt
bổ sung. Hình phạt chính gồm: phạt cảnh cáo và phạt tiền. Còn hình phạt bổ sung là
tước quyền sử dụng giấy phép và tịch thu tang vật và phương tiện vi phạm. Thậm chí,
bên cạnh các hình thức xử phạt trên Nhà nước ta nhằm tăng mức độ răn đe đối với
những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính thì còn bổ sung thêm những
biện pháp hành chính khác9:
Một là, buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành
chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép.
Hai là, buộc bồi thường thiệt hại trực tiếp do vi phạm hành chính gây ra đến
100.000 đồng theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1989.
Ba là, buộc tiêu huỷ các văn hoá phẩm đồi truỵ, vật phẩm có thể gây hại cho
sức khoẻ con người.
Bốn là, đình chỉ hoạt động gây ô nhiễm môi trường sống, lây lan dịch bệnh,
gây náo động làm mất sự yên tĩnh chung và yêu cầu thực hiện biện pháp khắc phục.
Khi Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1995 ra đời, về cơ bản thì các
biện pháp xử lý tương tự nhau, chỉ có sự khác biệt về mức tiền áp dụng với mỗi thời
kỳ vì sau 06 năm đổi mới, hội nhập nên mức tiền áp dụng phải có sự điều chỉnh hợp

lý nhằm phù hợp với nền kinh tế hiện tại của quốc gia. Nhưng ở Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 1995 thì các biện pháp hành chính khác nói trên lại được xem
là một hình thức phạt bổ sung. Lúc này, các biện pháp xử lý hành chính khác mà Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 đưa ra là:
Một là, giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Hai là, đưa vào trường giáo dưỡng.
Ba là, đưa vào cơ sở giáo dục.
Bốn là, đưa vào cơ sở chữa bệnh.

9

Pháp lệ nh Hộ i đồ ng Nhà nư ớ c số 28 –LCT/HDDNN8 nă m 1989

12


Năm là, quản chế hành chính.
Thậm chí, khi Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc xử lý vi phạm
hành chính năm 2002 sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008 còn quy định một biện pháp
hành chính khác là đối với đối tượng vi phạm hành chính là người nước ngoài thì Nhà
nước ta còn áp dụng biện pháp trục xuất. Trục xuất được áp dụng là hình thức phạt
chính hoặc hình thức phạt bổ sung theo từng trường hợp cụ thể.
Giống như Điều lệ xử phạt vi cảnh, ở Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính
năm 1989, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 hay năm 2000 sửa đổi, bổ
sung năm 2007, 2008, ta lại một lần nữa chỉ có thể định nghĩa một cách gián tiếp về
xử phạt hành chính: “Xử phạt vi phạm hành chính là việc cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền áp dụng các hình thức xử phạt, các biện pháp hành chính đối với người có hành
vi vi phạm hành chính mà chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Ngoài ý nghĩa lịch sử mang tính đột phá vào thời điểm ra đời thì Pháp lệnh xử
phạt vi phạm hành chính năm 1989, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995

hay năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008 còn khá sơ sài và đã nhanh chóng trở
nên lạc hậu so với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Sự ra đời của Pháp lênh xử lý vi
phạm hành chính hiện hành là bước pháp điển hóa quan trọng nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói chung và pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính nói riêng ở nước ta. Các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính đã không ngừng bổ sung và hoàn thiện các quy định về xử phạt vi phạm hành
chính ở nhiều phương diện. Sự ra đời của Luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành
đã đặt cơ sở cho một định hướng phát triển đồng bộ rõ ràng và thống nhất. Vì vậy,
khái niệm về xử phạt vi phạm hành chính đã được định nghĩa lần đầu tiên tại Luật xử
lý vi phạm hành chính hiện hành, cụ thể tại khoản 2 điều 2 Luật xử lý vi phạm hành
chính hiện hành như sau: “Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền
xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ
chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính”10.
Cùng với khái niệm về thương mại, ta có thể định nghĩa khái niệm xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại như sau: “Xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thương mại là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các hình
10

Luậ t xử lý vi phạ m hành chính nă m 2012 sử a đổ i, bổ sung nă m 2014, 2017

13


thức xử phạt hành chính đối với các đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực thương mại mà Nhà nước quản lý”. Đối tượng xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thương mại nhắc đến trong định nghĩa này là các cá nhân, tổ chức Việt
Nam hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong
hoạt động thương mại thuần túy, trong sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng trên lãnh thổ Việt Nam. Các cá nhân ở đây bao gồm cả

hộ kinh doanh phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật; hộ gia đình sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, buôn
chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật. Còn tổ chức ở đây thì bao gồm cả tổ chức kinh tế
là các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu
tư; Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp tác xã; các tổ
chức kinh tế khác được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật và các
đơn vị kinh doanh trực thuộc của các tổ chức kinh tế nói trên. Ta có thể thấy rằng,
Nhà nước quy định về đối tượng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương
mại rất chi tiết và chặt chẽ về chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thương mại nhằm tránh xuất hiện các lổ hỏng trong quy định pháp luật, để
một số thành phần lợi dụng lổ hỏng này để thoát khỏi sự quản lý Nhà nước về lĩnh
vực thương mại.
Về vai trò của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại:
Bản thân nền kinh tế thị trường có nhiều ưu điểm không thể phủ nhận. Mặc dù
vậy, kinh tế thị trường cũng chứa đựng nhiều khuyết tật mà nếu thiếu một hệ thống
quy phạm pháp luật đồng bộ và phù hợp thì hiện tượng lệch lạc gây tổn thất cho xã
hội là điều khó tránh khỏi. Ngay ở những quốc gia có nền kinh tế và luật pháp phát
triển lâu đời như ở phương Tây, nhiều khi cũng có những hiện tượng vi phạm, gây
thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, các quốc gia luôn luôn đối
mặt với những thách thức, mâu thuẫn xã hội cần phải giải quyết. Đó là yêu cầu bảo
đảm sự hài hòa giữa kinh tế và xã hội. Nói cách khác, làm thế nào vừa đảm bảo yêu
cầu phát triển kinh tế vừa phải đảm bảo công bằng xã hội và giải quyết tốt vấn đề
phát triển bền vững. Phát triển kinh tế thị trường tức là thừa nhận quyền hợp pháp
của nhà kinh doanh mang lại lợi nhuận tối đa, mục đích lợi nhuận là mục đích cao
nhất, là bản chất của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, phải bảo đảm lợi ích cho toàn
xã hội, bảo vệ người lao động, người tiêu dùng, không để xảy ra tình trạng làm ăn bất
hợp pháp, phá hoại mội trường, coi thường sức khẻo, tính mạng con người,… Pháp
14



luật và chỉ có pháp luật mới đóng vai trò bảo đảm dung hòa được hai mặc đói lập đó.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật về xử
phạt hành chính trong lĩnh vực thương mại có vai trò to lớn, tác động mạnh mẽ đến
kinh tế và đảm bảo vai trò đó, thể hiện ở những mặt sau:
Một là, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
tạo ra một môi trường, điều kiện thuận lợi cho các quan hệ trong lĩnh vực thương mại
tồn tại một cách tự do, bình đẳng.
Hai là, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
khắc phục những tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Ba là, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
ngăn chặn các hành vi xâm phạm đến lợi ích Nhà nước, lợi ích của cá nhân, tổ chức
khác và lợi ích của người tiêu dùng.
Bốn là, thông qua việc áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính có
tác dụng to lớn để giáo dục ý thức pháp luật cho chủ thể vi phạm và những người
khác về sự đúng đắn, công bằng, hợp đạo đức của biện pháp được áp dụng, giáo dục
cho mọi công dân tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật, tâm trạng tích cực đối với
nhà nước, đối với pháp luật, hình thành ở họ lối sống tuân theo pháp luật.
Năm là, xử phạt vi phạm hành chính có vai trò quan trọng trong việc phòng
ngừa các vi phạm của các chủ thể. Thông qua việc xử lý các hành vi vi phạm và tác
dụng giáo dục của biện pháp trách nhiệm được áp dụng pháp luật các chủ thể vi phạm
và những người khác kiềm chế không thực hiện hành vi trái pháp luật.
Sáu là, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
đảm bảo an ninh, trật tự kinh tế mà Nhà nước tạo ra và duy trì nó.
Bảy là, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
tạo ra rào chắn đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm để tránh cá nhân,
tổ chức này chuyển hóa thành tội phạm kinh tế trong pháp luật về hình sự.
Tám là, xử phạt vi phạm hành chính là công cụ bổ trợ cho công tác quản lý
nhà nước trong lĩnh vực thương mại. Xử phạt vi phạm hành chính có vai trò trong

việc trừng phạt các chủ thể vi phạm pháp luật qua đó, gây tác động đến nhận thức của
15


người vi phạm về ý thức về tính chính đáng của biện pháp trách nhiệm được áp dụng,
răn đe người vi phạm pháp luật và những người không vững vàng, dễ vi phạm pháp
luật khác.
Chín là, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
góp phần phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Thẩm quyền và hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thương mại
Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại:
Theo Nghị định 185/2013/NĐ-CP Nghị định Quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng và Nghị định 124/2015/NĐ-CP Nghị định sửa đổi, bổ sung
một số điều của nghị định số 185/2013/NĐ –CP ngày 15 tháng 11 năm 2013 của
chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản
xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại được phân định như
sau:
Thứ nhất, thẩm quyền của chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp bao gồm11:
Một là, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền
đến 5.000.000 đồng; Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị
không vượt quá mức xử phạt tiền được quy định tại điểm b khoản 1 Nghị định này
và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính theo
thẩm quyền quy định tại các điểm a, b, c và đ khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm
hành chính hiện hành.
Hai là, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt
tiền đến 50.000.000 đồng;Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có
thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm

hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền phạt được quy định tại điểm b khoản
2 Điều 101 Nghị định này;và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành

11

Tạ i Đ iề u 101 Nghị

đị nh 185/2013/NĐ –CP

16


vi vi phạm hành chính quy định tại Nghị định này theo thẩm quyền quy định tại các
điểm a, b, c, đ, e, h, i và k khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành.
Ba là, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền
đến mức tối đa theo quy định tại Nghị định này; Tước quyền sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; Tịch thu tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đối với
hành vi vi phạm hành chính quy định tại Nghị định này theo thẩm quyền quy định tại
khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành.
Thứ hai, thẩm quyền của quản lý thị trường bao gồm12:
Một là, Kiểm soát viên thị trường đang thi hành công vụ có quyền: Phạt cảnh
cáo; phạt tiền đến 500.000 đồng.
Hai là, Đội trưởng Đội Quản lý thị trường có quyền: Phạt cảnh cáo; phạt tiền
đến 25.000.000 đồng; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị
không vượt quá mức tiền phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 102 Nghị định
này và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, trừ biện pháp buộc thực hiện biện pháp
khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh và buộc đưa ra khỏi lãnh
thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện.
Ba là, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý thị trường thuộc Sở Công Thương,

Trưởng phòng Chống buôn lậu, Trưởng phòng Chống hàng giả, Trưởng phòng Kiểm
soát chất lượng hàng hóa thuộc Cục Quản lý thị trường có quyền: Phạt cảnh cáo; phạt
tiền đến 50.000.000 đồng; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá
trị không vượt quá mức tiền phạt được quy định tại điểm b khoản 3 Nghị định này;
tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt
động có thời hạn và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Nghị định
này.
Bốn là, Cục trưởng Cục Quản lý thị trường có quyền: Phạt cảnh cáo; phạt tiền
đến mức tối đa quy định tại Nghị định này; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc

12

Tạ i Đ iề u 102 Nghị

đị nh 185/2013/NĐ –CP

17


đình chỉ hoạt động có thời hạn và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại
Nghị định này.
Thứ ba, thẩm quyền của công an nhân dân bao gồm13:
Một là, Chiến sĩ Công an nhân dân đang thi hành công vụ có quyền: Phạt cảnh
cáo; Phạt tiền đến 500.000 đồng.
Hai là, Trạm trưởng, Đội trưởng của người được quy định tại Khoản 1 Điều
103a Nghị định này có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 1.500.000 đồng.
Ba là, Trưởng Công an cấp xã, Trưởng đồn Công an, Trạm trưởng Trạm Công
an cửa khẩu, khu chế xuất có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 2.500.000 đồng;
Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền

phạt được quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 103a Nghị định này và áp dụng biện
pháp khắc phục hậu quả quy định tại các Điểm a, c và đ Khoản 1 Điều 28 của Luật
Xử lý vi phạm hành chính hiện hành.
Bốn là, Trưởng Công an cấp huyện; Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Cảnh
sát giao thông đường bộ, đường sắt, Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Cảnh sát
đường thủy; Trưởng phòng Công an cấp tỉnh gồm Trưởng phòng Cảnh sát quản lý
hành chính về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát trật tự, Trưởng phòng Cảnh sát
điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật
tự quản lý kinh tế và chức vụ, Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy,
Trưởng phòng Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt, Trưởng phòng Cảnh sát
đường thủy, Trưởng phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường, Trưởng
phòng An ninh chính trị nội bộ, Trưởng phòng An ninh kinh tế, Trưởng phòng An
ninh văn hóa, tư tưởng, Trưởng phòng An ninh thông tin có quyền: Phạt cảnh cáo;
Phạt tiền đến 25.000.000 đồng đối với các hành vi vi phạm quy định tại Mục 2
Chương II và Điều 25 của Nghị định này; phạt tiền đến 20.000.000 đồng đối với các
hành vi vi phạm khác quy định tại Nghị định này; Tước quyền sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; Tịch thu tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền phạt được
quy định tại Điểm b Khoản 4 Điều 103a Nghị định này và áp dụng biện pháp khắc

13

Tại Điều 103a Nghị định Nghị định 124/2015/NĐ –CP

18


×