Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BTL MÔN TRIẾT HỌC MAC LENIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.16 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................1
Chương I: Triết học - Một môn khoa học...............................................2
I. Sự ra đời của triết học và định nghĩa triết học...................................2
1 . Sự ra đời của triết học......................................................................2
2. Định nghĩa triết học...........................................................................2
1. Đối tượng của Triết học.....................................................................3
2. Phương pháp nghiên cứu...................................................................3
3. Vấn đề cơ bản của Triết học:.............................................................3
4. Hệ thống các phạm trù và các quy luật.............................................4
III. Đặc điểm của khoa học triết học......................................................5
1. Triết học tồn tại như một hình thái ý thức xã hội..............................5
2. Triết học là hệ thống tri thức chung nhất..........................................5
3. Triết học mang tính giai cấp..............................................................5
I. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn................................................5
1. Ý thức xã hội triết học có thể vượt trước hoặc lạc hậu hơn tồn tại xã
hội..........................................................................................................5
2. Tư tưởng triết học tác động trở lại đời sống xã hội...........................6
II. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội........................................7
1. Chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận của triết
học.........................................................................................................7
2. Chức năng phản ánh hiện thực của đời sống xã hội và chức năng
động lực cho sự phát triển xã hội..........................................................9
KẾT LUẬN...............................................................................................10
Danh mục tài liệu tham khảo..................................................................11
0


1



LỜI MỞ ĐẦU
Không phải ngẫu nhiên có người coi triết học như là khoa học của mọi
khoa học. Cũng không phải ngẫu nhiên trong lịch sử, nhà triết học được gọi
là nhà thông thái, nhà hiền triết, người nắm được bí mật của sự vật… thậm
chí trong lịch sử nhân loại, có thời kỳ mà xã hội đặt nhà triết học vào vị trí
cao nhất, có nhà cải tạo đặt nhà triết học vào vị trí cao nhất của cơ cấu tổ
chức xã hội (Platon với mô hình "Nhà nước lý tưởng")…
Tất cả những điều ấy khiến triết học trở thành một môn thú vị, một cái
gì đó kì bí làm con người ở mọi thời đại đam mê, ham muốn hiểu sâu hơn
và đóng góp sức mình vào cái lâu đài kì bí và hoa lệ đó. Kể từ khi ra đời
trải qua nhiều giai đoạn phát triển đạt được nhiều thành tựu rực rỡ thì triết
học luôn phản ánh sự phát triển trí tuệ loài người và thúc đẩy tư duy loài
người, đôi khi còn trở thành vũ khí sắc bén nhất cho những gì tiến bộ của
sự phát triển đó. Ngày nay triết học đã thực sự trở thành khoa học, đã hoàn
chỉnh hơn vì vậy ý nghĩa là động lực cho sự phát triển của đời sống xã hội
càng rõ nét hơn, con người càng được hoàn thiện hơn về tư duy lý luận.
Ngày nay, mặc dù sự phát triển như vũ báo của khoa học kỹ thuật, sự phát
triển về mặt vật chất của đời sống xã hội… cũng không hề làm giảm đi tính
chất kì bí và vai trò đối với thực tiễn của triết học, mà vấn đề là phải có một
tư duy lý luận, đúng đắn để không bị "lạc lối" trong sự phát triển đó, hơn
nữa, sự phát triển về mặt xã hội của khoa học kỹ thuật… cũng tác động
ngược trở lại khoa học triết học: chứng minh hay bác bỏ những quan điểm
triết học, nhận chân được những tư tưởng đúng đắn
Với vai trò to lớn của triết học với sự phát triển tư tưởng xã hội và với
thực tiễn đời sống xã hội như vậy, tiểu luận này chỉ mong tổng hợp lại một
số vai trò đã được thừa nhận của triết học trong đời sống xã hội.

2



Chương I: Triết học - Một môn khoa học
I. Sự ra đời của triết học và định nghĩa triết học.
1 . Sự ra đời của triết học
Ttiết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một
thời gian (khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ VII trước công nguyên).
tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, ấn Độ,
Hi Lạp.
Theo người Trung Quốc, thuật ngữ triết học có nguồn gốc ngôn ngữ
là chữ triết và khoa học này hiểu theo nghĩa là sự truy tìm bản chất của đối
tượng, triết học chính là trí, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
Theo người ấn Độ, triết học được coi là Danshana, có nghĩa là chiêm
ngưỡng nhưng mang hàm ý là trí thức dựa trên lý trí, là con đường suy
ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
Ở phương Tây thuật ngữ triết học suất hiện ở HiLạp, theo tiếng HiLạp
triết học là Philosophia, nghĩa là yêu mến sự thông thái, nó là khoa học vừa
mang tính định hướng vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của
con người.
Như vây, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu triết
học đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của
con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.
2. Định nghĩa triết học.
Đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao
hàm những nội dung giống nhau:
Triết học là hệ thống trí thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới, về vị trí vai trò của con người trong thế giới ấy.
II. Triết học với tư cách là một khoa học

3



Là một môn khoa học độc lâp, Triết học cần phải có: Đối tượng riêng
của nó, phải có phương pháp nghiên cứu (gần phương pháp luận và phương
pháp riêng); có các vấn đề cơ bản; có các khái niệm và các phạm trù; các
quy luật.
1. Đối tượng của Triết học.
Theo Ph.ăngghen: "Triết học là khoa học về các quy luật chung nhất
sử sự vận động và phát triển của thế giới; từ tự nhiên, xã hội và cả tư duy",
(Ph. ăng ghen, "chóng Đuy-rinh")
Như vậy có thể coi đối tượng của Triết học là tự nhiên, xã hội và tư
duy của con người: nhưng Triết học không phải là khoa học tự nhiên, khoa
học về xã hội, khoa học về tư duy (logic học) mà là khoa học chung nhất,
nó coi thế giới là "một chỉnh thể thống nhất " các mặt trên.
2. Phương pháp nghiên cứu.
- Có một điều đặc biệt của khoa Triết học, đó là, với khoa học này thì
sự khác nhau về phương pháp luật là cơ sở để phân biệt các trường phái
Triết học (siêu hình hay biện chứng), thể hiện tính khoa học hay phản động
của một hệ thống Triết học. Nguyên nhân của hiện tượng này xuất phát từ
đối tượng của Triết học: Coi thế giới như là một chỉnh thể, nghiên cứu bao
trùm thế giới: tự nhiên, xã hội, tư duy.
- Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác
với mọi khoa học cụ thể: Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm
cách đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó chỉ có thể
thực hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử
của bản thân Triết học
3. Vấn đề cơ bản của Triết học:
Triết học cũng như những khoa học khác phải giải quyết rất nhiều vấn
đề có liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng là nền tảng và
là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ
4



bản của Triết học. Theo Ph. ăngghen "vấn đề cơ bản lớn của mọi Triết học,
đặc biệt là Triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại.
Giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học không chỉ xác định được nền
tảng và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của Triết học mà nó
còn là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các Triết gia và
học thuyết của họ.
4. Hệ thống các phạm trù và các quy luật.
Các phạm trù của phép biện chứng duy vật như: "vật chất", "ý thức",
"vận động", "đứng im", "mâu thuẫn" là những khái niệm trung nhất phản
ánh những mặt những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến
nhất không phải chỉ của một lĩnh vực nhất định nào đấy của hiện thực, mà
của toàn bộ thế giới hiện thực, bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Mọi
sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, đều có quá trình vận động
biến đổi, đều có mâu thuẫn... nghĩa là đều có những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ được phản ánh trong các phạm trù của Triết học.
- Khi Triết học duy vật biện chứng ra đời; nó trở thành vũ khí lý luận
sắc bén cho giai cấp tiến bộ, nó kết tinh mọi tinh hoa của tư tưởng nhân
loại, vì vậy nó là "khoa học nhất"; là "triệt để và hoàn mỹ nhất", là "sâu sắc
và toàn diện nhất" (V.I. Lênin; "Ba nguồn gốc của chủ nghĩa Mác"). Vì vậy
có thể coi các quy luật của Triết học duy vật biện chứng là quy luật cơ bản
của khoa học Triết học. Triết học duy vật biện chứng gồm ba quy luật cơ
bản:
+ Quy luật mâu thuẫn: nói lên nguồn gốc và động lực vận động và
phát triển của thế giới, cả về các mặt: tự nhiên, xã hội, và tư duy.
+ Quy luật về mối quan hệ giữa mặt lượng với mặt chất
Nói lên cách thức của sự phát triển.
+ Quy luật phủ định của phủ định: nói lên con đường tất yếu của sự
phát triển.

5


III. Đặc điểm của khoa học triết học
1. Triết học tồn tại như một hình thái ý thức xã hội
Triết học là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt: nó không phải là một
bộ phận trong hình thái ý thức xã hội khoa học vì bản chất nó cũng là một
hình thái ý thức xã hội; nó không giống như tôn giáo, là hình thái ý thức xã
hội ra đời ngay từ thời nguyên thủy. Triết học chỉ ra đời khi con người đã
có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được cái chung
trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ và khi xã hội đã phát
triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc.
2. Triết học là hệ thống tri thức chung nhất
Điều này thể hiện qua định nghĩa về triết học và đối tượng của nó.
3. Triết học mang tính giai cấp
Không có một thứ triết học phi giai cấp, một thứ triết học chung
chung. Mỗi hệ thống triết học đều có Chính Đảng của nó và trở thành vũ
khí lý luận cho một giai cấp nhất định thường là có vai trò nổi bật trong lịch
sử ở mỗi thời đại. Cứ như vậy "Triết học vẫn có tính đảng của nó trong suốt
thời hơn 2000 năm nay" (V.I. Lênin).

Chương II: vai trò của triết học trong đời sống xã hội
I. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
1. Ý thức xã hội triết học có thể vượt trước hoặc lạc hậu hơn tồn tại xã
hội.
a. Tư tưởng triết học có thể lạc hậu hơn đời sống, kìm hãm sự phát
triển của xã hội:
Ý thức xã hội nói chung và đặc biệt là triết học luôn gắn với lợi ích
của những tập đoàn người những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy,


6


những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ
lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Những tư tưởng lạc hậu, thế giới quan phản động không mất đi một
cách dễ dàng. Vì vậy trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường
xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và
hành động phá hoại của những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì
xoa bỏ những truyền thống tư tưởng tốt đẹp.
b. Triết học có thể vượt trước trình độ hiện đại của tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là
những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn
tại xã hội, vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, chỉ đạo hoạt động
thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những
nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội
đặt ra.
2. Tư tưởng triết học tác động trở lại đời sống xã hội
PH.Ăngghen viết: "Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triêt học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật…. đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng
tất cả chúng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế ".
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng nói chung và tư tưởng triết học nói
riêng đến sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sự cụ
thể, vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh,
vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản
ánh đúng đắng của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển của xã hội; vào
mức độ mở rộng của tư tưởng quần chúng, cũng do đó, ở đây cần phân biệt
vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với
sự phát triển của xã hội.
C.Mác khẳng định: "Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực

lượng vật chất" và một hệ tư tưởng tác động được tới quần chúng hay khi
7


có những điều kiện để biến thành lực lượng vật chất" (C.Mác) thì nó mới
trở thành động lực cho sự phát triển của xã hội.
II. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội
Vai trò của triết học trong đời sống xã hội đựơc thể hiện qua chức
năng của triết học. Triết học có nhiều chức năng như: Chức năng nhận
thức, chức năn đánh giá, chức năng giáo dục…. Nhưng quan trọng nhất kà
chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận.
1. Chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận của triết
học
- Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là
những vấn đền thuộc về thế giới quan. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong cuộc sống của con người và xã hội loài người. Tồn tại
trong thế giới dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới
và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này dần dần hình thành nên
thế giới quan lại trở thành nhân tố định hướng, thế giới quan nên thế giới
quan. Khi đã hình thành, thế giới quan trở thành nhân tố định hướng cho
quá trình con người tiếp tục nhận thức thế giới.
Như vậy, thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan
tích cực và trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự
trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất
định.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm
cho thế giới quan phát triển như một quán trình tự giác dựa trên sự tổng kế
kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan
điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương

pháp.

8


Tuy không phải là một ngành khoa học độc lập nhưng phương pháp
luận là một bộ phận không thể thiếu được trong bất kỳ một ngành khoa học
nào. Xét phạm vi tác dụng của nó, phương pháp luân ngành; phương pháp
luận chứng và phương pháp luận chung nhất.
+ Phương pháp luận ngành là phương pháp luận của một ngành khoa
học cụ thể nào đó.
+ Phương pháp luận chung là phương pháp luận được sử dụng cho 1
số ngành khoa học.
+ Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận được dùng làm
điểm xuất phát cho việc xác định các phương pháp luận chung, các phương
pháp hoạt động khác của con người.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới
và vai trò của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy
luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy triết học thực hiện chức năng
phương pháp luận chung nhất khẳng định điều này, Ph.Ăngghen viết - khi
phê phán những nhà khoa học tự nhiên siêu hình không thấy được mối
quan hệ biện chứng các ngành khoa học, không thấy được sự khác nhau
giữa tư duy lý luận với tư duy thực nghiệm.
Dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng vẫn bị
triết học chi phối, vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thức triết
học tồi tệ hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy
lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tự của nó.
(PH.Ăngghen; "Biện chứng của tự nhiên")
Vì vậy, mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên
tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp.

Những chức năng nói trên được thực hiện ở các học thuyết triết học
khoa học tạo nên khả năng cải tạo thế giới của học thuyết triết học đó, trở
thành một công cụ hữu hiệu trong hoạt động chế ngự giới tự nhiên và sự
nghiệp giải phóng con người của những lực lượng sản xuất.
9


2. Chức năng phản ánh hiện thực của đời sống xã hội và chức năng
động lực cho sự phát triển xã hội.
- Mỗi hệ thống triết học đều ra đời trong những hoàn cảnh xã hội nhất
định, phản ánh tư tưởng, địa vị, mong muốn của giai cấp mà nó phục vụ;
mối hệ tư tưởng Triết học đó đều là "tinh hoa của thời đại" đó.
C.Mác viết rằng: "Các Triết ra không mọc lên như nấm từ trái đất, họ
là sản phẩm của thời đại, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất quý
giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng Triết học".
Hay như G.V. Hegel, ông coi sự ra đời của các học thuyết Triết học là
"sự tất yếu", coi "triết học là tinh hoa của thời đại mình,và do đó nó thực
hiện chức năng được xã hội phó thác trong phạm vi của thời đại và chỉ khi
đó tính tích cực của tư duy triết học mới được phát huy.
- Cùng với tư cách là một hình thái ý thức xã hội nhưng là hình thái ý
thức xã hội đặc biệt, chung nhất, Triết học, nếu phản ánh đúng xu thế của
thời đại thì nó sẽ là cơ sở lý luận cho giai cấp tiến bộ thực hiện sự nghiệp
của mình, chỉ đạo thực tiễn hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của đới sống
xã hội, từ đó nó trở thành động lực về mặt tinh thần cho sự phát triển xã
hội.

10


KẾT LUẬN

Qua sự khảo sát sơ lược về vai trò của triết học trong đời sống xã hội,
rút ra một số nhận xét sau:
- Khi bàn về vai trò của Triết học trong đời sống xã hội, tác động của
nó đến hiện thực xã hội thì trước tiên phải quán triệt rằng: Triết học là môn
khoa học chân chính, chứ không phải là tập hợp những tư tưởng giải thích
thế giới của những Triết gia, những nhà tư tưởng, Những tư tưởng của họ
không phải là xuất phát từ hảo tâm hay thành ý của họ.
Tuy nhiên, Triết học cũng là một hình thái ý thức xã hội, Về tính chất
này của nó, nó phủ định tính chất là một khoa học chuyên nghành ( là một
bộ phận của hình thái ý thức xã hội khoa học) vì vậy nó là một khoa học
đặc biệt mang tính chung nhất trừu tượng nhất về thế giới.
- Sự tác động của tư tượng triết học, vai trò của nó đối với đời
sốnglà:"không phải là giải thích thế giới mà vấn đề là ở chỗ cải tạo thế
giới" ( C.Mác ), triết học phải là khoa học "giải thích thế giới thế tục chứ
không phải là thoát ly thế giới thế tục "(C Mác; "Lời nói đầu trang phê
phán Nhà nước pháp quyền của Hêghel ").
Triết học tác động đến đời sống hiện thực trên vị trí, tư cách đặc biệt.
Nó là hạt nhân cơ bản của thế giới quan.

11


Danh mục tài liệu tham khảo
1. PH.Ăngghen: "Biện chứng của tự nhiên"
NXB Chính trị quốc gia Hà Nội - 2005
2. V.I. Lênin: "Lênin toàn tập" - Tập 23
NXB Chính trị quốc gia Hà Nội - 2003
3. C. Mác : "Lời nói đầu trong phên phán triết học pháp quyền
của Hêghen"
"C.Mác - PH.Ăngghen tuyển tập"

4. Giáo trình triết học Mác - Lênin.
NXB Chính trị quốc gia Hà Nội - 2003
6. PH.Ăngghen "Chống Đuy-rinh".

'

12



×