Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC NGÀNH GIÁO DỤC TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.33 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THÚY HẰNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC
NGÀNH GIÁO DỤC TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THÚY HẰNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC
NGÀNH GIÁO DỤC TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật Hiến pháp và luật Hành chính
Mã Số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN MINH MẪN

HÀ NỘI - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của cá nhân em.
Các số liệu, thông tin nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Em xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Tác giả luận văn

Trần Thúy Hằng


LỜI CẢM ƠN
Bản luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn tận tình của PGS.
TS Nguyễn Minh Mẫn, sự giúp đỡ quý báu của các thầy cô và các cán bộ,
viên chức thuộc các phòng, ban chức năng tại Học viện Khoa học xã hội.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả cũng nhận được sự cổ
vũ, động viên, tạo điều kiện về mọi mặt của cơ quan, đồng nghiệp, gia đình
và bạn bè.
Tác giả xin chân thành cảm ơn thầy hướng dẫn khoa học, các thầy
cô tại Học viện Khoa học xã hội, Ban lãnh đạo cơ quan, gia đình và bạn bè
về sự giúp đỡ quý báu đó.
Trân trọng!
Tác giả

Trần Thúy Hằng


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GD & ĐT


Giáo dục và đào tạo

HĐND

Hội đồng nhân dân

THPT

Trung học phổ thông

THPL

Thực hiện pháp luật

TDVCGD

Tuyển dụng viên chức ngành giáo dục

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC NGÀNH
GIÁO DỤC....................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về tuyển
dụng viên chức ngành giáo dục ............................................................ 7
1.2. Chủ thể, nội dung, hình thức thực hiện pháp luật về tuyển dụng
viên chức ngành giáo dục ................................................................... 14
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về tuyển dụng
viên chức ngành giáo dục ................................................................... 24
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHAP LUẬT VỀ
TUYỂN DỤNG VIEN CHỨC NGANH GIAO DỤC TẠI THANH
PHỐ HA NỘI.......................................................................................... 29
2.1. Khái quát về hệ thống viên chức ngành giáo dục tại thành phố
Hà Nội ................................................................................................ 29
2.2. Cơ sở pháp lý của tuyển dụng viên chức ngành giáo dục tại
thành phố Hà Nội ............................................................................... 34
2.3. Kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực hiện pháp luật về
tuyển dụng viên chức giáo dục tại thành phố Hà Nội .......................... 37
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC
NGÀNH GIÁO DỤC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......... 52
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng
viên chức ngành giáo dục từ thực tiễn thành phố Hà Nội.................... 52
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng
viên chức ngành giáo dục từ thực tiễn thành phố Hà Nội.................... 57
KẾT LUẬN .................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Giáo dục và đào tạo là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng, Nhà nước và dân tộc Việt Nam. Tầm quan trọng của ngành
giáo dục và đào tạo đã được Đảng nhiều lần nêu ra trong các văn kiện. Nghị
quyết Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục nhấn mạnh: “ Đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất
là nguồn nhân lực chất lượng cao” là một trong ba đột phá chiến lược và
khẳng định trọng tâm “ Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của
đờisống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối
sống, trí tuệ, năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”.
Như vậy, có thể thấy con người là nhân tố quyết định cho sự thành công của
mọi hoạt động, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục. Với sứ mệnh trồng người,
ngành giáo dục đang từng ngày khẳng định tầm quan trọng đối với sự tồn tại,
phát triển của đất nước, trong đó không thể không nói đến vai trò của các viên
chức giáo dục. Với truyền thống “ Tôn sư trọng đạo” của dân tộc Việt Nam,
người giáo viên luôn được coi là hình tượng mẫu mực, là người dạy học trò tri
thức và nhân cách. Đó là trách nhiệm cao quý mà mỗi người làm nghề giáo
dục phải gánh vác, vì mỗi hành động của họ dù nhỏ đến đâu đều có ảnh
hưởng nhất định đến sự nghiệp trồng người. Việc lựa chọn đội ngũ viên chức
có năng lực tốt, phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng được các yêu cầu của vị trí
việc làm và nhu cầu của xã hội là một tiền đề quan trọng để phát triển nền
giáo dục đào tạo, trở thành một yếu tố rất quan trọng, thiết yếu trong việc phát
triển của một đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của viên chức ngành giáo dục, những
năm qua, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm tạo điều kiện cho việc xây dựng,
hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước, trong
đó có thể chế về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục. Đặc biệt, công tác
thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục được đẩy mạnh

1



nhằm đưa các quy định pháp luật vào đời sống, hiện thực hóa chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Tuyển
dụng viên chức là một trong các nội dung rất quan trọng trong công tác quản
lý viên chức. Thông qua công tác tuyển dụng viên chức, để nhằm bổ sung cho
đơn vị sự nghiệp công lập có đủ số lượng, cơ cấu người làm việc theo vị trí
việc làm, đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn từng chức danh nghề nghiệp viên
chức tương ứng, góp phần xây dựng đội ngũ viên chức có đạo đức nghề
nghiệp, có trình độ và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của khu vực cung ứng dịch vụ công.
Hà Nội là thủ đô của đất nước, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa
của cả nước. Trong những năm qua, ngành giáo dục tại thành phố Hà Nội có
những bước chuyển mình mạnh mẽ với một đội ngũ viên chức đông, có năng
lực chuyên môn và phẩm chất nghề nghiệp, được tuyển dụng thông qua một
quy trình chặt chẽ, dựa trên các căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, quá trình thực
hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục tại Hà Nội vẫn còn
nhiều vướng mắc bất cập do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có những
nguyên nhân từ chính sự bất cập của pháp luật, có những nguyên nhân nảy
sinh trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật liên quan đến nhận thức, bộ
máy,công tác tổ chức thực hiện, cơ sở vật chất, trình độ dân trí…Trên phương
diện lý luận, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục
cũng còn nhiều điểm lúng túng, chưa rõ.
Trong bối cảnh đó, rất cần triển khai các công trình nghiên cứu chuyên
sâu theo hướng phân tích làm sáng tỏ các khía cạnh lý luận và tập trung tổng
kết, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành
giáo dục tại thành phố Hà Nội, để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm
thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục tại thành phố Hà
Nội nói riêng, trên địa bàn cả nước nói chung.

2



Hướng nghiên cứu nói trên cũng mang ý nghĩa khắc phục khoảng trống
trong hoạt động nghiên cứu về chủ đề thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên
chức ngành giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
Đó chính là những lý do thôi thúc học viện lựa chọn chủ đề “Thực
hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục từ thực tiễn tại thành
phố Hà Nội” để triển khai nghiên cứu trong quy mô luận văn thạc sĩ luật học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến chủ đề “Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức
ngành giáo dục từ thực tiễn tại thành phố Hà Nội”,các nghiên cứu ở Việt
Nam trong thời gian gần đây được triển khai trên hai phương diện chính:
Thứ nhất, các nghiên cứu về thực hiện pháp luật trên các lĩnh vực cụ
thể. Theo hướng này, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau: Thực
hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam (sách tham khảo), Nguyễn Minh Đoan
(2010), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; “ Thực hiện pháp luật về giáo dục của
các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Nam Định” (Vũ Thị Thu Huyền, (2010),
Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh); "Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo ở Việt
Nam”( Vũ Thị Hoàng Hà, (2010), Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Chính
trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh);“ Thực hiện pháp luật về hòa giải
trong giải quyết ly hôn ở thành phố Hà Nội ” (Vũ Viết Văn, (2012), Luận văn
thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh); …
Thứ hai, các nghiên cứu về viên chức, tuyển dụng viên chức. Theo
hướng này, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu điển hình sau: “Quản
lí và phát triển nguồn nhân lực xã hội”(, GS.TS Bùi Văn Nhơn (2006), Nxb
Tư pháp, Hà Nội); “Sự điều chỉnh của pháp luật về viên chức” (Phạm Hồng
Thái,Tạp chí Tổ chức Nhà nước Số 1/2009); “Một số vấn đề về tuyển dụng,
sử dụng và quản lý viên chức theo Nghị định số 29/2012/NĐ-CP của Chính


3


phủ”(Lê Minh Hương, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 5/ 2012); “Tuyển
dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hiện
nay”(Nguyễn Trọng Nhật Minh,(2011), Luận văn Thạc sĩ); “Pháp luật về
tuyển dụng viên chức ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp”
(Nguyễn Minh Nguyệt (2016), Luận văn Thạc sĩ);….
Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên là một nguồn tư liệu vật
chất rất quan trọng để tác giả học hỏi, tham khảo nhằm triển khai nghiên
cứu đề tài đã được lựa chọn. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu khoa
học nêu trên mới chủ yếu đề cập viên chức và pháp luật về tuyển dụng viên
chức nói chung. Cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu về thực hiện pháp luật tuyển dụng viên chức ngành giáo dục.
Càng chưa có công trình nào nghiên cứu tập trung về thực hiện pháp luật
tuyển dụng viên chức ngành giáo dục từ thực tiễn thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích tổng quát xây dựng luận cứ khoa học cho việc
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng
viên chức ngành giáo dục tại thành phố Hà Nội nói riêng, trên địa bàn cả nước
nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những khía cạnh lý luận về thực hiện pháp luật
tuyển dụng viên chức ngành giáo dục ở Việt Nam.
- Nghiên cứu tình hình tuyển dụng viên chức ngành giáo dục tại thành
phố Hà Nội, đi sâu đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên
chức ngành giáo dục, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và xác định nguyên nhân
của các ưu điểm, hạn chế trong thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức

ngành giáo dục tại thành phố Hà Nội.

4


- Đề xuất quan điểm, giải pháp có tính khả thi nhằm tiếp tục nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục tại
thành phố Hà Nội nói riêng, trên địa bàn cả nước nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quan điểm khoa học về viên chức, pháp luật tuyển dụng viên
chức và thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục.
- Các quy định pháp luật hiện hành về tuyển dụng viên chức ngành giáo
dục.
- Thực tiễn thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục
tại thành phố Hà Nội.
- Kinh nghiệm của Hà Nội và một số địa phương trong thực hiện pháp
luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: toàn bộ hoạt động thực hiện pháp luật về tuyển
dụng viên chức ngành giáo dục.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2010 đến nay (tập trung trong giai đoạn 5
năm trở lại đây).
- Phạm vi không gian: địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật, duy vật lịch
sử, sử dụng chủ yếu phương pháp logic lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh,
đánh giá chính sách, phương pháp thu thập, tập hợp, phân tích, nghiên cứu, xử
lý tài liệu;....
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về thực hiện pháp luật
về tuyển dụng viên chức ở nước ta hiện nay.

5


Luận văn góp phần đánh giá pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật
về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục kể từ khi Luật Viên chức năm
2010 có hiệu lực thi hành.
Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần nâng cao nhận thức, cung cấp
thêm cơ sở lý luận và là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với những
người làm công tác nghiên cứu, công tác giảng dạy, cũng như làm công tác
tổ chức, tuyển dụng viên chức ngành giáo dục.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hiện pháp luật
tuyển dụng viên chức ngành giáo dục
Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức
ngành giáo dục tại thành phố Hà Nội
Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục từ thực tiễn thành phố Hà Nội.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC NGÀNH GIÁO DỤC


1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về tuyển
dụng viên chức ngành giáo dục
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành
giáo dục
1.1.1.1. Viên chức và viên chức ngành giáo dục
Từ trước đến nay đã có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm viên
chức. Viên chức vốn là một từ Hán - Việt, theo đó, viên là người giữ một
chức vụ, chức là các việc về phần mình, viên chức là người giữ một chức
nghiệp nhất định, thường là trong bộ máy chính quyền. Tuy nhiên, trải qua
các thời kỳ khác nhau, nội hàm của khái niệm viên chức cũng có sự thay đổi
lớn. Suốt một thời gian dài, khái niệm “cán bộ, công nhân, viên chức nhà
nước” được dùng để chỉ những người phục vụ trong các tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị xã hội, nhà nước và một số tổ chức khác. Chỉ tới năm 2003, sau
khi Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức
1998 được ban hành và đặc biệt được đánh dấu bởi Nghị định 116,
117/2003/NĐ-CP thì khái niệm viên chức mới có sự phân biệt tương đối rõ
với các khái niệm cán bộ, công chức. Tháng 11/2008, Quốc hội ban hành Luật
Cán bộ, công chức đã thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc chuyên
biệt hóa đối tượng phục vụ trong các cơ quan quản lý nhà nước và các đối
tượng làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập, tách hẳn nhóm đối tượng
viên chức ra khỏi phạm vi cán bộ, công chức, phân biệt giữa hoạt động công
vụ của công chức với hoạt động có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ của viên
chức, nhằm hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển các đơn vị sự nghiệp,
nâng cao chất lượng của đội ngũ viên chức. Tuy nhiên, phải đến khi Luật Viên
chức được ban hành (Luật số 58/2010/QH12) thì khái niệm Viên chức mới
được nêu một cách cụ thể: “Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng

7



theo vị trí làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm
việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định
của pháp luật” (Điều 2, Chương I). Các tiêu chí để xác định viên chức là:
được tuyển dụng theo vị trí việc làm; làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công
lập; làm việc theo chế độ hợp đồng làm việc và hưởng lương từ quỹ lương
của đơn vị sự nghiệp công lập. Nghị định số 55/2012/NĐ-CP của Chính phủ
ban hành ngày 28/5/2012 quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự
nghiệp công làm rõ hơn hình dung về đơn vị sự nghiệp công lập, đó là các tổ
chức được thành lập và hoạt động để phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước
và/hoặc thực hiện việc cung cấp các dịch vụ công. Như vậy, viên chức là
những người làm việc trong các đơn vị có nhiệm vụ phục vụ cho công tác
quản lý nhà nước (bản thân đơn vị này không làm nhiệm vụ quản lý nhà
nước) và trong các đơn vị sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, khoa học, công
nghệ, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, lao động xã hội và các tổ chức sự
nghiệp khác... nhằm cung cấp các dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho nhân dân và
xã hội. Những hoạt động này không nhân danh quyền lực nhà nước, không
phải là các hoạt động quản lý nhà nước, chỉ thuần tuý mang tính nghề nghiệp
gắn với nghiệp vụ, chuyên môn.
Từ cách hiểu đó, viên chức ngành giáo dục là một đội ngũ làm việc
tại các cơ sở giáo dục, các trường công lập không giữ chức vụ lãnh đạo được
xác định là "viên chức" nhà nước, làm việc theo chế độ viên chức và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước. Thẩm quyền quy định về viên chức, giáo viên
trong các đơn vị sự nghiệp công lập là viên chức do Quốc hội quyết định trên
cơ sở ban hành, sửa đổi, bổ sung Luật Viên chức.
1.1.1.2. Thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên
chức ngành giáo dục
Tuyển dụng viên chức nói chung, TDVCGD nói riêng là một lĩnh vực
hoạt động trong chu trình tổ chức và hoạt động của các chủ thể nhằm tạo ra đội
ngũ viên chức đủ năng lực và phẩm chất đảm nhận nhiệm vụ được giao. Việc


8


tuyển dụng viên chức phải tuân thủ các quy định pháp luật về điều kiện, tiêu
chuẩn của viên chức và các quy định về trình tự, thủ tục của hoạt động tuyển
dụng viên chức. Nói cách khác, tuyển dụng viên chức phải dựa trên căn cứ
pháp luật về tuyển dụng viên chức với cách hiểu là tổng thể các quy phạm pháp
luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực tuyển dụng viên chức nhằm đảm bảo quyền và lợi ích
của người tham gia ứng tuyển, quyền và lợi ích của cơ quan tuyển dụng, của
nhà nước và của xã hội.
Pháp luật là một công cụ quản lý xã hội sắc bén, song pháp luật chỉ có
thể phát huy được vai trò và những giá trị của mình trong việc duy trì trật tự và
tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện trong
cuộc sống. Vì vậy, THPL là hoạt động không thể thiếu, là biện pháp để pháp
luật trở thành công cụ điều chỉnh có thực đối với các quan hệ xã hội trong các
lĩnh vực.
Nhà nước xây dựng những quy phạm pháp luật nhằm mục đích điều
chỉnh các quan hệ xã hội đáp ứng lợi ích của nhân dân và tiên bộ xã hội. Mục
đích đó chỉ có thể đạt được khi pháp luật được các chủ thể nghiêm chỉnh thực
hiện trong đời sống xã hội. Pháp luật với tầm quan trọng của nó không chỉ
dừng lại bằng các quy phạm pháp luật, vì đó chỉ là pháp luật ở trạng thái "tĩnh",
vấn đề quan trọng là "pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thực hiện
thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân; trở
thành phương thức quản lý xã hội, cho tổ chức đời sống xã hội" [13, tr.25].
Hiện nay, trên phương diện nhận thức và trong thực tiễn, tồn tại nhiều
quan niệm về THPL. Có quan niệm xem THPL là một quá trình hoạt động, có
quan niệm khác lại chỉ nêu thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình.Tuy
nhiên, điểm chung giữa các quan niệm đều nhìn nhận THPL là hoạt động có
mục đích nhằm thực hiện những yêu cầu của pháp luật, thực hiện pháp luật là

hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật làm cho những quy định

9


của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống. Xét trong quy trình điều
chỉnh pháp luật, THPL là sự nối tiếp xây dựng pháp luật, gồm toàn bộ các hoạt
động nhằm đưa các quy phạm pháp luật vào đời sống xã hội và sinh hoạt của
công dân. Về bản chất, THPL là quá trình hiện thực hóa pháp luật, làm bộc lộ
và phát huy những giá trị tiềm năng của pháp luật trong thực tế. Trong THPL,
những hoạt động có tính chủ động như sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật
đòi hỏi phải có một cơ chế tổ chức và nguồn lực lớn về con người lẫn vật chất
mới có thể bảo đảm thực hiện tốt. Hoạt động THPL không chỉ là những hành vi
đơn lẻ, độc lập, cắt khúc mà nó luôn luôn là một quá trình.
Tóm lại, THPL cần được hiểu là quá trình hoạt động có mục đích làm
cho các quy định của pháp luật trở thành những hoạt động thực tế, hợp pháp
của các chủ thể pháp luật và được thực hiện trong thực tế cuộc sống.
Từ cách hiểu các phạm trù pháp lý nói trên, thực hiện pháp luật về
tuyển dụng viên chức ngành giáo dục là quá trình hoạt động có mục đích làm
cho những quy định của pháp luật về tuyển dụng viên chức đi vào cuộc sống,
trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật về tuyển
dụng viên chức, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực
hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục qua đó tuyển chọn
được đội ngũ viên chức ngành giáo dục có phẩm chất, trình độ chuyên môn,
chất lượng cao, phù hợp, góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng của nền
giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức
ngành giáo dục
1.1.2.1.Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục
là một bộ phận của hoạt động thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức

Viên chức là những người làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập
(không phải người đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo đơn vị) và được tuyển dụng

10


trong nhiều lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Việc tuyển dụng phải
dựa trên căn cứ pháp luật về tuyển dụng viên chức. Ngoài ra, trong mỗi lĩnh
vực cụ thể, do yêu cầu của từng ngành, lĩnh vực, pháp luật về tuyển dụng
viên chức còn có những quy định riêng, mang tính đặc thù cho ngành, lĩnh
vực. Do vậy, THPL về TDVCGD vừa phải thực hiện các quy định pháp luật
chung về tuyển dụng viên chức, vừa thực hiện các quy định pháp luật riêng
về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục.
1.1.2.2. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục
được tiến hành bởi các chủ thể đa dạng
THPL về TDVCGD vừa phúc đáp yêu cầu xây dựng đội ngũ viên
chức vừa hồng vừa chuyên ngành giáo dục, vừa nhằm thỏa mãn nhu cầu việc
làm của những công dân đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn tuyển dụng. Do
vậy chủ thể THPL về TDVCGD rất đa dạng, bao gồm không chi các cơ quan
quản lý nhà nước về tuyển dụng, các cơ quan, cá nhân trực tiếp tiến hành
hoạt động tuyển dụng viên chức mà còn cả các cá nhận tham gia ứng tuyển
vị trí viên chức ngành giáo dục và các tổ chức xã hội, đoàn thể nhân dân
tham gia hoạt động giám sát, hỗ trợ quá trình tuyển dụng viên chức ngành
giáo dục.
1.1.2.3. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục
có tính quyền lực và tính tự nguyện
THPL về TDVCGD trước hết là một loại hoạt động của các cơ quan
công quyền ( giao cho tổ chức hoặc cá nhân trực tiếp thực hiện) nhằm tạo ra
đội ngũ viên chức ngành giáo dục phù hợp với nhu cầu phát triển ngành giáo
dục. Nhìn từ phương diện này, THPL về TDVCGD là một loại hoạt động

mang tính quyền lực. Tuy nhiên, THPL về TDVCGD còn là một hoạt động
của các cá nhân tham gia ứng tuyển trên cơ sở tôn trọng và thực hiện đúng
các quy định pháp luật hiện hành về tuyển dụng viên chức. Nếu nhìn nhận từ

11


góc độ này, THPL về TDVCGD mang tính tự nguyện, tùy thuộc vào ý chí
chủ quan, mong muốn của mỗi cá nhân được đứng trong đội ngũ viên chức
ngành giáo dục.
1.1.2.4. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục
chỉ giới hạn trong phạm vi và đối tượng nhất định
Không giống như một số lĩnh vực pháp luật và thực hiện pháp luật
được áp dụng cho mọi đối tượng và phạm vi, việc THPL về TDVCGD chỉ
diễn ra đối với một số đối tượng nhất định đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi, điều
kiện của viên chức ngành giáo dục. Phạm vi của THPL về TDVCGD liên
quan đến chỉ tiêu tuyển dụng viên chức ngành giáo dục, đến quan niệm
tuyển dụng và nhu cầu cụ thể của mỗi địa phương. Ở mức độ nhất định,
THPL về TDVCGD còn là sự kết hợp giữa THPL với tôn trọng đạo đức xã hội
và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân
1.1.3.Vai trò của thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức
ngành giáo dục
Thứ nhất, THPL về TDVCGD là phương thức để đường lối chính sách,
pháp luật tuyển dụng viên chức đi vào thực tiễn đời sống xã hội; là cách thức
biện pháp cơ bản, hiệu lực, hiệu quả để đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước về công tác tuyển dụng viên chức được thể hiện trong
các quy phạm pháp luật. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là cách
thức cơ bản, có hiệu lực, hiệu quả nhất để chủ trương, chính sách đi vào cuộc
sống và phát huy hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ xã hội và đến với các
chủ thể; giúp họ nắm bắt đầy đủ và thực hiện tốt hơn chủ trương, chính sách

của Đảng và pháp luật của nhà nước.
Thứ hai, THPL về TDVCGD nhằm hiện thực hóa quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển giáo dục, coi phát triển giáo
dục, đào tạo là “ quốc sách”. Bằng THPL về TDVCGD, việc đáp ứng mục
tiêu xây dựng đội ngũ viên chức ngành giáo dục phục vụ cho hoạt động các

12


đơn vị sự nghiệp công lập ngành giáo dục được hiện thực hóa; là một trong
những phương tiện thực hiện mục tiêu của nhà nước ta là xây dựng đội ngũ
viên chức có phẩm chất, trình độ, năng lực tiến tới nâng cao chất lượng cung
cấp dịch vụ, đổi mới hoạt động các đơn vị sự nghiệp công lập; là phương thức
đề cao trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền trong bảo đảm tuyển
dụng viên chức được thực hiện minh bạch, khách quan, công bằng, đúng pháp
luật. Vì vậy các cơ quan, cán bộ, công chức, công dân phải nghiêm chỉnh tuân
thủ chấp hành và thực hiện đúng quy định pháp luật, tích cực phòng ngừa, đấu
tranh và chống các hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện pháp luật
về tuyển dụng viên chức.
Thứ ba, THPL về TDVCGD là cơ sở hoàn thiện pháp luật về tuyển dụng
viên chức. Một trong những hoạt động quản lý của nhà nước là tham gia vào
quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở thực tiễn quản lý và đạo
luật gốc, đó là Hiến pháp. Vì vậy cần triển khai thực hiện có hiệu quả công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, làm cho các chủ thể pháp luật
tham gia vào quan hệ pháp luật về tuyển dụng viên chức tự giác thực hiện các
quy định của pháp luật về tuyển dụng viên chức tự giác thực hiện các quy
định của pháp luật trong hoạt động pháp luật. Thực hiện pháp luật về tuyển
dụng viên chức trở thành thực tiễn kiểm nghiệm sự hoàn thiện của pháp luật
tuyển dụng viên chức. Bởi thông qua các hình thức thực hiện pháp luật, hệ
thống pháp luật về tuyển dụng viên chức còn đồng thời bộc lộ những mâu

thuẫn, chống chéo, chưa phù hợp. Trên cơ sở đó, ta mới đặt ra được những
vấn đề, những yêu cầu về sự sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật, qua đó có
thể đảm bảo được chất lượng và hiệu quả công tác xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về
tuyển dụng viên chức nói riêng.
Thứ tư, THPL về TDVCGD là biện pháp phòng ngừa các hành vi vi
phạm pháp luật về tuyển dụng viên chức và tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước và ý thức tự giác của các

13


chủ thể tham gia THPL. Các chủ thể nhận thức được giới hạn hành vi bị
nghiêm cấm, mỗi chủ thể sẽ tự giác và chủ động thực thi quyền và nghĩa vụ;
không vi phạm các quy định của pháp luật.
1.2. Chủ thể, nội dung, hình thức thực hiện pháp luật về tuyển
dụng viên chức ngành giáo dục
1.2.1. Chủ thể thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành
giáo dục
Theo quy định của pháp luật hiện hành, có nhiều chủ thể tham gia vào
quá trình tuyển dụng viên chức ngành giáo dục. Theo đó, chủ thể THPL về
TDVCGD có tính đa dạng, bao gồm các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau.
Về cơ bản, các chủ thể THPL về TDVCGD có thể gom thành ba nhóm:
Một là, nhóm chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với
THPL về TDVCGD
Chức năng quản lý nhà nước được giao cho các cơ quan nhà nước.
Theo nghĩa rộng, các cơ quan nhà nước có chức năng quản lý nhà nước đối
với THPL về TDVCGD rất rộng, bao gồm các cơ quan nắm giữ quyền lực lập
pháp, quyền lực hành pháp và quyền lực tư pháp. Theo nghĩa hẹp, cơ quan
quản lý nhà nước là cơ quan hành pháp, chịu trách nhiệm chấp hành, điều

hành hoạt động THPL trên thực tế. Cơ quan quản lý nhà nước tham gia vào
THPL về TDVCGD là loại chủ thể đặc biệt vì trong quá trình thực hiện, cơ
quan nhà nước phải thể hiện là chủ thể mang tính quyền lực nhà nước, nhân
danh nhà nước thực hiện trách nhiệm quản lý xã hội đảm bảo cho pháp luật
tuyển dụng viên chức được tổ chức thực hiện trên phạm vi rộng lớn là toàn
quốc; Chính phủ, Bộ Nội vụ, các Bộ và cơ quan ngang bộ khác; Chính quyền
địa phương…. Các cơ quan này đảm nhiệm các nội dung quản lý nhà nước
như: xây dựng văn bản pháp quy và hướng dẫn thực hiện; xây dựng bộ máy
và tổ chức hoạt động THPL; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm; Hợp tác quốc
tế về THPL về TDVCGD….
Hai là, nhóm chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động TDVCGD

14


Nhóm này bao gồm các cán bộ, công chức, viên chức và các cá nhân
khác được giao quyền hạn trong THPL về tuyển dụng viên chức. Đó là những
chủ thể trực tiếp thực hiện các khâu của chu trình tuyển dụng viên chức trong
thực tiễn, chủ yếu thông qua hoạt động áp dụng pháp luật về TDVCGD.
Thông thường, các chủ thể này là lãnh đạo các đơn vị sự nghiệp công lập, đại
diện các cơ quan quản lý và các bộ phận giúp việc, tham gia vào một Hội
đồng (Ban) khi có vấn đề tuyển dụng viên chức đặt ra. Trên thực tế, một kỳ
tuyển dụng viên chức có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào nhận
thức, năng lực, kỹ năng và thái độ công tác của loại chủ thể này.
Ngoài ra, hoạt động TDVCGD còn có sự tham gia định hướng, lãnh
đạo hoặc hỗ trợ của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội (Đảng cộng
sản Việt Nam và các cấp ủy tại các cơ quan, đơn vị, địa phương, Mặt trận tổ
quốc Việt Nam, các Hội đặc thù…) nhằm đảm bảo tính pháp chế của hoạt
động tuyển dụng viên chức và quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân tham
gia ứng tuyển vị trí viên chức ngành giáo dục. Mặc dù không trực tiếp chịu

trách nhiệm triển khai các khâu của quá trình tuyển dụng viên chức, không
phải chịu trách nhiệm pháp lý về kết quả tuyển dụng viên chức nhưng các chủ
thể này có vai trò rất quan trọng trong đảm bảo hiệu quả của THPL về
TDVCGD.
Ba là, nhóm chủ thể tham gia ứng tuyển để được tuyển dụng vào một
vị trí viên chức ngành giáo dục
Tính chất đặc biệt của nhóm này là chỉ bao gồm các cá nhân có đủ điều
kiện và nhu cầu gia nhập đội ngũ viên chức ngành giáo dục. Khi tham gia dự
tuyển viên chức, các công dân – với tư cách chủ thể THPL – có trách
nhiệmTHPL dưới hình thức sử dụng và tuân thủ đầy đủ các quy định pháp
luật về TDVCGD. Họ sẽ tham gia vào quá trình tuyển dụng viên chức thông
qua các phần thi, phỏng vấn, trình bảy ý kiến của bản thân về công tác tuyển
dụng với những người có thẩm quyền tổ chức tuyển dụng, thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo nếu phát hiện sai phạm trong quá trình tuyển dụng. Số lượng

15


chủ thể này thường đông, có nhiều sự khác biệt về nhân thân nhưng đều phải
thảo mãn các yêu cầu, điều kiện được tuyển dụng vào vị trí viên chức ngành
giáo dục mới có thể tham gia vào quá trình tuyển dụng.
1.2.2. Nội dung thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức
ngành giáo dục
Thực hiện pháp luật về TDVCGD là quá trình biến các quy định
pháp luật về TDVCGD thành hành động thực tế của các chủ thể, nhằm đưa
các yêu cầu TDVCGD vào đời sống. Theo đó, nội dung THPL về
TDVCGD phải bao gồm hai bộ phận chủ đạo:
Một là, thực hiện các quy định pháp luật về nội dung tuyển dụng
viên chức (nguyên tắc, thẩm quyền, điều kiện, phương thức …tuyển dụng
viên chức).

Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, việc tuyển dụng
viên chức ngành giáo dục phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng, khách quan và đúng pháp
luật.
- Bảo đảm tính cạnh tranh.
- Tuyển chọn đúng người đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm.
- Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập.
- Ưu tiên người có tài năng, người có công với cách mạng, người dân tộc
thiểu số.
- Việc tuyển dụng viên chức phải căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí
việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và quỹ tiền lương của đơn vị sự
nghiệp công lập.
Trên cơ sở các nguyên tắc nói trên, Luật Viên chức năm 2010 xác định
rõ thẩm quyền tuyển dụng viên chức, theo đó:
- Đối với đơn vị sự nghiệp công lập giao quyền tự chủ quy định tại Điểm
a Khoản 2 Điều 9 Luật Viên chức, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập

16


tổ chức thực hiện việc tuyển dụng viên chức; quyết định tuyển dụng viên chức
qua thi tuyển hoặc xét tuyển.
- Đối với đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ quy
định tại Điểm b Khoản 2 Điều 9 Luật Viên chức, cơ quan, đơn vị có thẩm
quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập tổ
chức thực hiện hoặc phân cấp tổ chức thực hiện việc tuyển dụng viên chức
cho đơn vị sự nghiệp công lập thuộc quyền quản lý; quyết định hoặc ủy quyền
quyết định tuyển dụng viên chức qua thi tuyển hoặc xét tuyển.
- Đối với tổ chức sự nghiệp thuộc Chính phủ, người đứng đầu các tổ
chức sự nghiệp này tổ chức hoặc phân cấp tổ chức thực hiện việc tuyển dụng

viên chức; quyết định tuyển dụng viên chức qua thi tuyển hoặc xét tuyển.
- Hàng năm, đơn vị sự nghiệp công lập xây dựng kế hoạch tuyển dụng
viên chức trình cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc quyết định theo thẩm
quyền để tổ chức thực hiện.
- Khi thực hiện tuyển dụng viên chức, người đứng đầu cơ quan, đơn vị có
thẩm quyền tuyển dụng viên chức phải thành lập Hội đồng tuyển dụng viên chức,
có cơ cấu, thành phần, thẩm quyền theo quy định tại Điều 6, Nghị định số
29/2012/NĐ-CP. Theo đó, Hội đồng tuyển dụng làm việc theo nguyên tắc tập thể,
kết luận theo đa số và có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Thành lập các ban giúp
việc gồm: Ban đề thi, ban coi thi, ban phách, ban chấm thi, ban phúc khảo, ban
kiểm tra, sát hạch; Tổ chức thu phí dự tuyển và sử dụng theo quy định của pháp
luật; Tổ chức thi và chấm thi hoặc kiểm tra, sát hạch; Giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong quá trình tổ chức thi tuyển hoặc xét tuyển theo quy định của pháp luật.
Về những điều kiện để được đăng ký dự tuyển viên chức, Luật Viên
chức 2010 xác định:
- Người đăng ký dự tuyển phải có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, chuyên
môn nghiệp vụ, năng lực theo yêu cầu của vị trí việc làm và chức danh nghề
nghiệp, có đủ các điều kiện đăng ký dự tuyển quy định tại Điều 22 Luật viên
chức.

17


- Đơn vị sự nghiệp công lập được bổ sung các điều kiện khác theo yêu cầu của
vị trí việc làm quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 22 Luật Viên chức nhưng các quy
định này không được trái với quy định của pháp luật và phải được cơ quan có thẩm
quyền quản lý đơn vị sự nghiệp công lập phê duyệt trước khi thực hiện.
- Những người sau đây không được đăng ký dự tuyển viên chức:
+ Mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
+ Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đang chấp hành bản án, quyết

định về hình sự của Tòa án; đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng.
Cũng theo pháp luật hiện hành, TDVCGD phải được tiến hành thông qua
phương thức thi tuyển hoặc xét tuyển. Việc THPL phải đảm bảo áp dụng đúng
một trong hai phương thức tuyển dụng này.
Thứ nhất, đối với hình thức thi tuyển:
- Người dự thi tuyển viên chức phải thực hiện các bài thi sau: Thi kiến
thức chung và thi chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành. Việc thi tin học văn
phòng và ngoại ngữ đối với người dự thi tuyển viên chức thực hiện theo tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp và yêu cầu của vị trí việc làm.
+ Thi kiến thức chung: Thi viết về pháp luật viên chức; chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và những hiểu biết
cơ bản về ngành hoặc lĩnh vực tuyển dụng
+ Thi chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành thông qua hình thức thi viết
hoặc trắc nghiệm và thi thực hành. Người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền
tuyển dụng viên chức quyết định hình thức và nội dung thi phù hợp với yêu
cầu của vị trí việc làm.
Trường hợp vị trí việc làm yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ chuyên
ngành là ngoại ngữ hoặc công nghệ thông tin, bài thi chuyên môn, nghiệp vụ
chuyên ngành là ngoại ngữ hoặc công nghệ thông tin thì người dự tuyển
không phải thi ngoại ngữ hoặc thi tin học văn phòng.

18


+ Thi ngoại ngữ: Thi một trong năm thứ tiếng Anh, Nga, Pháp, Đức,
Trung Quốc hoặc ngoại ngữ khác theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp phù
hợp với yêu cầu của vị trí việc làm.Trường hợp vị trí việc làm yêu cầu sử
dụng tiếng dân tộc ít người, việc thi ngoại ngữ được thay thế bằng tiếng dân
tộc ít người. Người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng viên chức

quyết định hình thức và nội dung thi tiếng dân tộc ít người. Miễn thi môn
ngoại ngữ trong trường hợp môn nghiệp vụ chuyên ngành không phải là ngoại
ngữ nếu có một trong các điều kiện sau: Có bằng tốt nghiệp đại học, sau đại
học về ngoại ngữ; Có bằng tốt nghiệp đại học, sau đại học ở nước ngoài hoặc
tốt nghiệp đại học, sau đại học tại cơ sở đào tạo bằng tiếng nước ngoài ở Việt
Nam.
+ Thi tin học văn phòng: Thi thực hành trên máy hoặc thi trắc
nghiệm theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp phù hợp với yêu cầu của
vị trí việc làm. Căn cứ vào khả năng, điều kiện cụ thể, cơ quan, tổ chức, đơn
vị có thẩm quyền tuyển dụng viên chức quyết định hình thức thi trên giấy
hoặc trên máy vi tính. Miễn thi môn tin học văn phòng trong trường hợp có
bằng tốt nghiệp từ trung cấp chuyên ngành công nghệ thông tin trở lên.
- Bài thi chấm theo thang điểm 100. Môn thi kiến thức chung được tính
hệ số 1; môn chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành được tính hệ số 1 (đối với
phần thi viết hoặc thi trắc nghiệm), hệ số 2 ( đối với phần thi thực hành). Kết
quả thi là tổng số điểm của bài thi kiến thức chung và các bài thi chuyên môn,
nghiệp vụ chuyên ngành. Trường hợp người dự tuyển thi ngoại ngữ hoặc
tiếng dân tộc ít người, thi tin học văn phòng, kết quả các bài thi này là điểm
điều kiện và không tính vào tổng số điểm thi, trừ trường hợp ngoại ngữ và
công nghệ thông tin là phần thi chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành.
- Người trúng tuyển trong kỳ thi tuyển viên chức phải tham dự đủ các bài
thi quy định tại Điều 9 Nghị định 161/2018/NĐ-CP ngày 29/11/2018, mỗi bài
thi đạt từ 50 điểm trở lên và được xác định theo nguyên tắc: Người trúng

19


×