Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa thêu của dân tộc H.Mông và dân tộc Dao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 80 trang )

DỰ ÁN: “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa thêu dân tộc H’mông – Dao thông
qua các hoạt động trải nghiệm của học sinh đồng bào dân tộc thiểu số trường
PTDTNT THCS & THPT Bát Xát”
Phần I: Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Bản sắc văn hóa dân tộc, giá trị truyền thống của các dân tộc là những vấn đề
căn cốt, nền tảng để làm nên nét riêng của mỗi dân tộc, tạo nên sự khác biệt giữa các
dân tộc. Nghị quyết TƯ 5 (khoá VIII), của Đảng đã khẳng định “Văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội" với mục đích làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động
xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân
cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh
thần cao đẹp. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những đặc điểm văn hóa riêng thể
hiện qua ngôn ngữ, trang phục, phong tục, tập quán.... Bản sắc văn hóa dân tộc là
những nét văn hóa riêng biệt của một dân tộc được hình thành, được lưu truyền qua
nhiều thế hệ. Có thể nói trong văn hóa dân tộc, trang phục, đặc biệt là hệ thống hoa
văn họa tiết trên trang phục là cái mà ở đó bản sắc dân tộc biểu hiện rõ rệt, thường
xuyên và lâu bền nhất, kết tinh nhiều giá trị riêng của dân tộc. Trang phục là sản
phẩm của nghệ thuật tạo hình. Trang phục của mỗi dân tộc là sự thích ứng của con
người trước điều kiện tự nhiên. Hoa văn trên trang phục là yếu tố thẩm mỹ cấu thành
lên sản phẩm đó. Yếu tố thẩm mỹ này tuy là thể hiện quan điểm của tộc người
nhưng nó cũng không ngừng giao lưu, tiếp biến các yếu tố ngoại lai để làm giàu cho
chính mình.
Hiện nay, do ảnh hưởng của việc giao lưu giữa các nền văn hóa và ảnh hưởng
của nền kinh tế thị trường đã tác động không nhỏ đến bản sắc Văn hóa các dân tộc
miền núi, vùng cao.. trong đó có các bạn học sinh dân tộc thiểu số trường em –
trường PTDTNT THCS & THPT huyện Bát Xát. Nhiều bạn học sinh chưa nhận thức
đúng về nét đẹp văn hóa của trang phục dân tộc mình, còn tự ti về truyền thống văn
hóa của dân tộc mình như việc ngại sử dụng trang phục dân tộc mình, thích trang
phục theo mốt hiện đại. Học sinh có tư tưởng "ra thành phố" nên các văn hóa truyền
thống bị coi là "nhà quê". Những lí do trên sẽ làm cho một bộ phận học sinh dân tộc
không còn yêu thích và quý trọng truyền thống văn hóa của dân tộc mình, thậm chí


1


muốn giũ bỏ để tiếp cận văn hóa hiện đại. Đặc biệt hơn, hiện nay nhiều bạn không
biết khâu, thêu trang phục truyền thống của chính dân tộc mình. Đó là một nguy cơ
đáng lo ngại về sự mai một bản sắc văn hóa dân tộc. Những sản phẩm văn hóa được
kết tinh từ nhiều đời một cách khó khăn vất vả thì nay có thể nhanh chóng bị chôn
vùi, xóa nhòa.
Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS & THPT huyện Bát Xát; tỉnh Lào Cai
có nhiệm vụ đặc thù là bên cạnh việc tổ chức dạy học theo chương trình giáo dục, nhà
trường còn thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng toàn diện cho học sinh dân tộc
thiểu số vùng đặc biệt khó khăn tại các xã của huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai, đào tạo
nguồn nhân lực cho địa phương. Bên cạnh các nội dung giáo dục khác, nhà trường đặc
biệt quan tâm đến công tác giáo dục bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc cho
học sinh, đây là một vấn đề quan trọng góp phần không nhỏ vào sự thành công trong sự
nghiệp giáo dục chung của nhà trường. Năm học 2017-2018 này, trường chúng em
triển khai xây dựng mô hình trường học đa văn hóa gắn với thực tiễn một cách mạnh
mẽ, trong đó có một hoạt động nổi bật là dạy nghề thêu – là hoạt động học nghề duy
nhất được thực hiện trong hệ thống các trường trên địa bàn tỉnh Lào Cai. Khi học
những bài học này, chúng em nảy sinh ý tưởng: Tại sao chúng mình không đi sâu
khám phá những giá trị ẩn chứa trong hệ thống hoa văn họa tiết thêu? Tại sao chúng
mình không tự thêu và sáng tạo ra những mẫu hoa văn họa tiết thêu trên trang phục
của dân tộc mình? Tại sao mình không thể tuyên truyền, giới thiệu cho mọi người về
những điểm thú vị, hấp dẫn và những giá trị của nghệ thuật thêu truyền thống? Thiết
nghĩ,những việc làm đó sẽ giúp các bạn học sinh hiểu sâu sắc hơn nữa về truyền
thống dân tộc, khơi gợi lòng tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc giúp các bạn
học sinh phát triển tình yêu đối với quê hương. Đó là những lý do chúng em thực
hiện đề tài nghiên cứu: “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa thêu dân tộc
H’mông – Dao thông qua các hoạt động trải nghiệm của học sinh đồng bào dân
tộc thiểu số trường PTDTNT THCS & THPT Bát Xát”. Từ đó, chúng em tiến hành

khảo sát thực trạng rồi tiến hành hoạt động trải nghiệm để mở rộng kiến thức thực tế,
trải nghiệm tập thêu và làm sản phẩm thêu dân tộc H‟mông, Dao dưới sự định
hướng của cô giáo Phạm Minh Huệ.
Vậy, là những học sinh chúng em – thế hệ tương lai của đất nước có thể góp
một phần nhỏ bé của mình trong việc giữ gìn, quảng bá và lan tỏa những giá trị vô
2


giá của văn hóa thêu của dân tộc thiểu số chúng em đến với nhân dân trong cả nước,
trước hết là với những bạn học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường.
2.Mục đích nghiên cứu
Đối với học sinh:
+Tìm hiểu suy nghĩ, quan điểm, nhận thức và hành động của học sinh với văn
hóa thêu dân tộc H‟mông, Dao.
+ Nâng cao Nhận thức của học sinh về văn hóa thêu truyền thống của dân tộc
H‟mông, Dao. Tăng niềm tin, niềm tự hào dân tộc.
+ Rèn luyện kĩ năng sống: Trang bị hiểu biết về văn hóa thêu dân tộc H‟mông,
Dao cho các bạn học sinh, Biết cách thêu và sáng tạo các họa tiết thêu của dân tộc
H‟mông, Dao cho các bạn trong câu lạc bộ thêu.
+ Nghiên cứu, đề xuất một số phương án về tuyên truyền, phổ biến giữ gìn và
bảo tồn nét đẹp văn hóa thêu truyền thống của dân tộc H‟mông, Dao.
-Đối với nhà trường, địa phương:
+ Góp phần xây dựng mô hình trường học “Đa văn hóa” gắn với thực tiễn.
+ Bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống. Phát huy và lan rộng tới cộng đồng,
chia sẻ và giao lưu văn hóa giữa các dân tộc.
3.Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa thêu dân tộc H‟mông, Dao thông qua
hoạt động trải nghiệm của học sinh đồng bào dân tộc thiểu số trường PTDTNT
THCS & THPT huyện Bát Xát

3.2. Đối tượng nghiên cứu:
+ Học sinh: 418 bạn học sinh trường PTDTNT THCS & THPT huyện Bát Xát
+ Hệ thống hoa văn họa tiết chủ đạo trên trang phục của đồng bào dân tộc
H‟mông, Dao ở Lào Cai.
+ Tham khảo ý kiến của nghệ nhân
4. Giả thuyết khoa học
“Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa thêu dân tộc H‟mông, Dao thông qua
hoạt động trải nghiệm của học sinh đồng bào dân tộc thiểu số trường PTDTNT
THCS & THPT huyện Bát Xát” là một vấn đề mới lần đầu tiên được triển khai tại
trường PTDTNT THCS & THPT huyện Bát Xát. Nếu tổ chức triển khai sâu rộng các
hoạt động trải nghiệm tại trường PTDTNT một cách khoa học phù hợp với điều kiện
3


thực tiễn của nhà trường và đặc điểm học sinh người dân tộc thì sẽ nâng cao hiệu quả
giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện trong nhà trường, địa phương.
5. Phạm vi nghiêm cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa thêu dân tộc
H‟mông - Dao cho học sinh trường PT Dân tộc nội trú THCS & THPT Bát Xát (vì
học sinh là người dân tộc H‟Mông – Dao chiếm trên 62,70% học sinh toàn trường;
các hoa văn họa tiết thêu trên trang phục dân tộc H‟mông-Dao rất đa dạng và đặc
sắc).

4


-

Học sinh: 418 em học sinh từ lớp 6 đến lớp 11

Thời gian triển khai: 9/2017 – 12/2017.

6.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc thông qua hoạt
động trải nghiệm cho học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú.
- Nghiên cứu về bản sắc văn hóa thêu (kĩ thuật thêu, họa tiết thêu) truyền thống
trên trang phục dân tộc H‟mông, Dao.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng nhận thức của các bạn học sinh
trường PTDTNT THCS & THPT Bát Xát về văn hóa thêu dân tộc H‟mông, Dao
hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp giữ gìn, bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa thêu
truyền thống của dân tộc H‟mông, Dao thông qua hoạt động trải nghiệm của học
sinh trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS & THPT huyện Bát Xát.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu, phân tích các quan điểm lý luận, hệ thống hóa các tài liệu trên sách,
báo chí, các tài liệu chuyên môn liên quan đến nội dung đề tài.
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: Tiến hành quan sát các hoạt động của nhà trường:
thực hiện mặc trang phục…để thu thập thông tin, làm rõ thực trang; quan sát, chụp
ảnh các trang phục dân tộc H‟mông, Dao để có cái nhìn chân thực nhất đối với đối
tượng nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn, hỏi chuyện, ghi chép, trao đổi, thảo luận: với các
bạn học sinh,với thầy cô giáo, với nghệ nhân.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi:
Tiến hành lấy ý kiến của học sinh trường PT DTNT THCS & THPT huyện
Bát Xát thông qua phiếu điều tra khảo sát lần 1 (ban đầu) nhằm làm rõ thực trạng
cần nghiên cứu. Sau đó khảo sát lần 2 (sau khi tổ chức các hoạt động trải nghiệm) để
đánh giá sự thay đổi về nhận thức, thái độ và hành vi của các bạn học sinh trường
PTDTNT THCS & THPT huyện Bát Xát.

Phương pháp phân tích các sản phẩm hoạt động.
7.3 Nhóm phương pháp xử lý thông tin
Phương pháp này dùng để xử lý số liệu kết quả nghiên cứu của các phương pháp
5


nghiên cứu khác đem lại. Trên cơ sở đó đưa ra những nhận định, kết luận có tính
khoa học và độ tin cậy: tìm được sự lý giải cho các mã văn hóa được giấu bên trong
các họa tiết, chi tiết hoa văn trang trí trên vải của dân tộc H‟mông, Dao.
8. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
8.1. Ý nghĩa khoa học
- Cung cấp nguồn dữ liệu cụ thể về thực trạng, mức độ quan tâm và cách ứng
xử của học sinh với văn hóa thêu dân tộc thiểu số H‟mông, Dao làm căn cứ để các
cấp quản lý và các chuyên gia đưa ra các chương trình phổ biến học nghề thêu dân
tộc với học sinh dân tộc thiểu số gắn liền với thực tiễn địa phương.
- Đưa ra những nhận định đúng và khách quan về việc đưa văn hóa thêu
truyền thống dân tộc H‟mông, Dao đến với học sinh.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Học sinh có thể làm sản phẩm thêu dân tộc H‟mông, Dao, là gợi ý cho định
hướng nghề nghiệp trong tương lai.
- Những sản phẩm hoạt động của đề tài “Sổ tay hoa văn, họa tiết thêu truyền
thống của dân tộc H‟mông, Dao” là nguồn tư liệu tham khảo cho học sinh, cho đồng
bào dân tộc và các nhà nghiên cứu văn hóa, sáng tạo nghệ thuật.
- Cung cấp một số phương pháp, cách tổ chức để tuyên truyền văn hóa thêu
dân tộc tới học sinh để gia đình, nhà trường và xã hội định hướng giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, chung tay gìn giữ vốn quý của đồng bào dân tộc thiểu
số.
9. Tính sáng tạo của đề tài
- Chỉ tập trung vào một đối tượng cụ thể: học sinh trung học cơ sở và trung
học phổ thông trường PTDTNT THCS & THPT huyện Bát Xát, trong một lĩnh vực

cụ thể của bản sắc văn hóa dân tộc: họa tiết hoa văn thêu truyền thống của dân tộc
H’mong – Dao. Bởi từ trước tới nay chưa có đề tài cụ thể nào về văn hóa thêu dân
tộc H‟mông, Dao gắn liền với lứa tuổi học sinh.
- Nghiên cứu, đưa ra những thông tin, dữ liệu chính xác, cụ thể từ thực tiên
chứ không phải những nhận định chung chung…khái quát nghiệm thu đề tài bằng
một cuốn Sổ tay về họa tiết thêu truyền thống của dân tộc H’mông, Dao;
- Đưa ra cách tiếp cận, tổ chức các hoạt động sáng tạo để thu hút và hấp dẫn
học sinh với bản sắc văn hóa truyền thông gắn liền với quê hương mình
6


- Có thể mở rộng đề tài nghiên cứu ra nhiều bộ phận khác của nền văn hoá;
- Góp phần giải quyết vấn đề bức thiết của nhiều quốc gia, không chỉ của Việt
Nam mà còn trên thế giới.
10. Câu hỏi nghiên cứu
Thái độ của các bạn học sinh đối với bản sắc văn hóa thêu truyền thống của
dân tộc H‟mông, Dao hiện nay như thế nào? Những giải pháp nhằm tạo nên tình yêu
văn hóa thêu truyền thống của dân tộc H‟mông, Dao cho học sinh trong giai đoạn
hiện nay? Nếu các bạn học sinh ở các dân tộc khác cùng biết về bản sắc văn hóa
thêu của dân tộc H‟mông, Dao sẽ đem lại những lợi ích gì?
11.Cấu trúc của đề tài
Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội dung
Chương 1: Cơ sở khoa học của đề tài
1.Lí luận về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thông qua hoạt động trải nghiệm
cho học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú.
2. Khái quát về bản sắc văn hóa thêu của dân tộc H‟mông – Dao
Chương 2: Thực trạng và giải pháp
1.Thực trạng về nhận thức, hiểu biết và thái độ của học sinh trường PTDTNT
THCS & THPT Bát Xát về văn hóa thêu của dân tộc H‟mông – Dao.

2. Một số giải pháp nhằm góp phần bảo tồn, phát huy và lan tỏa những giá trị
của văn hóa thêu của dân tộc H‟mông – Dao với các bạn học sinh thông qua hoạt
động trải nghiệm
Chương 3:Kết quả nghiên cứu
1. Đánh giá kiến thức và nhận thức học sinh về giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa thêu dân tộc H‟mông, Dao
2. Sản phẩm của đề tài
Phần III: Kết luận, đề nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

7


Phần II: Nội dung
Chương 1: Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.Lí luận về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thông qua hoạt động
trải nghiệm cho học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú.
1.1.1 Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc:
Khái niệm Giữ gìn, Phát huy
Theo Từ điển tiếng Việt
Giữ gìn là giữ lại không để cho mất đi
Phát huy là làm cho cái hay, cái tốt lan toả tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm
Phát huy, trước hết là sử dụng giá trị tinh thần của di sản văn hóa trong công
tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, tình cảm; đồng thời, khái niệm phát huy cũng đã
bao hàm cả các hoạt động khai thác.
Khái niệm Văn hóa, Bản sắc văn hóa
Khái niệm Văn hóa
Thuật ngữ văn hóa đã xuất hiện từ lâu trong ngôn ngữ nhân loại nhưng cho
đến nay vẫn là một trong những khái niệm phức tạp và khó xác định. UNESCO đã

nhìn nhận khái niệm này theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, văn hóa
là một phức thể, tổng hợp các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất khắc họa
nên bản sắc của một cộng đồng, gia đình, làng xóm, vùng miền, quốc gia, xã hội.
Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà cả lối sống, những quyền cơ
bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…Theo
nghĩa hẹp, văn hóa là một tổng thể những hệ thống biểu tượng, kí hiệu chi phối cách
ứng xử và giao tiếp trong một cộng đồng khiến cho cộng đồng ấy có đặc thù riêng.
Văn kiện Hội nghị lần thứ IV BCHTW khóa VII nêu: “Có nhiều định
nghĩa về văn hóa, nhưng tựu chung có ba loại: Một là, văn hóa hiểu theo nghĩa rộng
bao gồm cả trình độ phát triển vật chất và tinh thần; Hai là, văn hóa hiểu theo nội
dung bao gồm cả khoa học, kĩ thuật, giáo dục, văn học, nghệ thuật; Ba là, văn hóa
đặt trong phạm vi nếp sống, lối sống, đạo đức xã hội, văn học nghệ thuật. Theo
chúng tôi, văn hóa đặt trong phạm vi văn hóa vật chất và tinh thần.
Khái niệm Bản sắc
Thuật ngữ “bản sắc” nhấn mạnh cái riêng tạo thành phẩm cách, tài năng.
Cũng cần phân biệt, từ “đặc biệt” chỉ sự khác xa mức thường, “đặc điểm” chỉ những
nét riêng biệt, “đặc trưng” chỉ dấu hiệu đặc biệt nổi trội. Bản sắc văn hoá” là những
8


đặc điểm riêng biệt, có giá trị cao gồm những giá trị vật chất và tinh thần được tích
lũy và
phát triển trong tiến trình đi lên của một dân tộc, nó quy định vị trí riêng biệt về mặt
xã hội của một dân tộc. Những giá trị đó có thể có ở mọi dân tộc, song ở dân tộc có
bản sắc văn hoá được biểu hiện đậm nét, sâu sắc và đặc biệt hơn.
Khái niệm Bản sắc văn hóa dân tộc
Thuật ngữ "bản sắc" thường được sử dụng gắn với văn hóa thành cụm từ “Bản
sắc văn hoá” và có thể hiểu bản sắc văn hoá là hệ thống các giá trị đặc trưng bản
chất của một nền văn hoá được xác lập, tồn tại, phát triển trong lịch sử và được biểu
hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa. Trong bản sắc văn hóa, các giá trị đặc trưng

bản chất là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững; còn các sắc thái biểu hiện của nó có
tính tương đối cụ thể, bộc lộ và tính biến đổi.
“Bản sắc văn hoá dân tộc” là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được
dân tộc sáng tạo ra trong lịch sử, là những nét độc đáo rất riêng của dân tộc này so
với dân tộc khác. Xét về bản chất, bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tinh thần, linh
hồn, cốt cách, bản lĩnh của một dân tộc. Đây được coi là “dấu hiệu khác biệt về chất”
giữa dân tộc này với dân tộc khác. Tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn
hóa họp ở Venise, F.Mayor - nguyên Tổng giám đốc UNESCO đã đưa ra một định
nghĩa khái niệm văn hóa trên cơ sở nhấn mạnh tính đặc thù của bản sắc văn hoá dân
tộc: “Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ
những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối
sống và lao động” [dẫn theo 5, tr.798]. Trong quan hệ quốc tế, bản sắc văn hóa dân
tộc được xem như cái “thẻ căn cước”, là cốt cách của mỗi dân tộc thể hiện trên mọi
phương diện. Trong quá trình tồn tại và phát triển, bản sắc văn hoá là yếu tố mang
sức mạnh tinh thần dân tộc, giúp dân tộc vượt qua những thử thách của lịch sử, bởi
vì theo tác giả Trần Văn Bính thì “bản sắc dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính
cách, khuynh hướng cơ bản thuộc sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo của một dân
tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó, giúp cho dân tộc đó giữ vững
được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán so với bản thân mình trong quá
trình phát triển” và tạo cơ sở cho sự phân biệt, nhận diện sự khác nhau giữa tộc người
này với tộc người khác, dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hoá nhìn một cách
tổng thể của bất kỳ dân tộc nào, đều gắn bó với lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển
của chính dân tộc đó [dẫn theo 5, tr.20].
9


Nhà thơ Tố Hữu đã khẳng định: “Trong đồng bào các dân tộc thiểu số, BSVH
biểu hiện đậm đà nhiều mặt. Dân tộc nào cũng có tinh thần dũng cảm trong sản xuất
và chiến đấu, tính chân thật thuỷ chung, lòng thương người mến khách. Ở nhà sàn,
ăn cơm nếp, uống rượu cần. Đội mũ, khăn, áo, quần nhiều màu sắc, đàn hát, nhảy

múa đông người… Những đức tính và nét sinh hoạt đó thường nổi bật trong đời
sống của đồng bào ở miền núi” [2, tr.26].
Nhìn nhận về giá trị bản sắc văn hoá Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam đã
tổng kết tại Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII: “Bản sắc dân tộc bao gồm
những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được
vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là
lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng
đồng gắn kết cá nhân - gia đình làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng
nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử,
tính giản dị trong lối sống. Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình
thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo” [dẫn theo 5, tr.7].
Tiến trình lịch sử phát triển của cộng đồng dân tộc Việt Nam cho thấy các giá
trị bản sắc văn hóa của từng tộc người, từng dân tộc không phải ngẫu nhiên được
hình thành mà đó là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh địa lý, lịch sử và chính trị. Các
giá trị cốt lõi của bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc đã làm nên BSVH Việt Nam. Bản
sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa
được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành
những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam.
Từ những khái niệm của các tác giả trên, theo chúng tôi “BSVH dân tộc là hệ
thống các giá trị, truyền thống, thẩm mĩ và lối sống của dân tộc tạo thành những đặc
trưng tiêu biểu, tiến bộ, riêng biệt, không thể trộn lẫn nền văn hoá của dân tộc này
với dân tộc khác”. BSVH dân tộc biểu hiện cho sức sống, sự sáng tạo và phát triển
của dân tộc đó. Trong khuôn khổ của đề tài này, BSVH dân tộc được hiểu theo nghĩa
hẹp hơn, đó là những đặc trưng tiêu biểu, tiến bộ, riêng biệt về họa tiết hoa văn trên
trang phục của dân tộc thiểu số H‟mông, Dao ở Lào Cai.
1.1.2.Hoạt động trải nghiệm
1.1.2.1 Khái niệm hoạt động trải nghiệm
Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, kế hoạch giáo dục bao gồm các
môn học, chuyên đề học tập (gọi chung là môn học) và hoạt động trải nghiệm ; hoạt
10



động giáo dục (theo nghĩa rộng) bao gồm hoạt động dạy học và hoạt động trải
nghiệm.
Theo chúng tôi, Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự
hướng dẫn của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các
hoạt động khác nhau của đời sống nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là
chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và
phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình.
Hoạt động trải nghiệm trong nhà trường cần được hiểu là hoạt động có động
cơ, có đối tượng để chiếm lĩnh, được tổ chức bằng các việc làm cụ thể của học sinh,
được thực hiện trong thực tế, được sự định hướng giáo viên, hướng dẫn của nhà
trường. Đối tượng để trải nghiệm nằm trong thực tiễn. Qua trải nghiệm thực tiễn,
học sinh có được kiến thức, kĩ năng, tình cảm và ý chí nhất định. Sự sáng tạo sẽ có
được khi phải giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn phải vận dụng kiến thức, kĩ năng đã
có để giải quyết vấn đề, ứng dụng trong tình huống mới, không theo chuẩn đã có,
hoặc nhận biết được vấn đề trong các tình huống tương tự, độc lập nhận ra chức
năng mới của đối tượng, tìm kiếm và phân tích được các yếu tố của đối tượng trong
các mối tương quan của nó, hay độc lập tìm kiếm ra giải pháp thay thế và kết hợp
được các phương pháp đã biết để đưa ra hướng giải quyết mới cho một vấn đề.
Hoạt động trải nghiệm được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như hoạt
động câu lạc bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại,
các hội thi, các hoạt động giao lưu, hoạt động nhân đạo, tình nguyện, hoạt động cộng
đồng, sinh hoạt tập thể, lao động công ích, sân khấu hóa (kịch, thơ, hát, múa rối, tiểu
phẩm, kich tham gia ...), thể dục thể thao, tổ chức các ngày hội.
1.1.2.2 Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thông qua hoạt
động trải nghiệm
Người Việt Nam từ xưa vẫn quan niệm: “Trăm hay không bằng tay quen”.
“Học đi đôi với hành”, “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Để nhấn mạnh
yếu tố thực hành và vận dụng thực tế.

Hơn 2000 năm trước, Khổng Tử (551 – 479 TCN) đã nói “Những gì tôi
nghe, tôi sẽ quên. Những gì tôi thấy, tôi sẽ nhớ. Những gì tôi làm, tôi sẽ hiểu”.
Còn nhà triết học Hy Lạp, Xôcrat (470 – 399 TCN) cũng nêu quan điểm “Người ta
phải học bằng cách làm một việc gì đó; Với những điều bạn nghĩ là mình biết,
bạn sẽ thấy không chắc chắn cho đến khi làm nó”.
11


HĐTNST tạo điều kiện cho HS tiếp xúc và mở rộng ứng dụng thực tế, trải
nghiệm được nhiều vấn đề trong các hoạt động xã hội đồng thời gây hứng thú trong
học tập. HĐTNST cũng có vai trò to lớn trong việc phát triển năng lực cá nhân cho
học sinh. Trong nhà trường, kỹ năng sống của học sinh có thể được hình thành thông
qua hoạt động học tập và giảng dạy cũng như các hoạt động giáo dục khác. Trong
đó, HĐTNST là một trong những hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc rèn
luyện kỹ năng sống cho học sinh. Thông qua HĐTNST học sinh được thể hiện đầy
đủ năng lực của bản thân, các kỹ năng mà học sinh đã trải nghiệm, hình thành và rèn
luyện. Cũng từ những hoạt động này có thể phát hiện được điểm nổi trội hoặc hạn
chế của học sinh.Từ đó có cơ sở giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực của
mỗi cá nhân và phát huy tốt hơn những kỹ năng đã được hình thành trong các môn
học khác. Bên cạnh đó, học sinh được hình thành và rèn luyện kỹ năng giao tiếp, rèn
luyện sự tự tin,... học sinh đều được làm và thấy mình có thể làm được. Tóm lại,
HĐTNST có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển kỹ năng sống
cũng như nhân cách cho học sinh. Việc giữ gìn và phát huy BSVHDT thông qua
hoạt động trải nghiệm cho học sinh, học sinh có điều kiện tham gia vào các hoạt
động của nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động để
nâng cao nhận thức; hình thành thái độ, tình cảm tích cực; hình thành và phát triển kĩ
năng phù hợp với giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp cho học sinh. Qua đó, học sinh
biết giữ gìn và phát huy các giá trị BSVHDT trong cuộc sống, biết lựa chọn và loại
bỏ những giá trị không còn phù hợp.
1.1.2.3 Vấn đề về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thông qua hoạt động trải

nghiệm cho học sinh ở trường PTDTNT
1.1.2.3.1 Đặc điểm trường PT DTNT và học sinh trường PT DTNT
Đặc điểm trường PT DTNT
Trường PTDTNT là loại hình trường chuyên biệt nằm trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Nhà nước thành lập trường PTDTNT nhằm đào tạo đối tượng là con em
các dân tộc thiểu số, con em các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện KTXH khó khăn, là nơi đào tạo cán bộ cho các vùng dân tộc.
Trường PTDTNT có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển KT-XH và
củng cố an ninh quốc phòng ở các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa.
Trường PTDTNT là loại trường chuyên biệt mang tính phổ thông, dân tộc và
nội trú. Trường PTDTNT còn là nơi để thực hiện chế độ chính sách của Đảng, nhà
12


nước đối với học sinh phổ thông dân tộc thiểu số một cách khá đầy đủ và toàn diện
nhất.
Đặc điểm học sinh trường PT DTNT
Thông tư Số: 01/2016/TT-BGDĐT ngày 15 tháng 01 năm 2016 của Bộ Giáo
dục & Đào tạo quy định:
Điều 18. Đối tượng tuyển sinh
1. Thanh niên, thiếu niên là người DTTS có hộ khẩu thường trú và định cư
từ 03 năm trở lên (tính đến ngày tuyển sinh) ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn theo quy định hiện hành.
2.
Thanh niên, thiếu niên là người DTTS không thuộc đối tượng quy định
tại khoản 1 Điều này, nếu được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định là vùng tạo
nguồn cán bộ cho các dân tộc thì cũng thuộc diện tuyển sinh vào trường PTDTNT.
3.
Trường PTDTNT được phép tuyển sinh không quá 5% trong tổng số chỉ
tiêu được tuyển mới hằng năm là con em người dân tộc Kinh có hộ khẩu thường trú
và định cư từ 03 năm trở lên (tính đến ngày tuyển sinh) ở vùng quy định tại khoản 1

Điều này
Điều 17. Nhiệm vụ và quyền hạn của HS
Ngoài các nhiệm vụ và quyền hạn của HS được quy định tại Điều lệ trường
trung học hiện hành, HS trường PTDTNT còn có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
1. Giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc mình, tôn trọng văn hóa của các
dân tộc khác.
2.
Chấp hành nghiêm túc sự phân công đi học ngành, nghề và sự phân
công công tác theo yêu cầu của địa phương.
3. Được ăn, ở, sinh hoạt trong khu nội trú và được hưởng các chế độ ưu
tiên, ưu đãi theo quy định của Nhà nước.
Như vậy, HS trường PTDTNT là những thiếu niên người DTTS có hộ khẩu
thường trú và định cư từ 03 năm trở lên (tính đến ngày tuyển sinh) ở vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định hiện hành. Các em được xét
duyệt và cử tuyển vào học tại trường theo yêu cầu của địa phương. 100% HS được
ăn, ở, sinh hoạt trong khu nội trú và được hưởng các chế độ ưu tiên, ưu đãi theo quy
định của Nhà nước.
1.1.2.3.2 Một số vấn đề về giữ gìn hoạt động trải nghiệm ở trường PTDTNT
Đặc trưng của hoạt động trải nghiệm
13


Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục . Hoạt động trải nghiệm được tổ
chức dưới nhiều hình thức khác nhau như hoạt động câu lạc bộ, tổ chức trò chơi,
diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại, các hội thi, hoạt động giao lưu,
nhân đạo hoạt động cộng đồng, sinh hoạt tập thể, lao động công ích, sân khấu hóa
(kịch, thơ, hát, múa rối, tiểu phẩm, kic h tham gia,...), thể dục thể thao, tổ chức các ngày
hội,... Hoạt động trải nghiệm nhằm hình thành và phát triển phẩm chất nhân cách, các
năng lực tâm lý - xã hội...; giúp học sinh tích luỹ kinh nghiệm riêng cũng như phát
huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình, làm tiền đề cho mỗi cá nhân tạo dựng

được sự nghiệp và cuộc sống hạnh phúc sau này.
Chính vì vậy việc giáo dục BSVHDT thông qua hoạt động trải nghiệm ở
trường PT DTNT có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đó không chỉ là điều kiện để mỗi
học sinh được thể hiện mà còn được giao lưu học hỏi. Qua hoạt động trải nghiệm,
học sinh được hòa nhập với bạn bè, hiểu biết về văn hóa, lối sống của các dân tộc, từ
đó biết điều chỉnh, tiếp thu những giá trị văn hóa tích cực và tạo nên sự hòa nhập,
thân thiện với tập thể bạn bè, thầy cô. Hoạt động trải nghiệm tạo ra môi trường tốt để
tăng cường sự đoàn kết các dân tộc.
Mục tiêu của giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc thông qua hoạt động trải
nghiệm cho HS trường PT DTNT
Giữ gìn BSVHDT thông qua hoạt động trải nghiệm cho HS trường PT
DTNT THCS là thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phát triển văn
hóa. Đảng ta xác định: "Văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hóa",
vì vậy, "phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được công cuộc cải tạo xã
hội" và "Đảng tiên phong lãnh đạo văn hóa tiên phong"; đồng thời, đề ra ba nguyên
tắc cuộc vận động văn hóa mới: Dân tộc, đại chúng, khoa học.
Đồng thời, kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi
ích chân chính và phẩm giá con người; chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, phải giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; quan tâm chăm lo xây dựng, hoàn thiện những phẩm giá nhân
cách tốt đẹp của con người Việt Nam.
Giữ gìn BSVHDT thông qua hoạt động trải nghiệm là góp phần phát
14


triển bền vững nhân cách cho thế hệ trẻ nói chung, học sinh THCS & THPT nói riêng
đặc biệt là đối với HS trường PTDTNT.

Nội dung giữ gìn BSVHDT thông qua hoạt động trải nghiệm cho học sinh
PT Dân tộc nội trú
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là những giá trị bền vững, những tinh hoa
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước. “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường
dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã -tổ
quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo
trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”. Bản sắc văn hóa
dân tộc là cơ sở để liên kết xã hội và liên kết các thế hệ, tạo nên sức mạnh tinh thần
của dân tộc.
Trong khuôn khổ của đề tài về nội dung giữ gìn bản sắc văn hóa thêu của dân
tộc H‟mông và dân tộc Dao cho học sinh PT DTNT. Học sinh là người dân tộc
H‟mông-Dao chiếm trên 60% tổng số học sinh toàn trường. Dân tộc H‟mông và dân
tộc Dao có đặc trưng hoa tiết thêu trên trang phục truyền thống.
Thông qua các hoạt động trải nghiệm để giữ gìn và phát huy BSVHT dân tộc
H‟mông - Dao, sẽ giúp cho học sinh có nhận thức về bản sắc văn hóa, giá trị lịch sử,
ý nghĩa của truyền thống thêu dân tộc H‟mông, Dao; có kĩ năng thêu họa tiết hoa
văn truyền thống để từ qua đó có cách nhìn nhận, đánh giá và thái độ, hành vi đúng
đắn trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống dân tộc, trong điều kiện hiện nay.
Giáo dục BSVHDT thông qua các hoạt động trải nghiệm cho HS
Với đặc trưng là trường nội trú, mọi hoạt động của học sinh phần lớn đều diễn
ra trong nhà trường. Các hình thức giữ gìn và phát huy BSVH dân tộc cho các bạn
học sinh cần được tổ chức một cách đa dạng, linh hoạt, lồng ghép trong các môn học
và các hoạt động giáo dục khác của nhà trường một cách hài hòa, phù hợp, hiệu quả.
Ví dụ như:
Tổ chức các câu lạc bộ:
Câu lạc bộ (CLB) là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm học sinh
cùng sở thích, nhu cầu, năng khiếu,... dưới sự định hướng của những nhà giáo dục
nhằm tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các học sinh với nhau và giữa
học sinh với thầy cô giáo, với những người lớ n khác. Có thể tổ chức một số câu lạc

bộ như:
15


- CLB văn hóa nghê thuâ : Hát then, Đàn tính...
CLB trò chơi dân gian: kéo co, ném còn, đánh cầu/đá cầu, ô ăn quan, đánh
chuyền, đánh khăng, đánh quay, đánh đáo.
- CLB thể thao: Đẩy gậy, võ thuật cổ truyền
- Tổ chức các trò chơi:
Trò chơi là một loại hình hoạt động giải trí, thư giãn; là món ăn tinh thần
nhiều bổ ích và không thể thiếu được trong cuộc sống con người nói chung và đặc
biệt, đối với thanh thiếu niên học sinh nói riêng, những trò chơi phù hợp nhiều khi
có tác dụng giáo dục rất tích cực. Trò chơi được tổ chức dưới nhiều hình thức khác
nhau có tác dụng học mà chơi, chơi mà học.
- Tổ chứ c diên đàn
Diễn đàn là một hình thức hoạt động được sử dụng để thúc đẩy sự tham gia
của các bạn HS thông qua việc các bạn được trực tiếp, chủ động bày tỏ ý kiến của
minh vơi đông đảo bạn bè, nha trương, thây cô giao, cha me va nhưng ngươI lơn
khac co liên quan. Diên đan là một trong những hinh thưc tổ chức mang lại hiệu quả
giáo dục thiết thực. Thông qua diễn đàn, HS có cơ hội bày tỏ suy nghĩ, ý kiến, quan
niệm hay những câu hỏi, đề xuất của mình về một vấn đề nào đó có liên quan đến
nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng của các em; đồng thời đây cũng là dịp để các em
biết lắng nghe ý kiến, học tập lẫn nhau. Vì vậy, diễn đàn như một sân chơi tạo điều
kiện để học sinh được biểu đạt ý kiến của mình một cách trực tiếp với đông đảo bạn
bè và những người khác. Diễn đàn thường được tổ chức rất linh hoạt, phong phú và
đa dạng với những hình thức hoạt động cụ thể, phù hợp với từ ng lứa tuổi học sinh.
Tổ chức sinh hoạt ngoại khóa, sân khấu tương tác:
Sân khấu tương tác (hay sân khấu diễn đàn) là một hình thức nghệ thuật tương
tác dựa trên hoạt động diễn kịch , trong đó vở kịch chỉ có phần đầu đưa ra tình
huống, phần còn lại được sáng tạo bởi những người tham gia. Phần trình diễn chính

là một cuộc chia sẻ, thảo luận giữa những người thực hiện và khán giả, trong đó đề
cao sự tương tác hay sự tham gia của khán giả. Mục đích của hoạt động này là tăng
cường nhận thức, thúc đẩy HS đưa ra quan điểm, suy nghĩ và cách xử lý tình huống
thực tế gặp phải trong bất kì nôi dung nào của cuộc sống. Thông qua sân khấu tương
tác, các bạn có cơ hội rèn kĩ năng như: kĩ năng phát triển vấn đề, kĩ năng phân tích
vấn đề, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, khả năng sáng tạo ứng phó trước
những thay đổi trong cuộc sống.
16


Tham quan dã ngoại
Tham quan dã ngoại là một hình thức trải nghiệm thực tế hấp dẫn với học
sinh. Mục đích của tham quan, dã ngoại là để các em học sinh được đi tham quan,
tìm hiểu, học hỏi kiến thức, được tiếp xúc với các giá trị văn hóa , lịch sử … giúp
các em có được những kiến thức từ thực tế, sinh động hấp dẫn từ đó có thể áp dụng
vào cuộc sống. Các chuyến tham quan dã ngoại sẽ tăng cường cho các bạn HS được
giao lưu, chia sẻ và thể hiện những khả năng vốn có của mình đồng thời giúp các
em cảm nhận được vẻ đẹp của quê hương, đất nước , hiểu được các giá trị truyền
thống của dân tộc.
Hội thi/cuôc thi
Hội thi (cuộc thi) là một trong những hình thức tổ chức hoa đông hấp dẫn,
lôi cuốn HS và đạt hiệu quả cao trong việc tập hợp, giáo dục, rèn luyện và định
hướng giá trị cho tuổi trẻ. Hội thi mang tính chất thi đua giữa các cá nhân, nhóm
hoặc tập thể luôn hoạt động tích cực để vươn lên đạt được mục tiêu mong
muốn thông qua việc tìm ra người thắng cuộc. Chính vì vậy, tổ chức cuộc thi cho HS
là một điều quan trọng, cần thiết trong hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Mục đích tổ
chức hội thi/cuộc thi nhằm lôi cuốn HS tham gia một cách chủ động, tích cực vào
các hoạt động giáo duc của nhà trườ ng; đáp ứng nhu cầu về vui chơi giải trí cho HS; thu
hút tài năng và sự sáng tạo của HS; phát triển khả năng hoạt động tích cực và tương tác
của HS, góp phần bồi dưỡng cho các em động cơ học tập tích cực, kích thích hứng thú

trong quá trình nhận thức.
1.2 Khái quát về bản sắc văn hóa thêu của dân tộc H’mông – Dao
1.2.1 Bản sắc văn hóa thêu dân tộc H’mông
1.2.1.1 Khái quát về dân tộc H’mông
Dân tộc H‟mông là một dân tộc có dân số khá đông (trên 9 triệu người), thuộc
nhóm ngôn ngữ H‟mông – Dao, cư trú ở nhiều nước khác nhau trên thế giới trong đó
đông nhất là ở Trung Quốc với khoảng trên 7,5 triệu người. Ở Lào là khoảng 25 vạn,
ở Thái Lan khoảng 15 vạn và ở nước ta là hơn 1 triệu người. Trong vài thập niên gần
đây, người H‟mông còn có mặt ở một số nước ngoài châu Á như: Pháp, Mỹ,
Canada, Australia...Ở Lào Cai, dân tộc H‟mông chiếm 22,21% dân số toàn tỉnh (dân
số Lào Cai là 674.530 người, số liệu năm 2016) [6]
Ở Việt Nam, người H‟mông nằm trong nhóm các dân tộc nói ngôn ngữ
H‟mông – Dao (gồm ba dân tộc là H‟mông, Dao và Pà Thẻn).
17


Về nguồn gốc dân tộc thì người H‟mông hiện nay ở Việt Nam đều có nguồn
gốc từ phương Bắc. Theo một số tài liệu và truyền thuyết của dân tộc H‟mông, cũng
như theo các nhà dân tộc học thì phần lớn những người H‟mông ở các tỉnh miền núi
phía Bắc đều di cư vào Việt Nam chủ yếu trực tiếp từ Quý Châu, Quảng Tây và Vân
Nam Trung Quốc sang. Riêng nhóm H‟mông ở Thanh Hóa và Nghệ An đi cư vào
Việt Nam qua Lào.
Về tên gọi của dân tộc, thì ở Việt Nam, ngôn ngữ dân gian quen gọi là người
Mèo hay người H‟Mông. Nhưng trên nhiều tài liệu nghiên cứu, các nhà dân tộc học
và nghiên cứu về dân tộc này đều gọi họ là dân tộc H‟mông hoặc là dân tộc Mông.
Bản thân họ tự nhận mình là dân tộc Mông (nghĩa là người).
Các nhóm người H‟mông chính ở nước ta:
* Mông Hoa (Mông Lềnh)
* Mông Đen (Mông Đú hoặc Mông Đu)
* Mông Xanh (Mông Súa hoặc Mông Dua)

* Mông Đỏ (Mông Si)
Dấu hiệu để phân biệt các nhóm người H‟mông là trang phục của họ nhưng chỉ có
trang phục nữ mới có chức năng này, trang phục nam hầu như có mô típ giống nhau.
Về địa bàn cư trú và phân bố dân cư: dân tộc H‟mông nói chung thì thường cư
trú ở độ cao từ 800 đến 1500m so với mực nước biển. Phân bố chủ yếu ở hầu hết các
tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng, dọc theo biên giới Việt – Trung
và Việt – Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An. Trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh
thuộc Đông Bắc và Tây Bắc VN như Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La...Do tập
quán du mục nên một số người H‟mông trong những năm 1980, 1990 đã di dân vào
tận Tây Nguyên, sống rải rác ở một số nơi thuộc Gia Lai và Kon Tum.
Người H‟mông ở miền bắc Việt Nam cư trú đông nhất là ở Hà Giang, tiếp đến
là Điện Biên, Sơn La, Yên Bái, và ít nhất là ở Hòa Bình. Địa bàn cư trú của họ là các
dãy núi cao nhất nước ta. Độ cao trung bình của các làng người H‟mông cư trú là từ
900 – 1600m. Đây là vùng đất cao nhất, hiểm trở nhất. Độ chia cắt sâu, chia cắt
ngang từ lớn đến rất lớn. Độ dốc từ 15o đến 25o, vùng Tây Hoàng Liên Sơn có độ
dốc lớn hơn 25o. Khí hậu mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa. Do ảnh hưởng của
gió mùa đông bắc và độ cao địa hình nên khí hậu lạnh. Địa hình phức tạp và khí hậu
khắc nghiệt đã gây nhiều khó khăn cho đời sống văn hóa của đồng bào.
18


Họ sống quần tụ trong từng bản có vài chục nóc nhà, thường thích sống khép
kín. Nhà cửa là loại nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Phổ biến là nhà
bưng ván hay vách nứa, mái tranh.
1.2.1.2 Khái quát về trang phục dân tộc H’mông
Đồng bào H‟mông đã cư trú ở nước ta từ lâu đời, sinh sống chủ yếu trên các
rẻo cao thuộc khu vực miền núi Tây Bắc và Đông Bắc, gồm các tỉnh Hà Giang, Cao
Bằng, Lào Cai, Lai Châu, Tuyên Quang, Yên Bái, Điện Biên, Sơn La và Nghệ An.
So với các dân tộc khác, người H‟mông còn giữ nguyên được nhiều phong tục tập
quán, vật dụng cổ truyền độc đáo, một trong đó là việc dệt vải, thêu may các bộ

trang phục dân tộc đặc sắc, rực rỡ nhất vùng. Đối với người H‟mông, trang phục là
cái mặc, cũng là của cải gia truyền, ai nấy đều phải bảo tồn và phát huy sao cho ngày
càng đẹp càng quý, phản ánh được rõ nét truyền thống văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng,
cá tính và sự giàu có của tộc người.
Từ xưa đến nay, trang phục nam nữ H‟mông đều do phụ nữ H‟mông làm.
Bảy, tám tuổi, các bé gái đã được bà và mẹ dạy dệt vải, thêu, may các kiểu hoa văn
truyền thống, để tới khi lấy chồng (vào tuổi 15-18, tuổi trưởng thành theo cách tính
H‟mông) sẽ may được 8 đến 15 chiếc váy làm của hồi môn.
Quần áo của người Mông chủ yếu may bằng vải lanh tự dệt. Đậm đà tính cách
tộc người trong tạo hình và trang trí với kỹ thuật đa dạng. Trang phục nam H‟mông
độc đáo khác nhiều tộc người trong khu vực; trang phục nữ khó lẫn lộn với các tộc
khác bởi phong cách tạo dáng và trang trí công phu, kết hợp kỹ thuật nhuộm, vẽ sáp
ong, thêu, ghép, dệt hoa văn với kiểu váy rộng và đẹp. Nam giới H‟mông mặc trang
phục cổ truyền tương tự nữ giới song giản tiện và mộc mạc hơn. Đó là một cái áo
đen (vào dịp lễ Tết là áo trắng, xanh, thêu hoa) có dạng chữ T thân hẹp, hoặc lơ lửng
ngang sườn hoặc dài quá thắt lưng, cổ áo thêu hoa, ve áo song song đính khoảng
năm hàng khuy vải nằm ngang giữa hai thân, cũng có khi là hai vạt vắt chéo và đơm
khuy nách. Ống tay rộng, chia làm hai phần, tùy nhóm người mà ống tay liền dải
đồng chất, đồng màu hoặc gắn các mảnh vải, miếng thêu có màu sắc, chất liệu khác
nhau. Với nam giới H‟mông Đen, thân và tay áo thường có một màu tím than. Với
nam giới H‟mông Hoa thì ống tay chia thành nhiều lớp vẽ thêu như đen nối xanh,
đen nối đỏ, vàng nằm liền kề hoặc cách quãng. Với nam giới H‟mông Đỏ có thêm
viền cổ và nẹp áo thêu. Ngoài ra, họ cũng đội mũ gồm các loại mũ quả dưa tám
miếng màu đen hoặc thêu, đính các vòng họa tiết xung quanh mũ hay trên đỉnh đính
19


cắc bạc; mũ lưỡi trai ngắn sát đầu và mũ bốn vành khi lạnh để xuôi, khi nóng gập
lên gọn ghẽ trên đầu. Vào hội, khi tham gia biểu diễn nghệ thuật họ vấn khăn buộc
sau gáy. Quần nam giới là loại chân què ống rất rộng so với các tộc người khác trong

khu vực.
Người H‟mông có nhiều nhóm khác nhau, trang phục nữ các nhóm cũng có sự
khác biệt. Trang phục cổ truyền của người phụ nữ H‟mông gồm: khăn, áo, váy, tạp
dề che phía trước váy, sau váy, thắt lưng, xà cạp…Nhìn chung có thể thấy phụ nữ
H‟mông thường mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không khâu hoặc
cho vào trong váy. Ống tay áo thường trang trí hoa văn những đường vằn ngang từ
nách đến cửa tay, đường viền cổ và nẹp hai thân trước được trang trí viền vải khác
màu (thường là đỏ và hoa văn trên nền chàm). Phụ nữ H‟mông còn dùng loại áo xẻ
nách phải trang trí cổ, hai vai xuống ngực giữa và cửa ống tay áo. Phía sau gáy
thường được đính miệng và trang trí hoa văn dày đặc bằng chỉ ngũ sắc.
Váy phụ nữ H‟mông là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra có hình
tròn. Váy là một tiêu chuẩn nhiều người đã dựa vào để phân biệt các nhóm H‟mông
(Hoa, Xanh, Đỏ, Đen... ). Đó là các loại váy trắng, váy đen, váy in hoa, vẽ sáp ong
kết hợp thêu. Váy được mang trên người với chiếc thắt lưng vải được thêu trang trí ở
đoạn giữa. Khi mặc váy thường mang theo tạp dề. Tạp dề mang trước bụng phủ
xuống chân là 'giao thoa' giữa miếng vải hình tam giác và chữ nhật; phần trang trí
hoa văn là miếng vải hình tam giác cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màu chàm
đen, kích thước tùy từng bộ phận người H‟mông. Phụ nữ thường để tóc dài quấn
quanh đầu, có một số nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức bao
gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.
1.2.1.3 Khái quát về họa tiết hoa văn thêu trên trang phục dân tộc
H’mông
Có thể nói hoa văn, họa tiết là yếu tố quan trọng nhất tạo nên vẻ đẹp trang
phục H‟mông. Nghệ thuật tạo hình dân gian của người H‟mông thể hiện ở trang
phục, đồ dùng sinh hoạt, tranh cắt giấy…Nhưng trang trí trên vải có vị trí quan trọng
nhất trong nghệ thuật tạo hình dân gian, điển hình là trang trí trên trang phục người
H‟mông. Mọi hoa văn ở đây đều hết sức mộc mạc, bắt nguồn từ các câu chuyện cổ,
thơ ca về cội nguồn dân tộc, phong cảnh thiên nhiên nơi người H‟mông sinh sống,
các loại cây trồng, vật nuôi và sản phẩm nông nghiệp quen thuộc. Thường thấy các
họa tiết dưới dạng ô nằm ngang với đường viền là hình vuông, chữ thập, đinh, công

20


cách quãng kết hợp với hình quả trám, tam giác, tròn, xoáy đơn, xoáy kép (dấu móc
hoặc chữ S), răng cưa, đường cong, đường lượn sóng... Bên trong là các hình ngôi
sao năm cánh - sáu cánh- tám cánh, hoa bí, hoa tỏi, hoa cà, hoa mận, hoa đào, hoa
sen, mạng nhện, cánh bướm, vảy cá, lá ngải cứu, cành tùng, búp tre, lưỡi câu, núi
sông, đuôi rồng, con ốc, con rắn, sừng dê... Những họa tiết này đều có màu sắc tươi
sáng, nhất là màu đỏ vừa tạo cảm giác ấm áp, hưng phấn cho người mặc khi đi giữa
rừng, trên núi cao, vực thẳm trong điều kiện khí hậu lạnh lẽo vừa khiến người
H‟mông dù là H‟mông Đen hay Xanh, Hoa, Đỏ đều nổi bật trước đám đông và
choáng ngợp mọi không gian, môi trường cho dù trên nương rẫy, giữa buổi chợ hay
lễ hội.
Hệ thống họa tiết hoa văn trang trí trên trang phục dân tộc người H‟mông hàm
chứa nhiều ý nghĩa và giá trị đặc sắc. Nó không chỉ góp phần quan trọng làm nên vẻ
đẹp của bộ trang phục mà còn thể hiện cả đời sống vật chất và tinh thần của người
H‟mông. Đó là một nguồn tư liệu quý giá trong việc nghiên cứu dân tộc học và đáng
được chúng ta quan tâm, tìm hiểu.
1.2.1.3.1 Sự ra đời của hoa văn trên trang phục
Theo lời kể của Thào A Thề, 45 tuổi, bản Lả Khắt, xã Nậm Khắt huyện Mù
Căng Chải, tỉnh Yên Bái, nhóm H‟mông Hoa – phó bí thư đảng ủy xã, phó trưởng
họ Thào (dựa theo “Truyện cổ Mèo” của Doãn Thanh, nhà xuất bản Văn học năm
1963) thì cách lý giải vì sao có hoa văn trên vải của họ rất thú vị. Họ cho rằng hoa
văn trên váy của người phụ nữ chính là chữ viết của dân tộc mình. Truyển kể rằng,
xưa kia khi người H‟mông còn sống ở Trung Quốc, họ cũng có chữ viết riêng của
dân tộc mình như người Kinh bây giờ. Sau vì muốn chiếm đất và đồng hóa người
H‟mông nên người Hán đã cho quân xâm lược, đốt sách vở và cấm người H‟mông
đọc chữ. Người H‟mông muốn ghi lại lịch sử của mình cũng không được. Đang lúc
chạy lên núi trốn sự truy lùng của người Hán, vua của người H‟mông lúc bấy giờ đã
gặp một người phụ nữ H‟mông vẫn đang cặm cụi ngồi mải miết thêu bên suối,

không hề để ý quân Hán đang đuổi tới. Vua đã chợt nghĩ ra phương thức giữ lại chữ
viết của dân tộc mình bằng việc thêu lên váy người phụ nữ. Nhưng thêu thì lâu, nên
khi nhìn thấy một tổ ong bên đường, vua đã lấy sáp ong và vẽ vào váy người phụ nữ.
Từ đó, người H‟mông biết thêu và in hoa văn bằng sáp ong. Song do người phụ nữ
kia không biết chữ nên không biết ý nghĩa của chúng. Dù là truyền thuyết, song câu
truyện trên đã phản ánh được một phần lịch sử đau thương của người H‟mông và
21


quan trọng hơn cả là nó đã cho chúng ta một thông tin thú vị về nguồn gốc sự xuất
hiện của hệ thống hoa văn họa tiết trên trang phục của dân tộc họ.
1.2.1.3.2 Vai trò của người phụ nữ H’mông trong việc thêu hoa văn trên
trang phục
Phụ nữ H‟mông là chủ nhân của nghệ thuật tạo hình trên nền trang phục. Cả
cuộc đời người phụ nữ gắn bó với công việc thêu, dệt vải và in hoa văn. Em bé
H‟mông mới 9 – 10 tuổi đã được các bà các mẹ, các chị tập cho thêu thùa:
Lớn lên anh theo cha đi cày nương.
Theo anh đi vào rừng săn thú
Lớn lên em theo mẹ tập thêu
Theo chị nhuộm chàm, in hoa trên váy mới.
Đến tuổi trưởng thành các thiếu nữ H‟mông không tiếc thời gian, làm đêm,
làm ngày thêu bộ váy áo cưới. Tập quán của người H‟mông đánh giá tài năng, vẻ
đẹp của người phụ nữ qua khả năng thêu thùa, qua bộ trang phục trong lễ cưới. Tục
ngữ H‟mông có câu Muốn biết người tốt xem gác bếp, muốn xem người đẹp xem
quần áo. Và nghề dệt vải, thêu hoa văn là thước đo giá trị của người phụ nữ:
Gái đẹp không biết làm lanh cũng xấu
Gái xinh chưa biết cầm kim là hư.
Cô gái đẹp được quan niệm là cô gái phải thêu thùa khéo léo như trôn ốc.
Người giỏi thêu thùa được cả cộng đồng đề cao, coi trọng. Những đêm trăng thanh
gió mát hay bên bếp lửa hồng, từng tốp các cô gái quây quần bên nhau học thêm,

truyền dạy kinh nghiệm in sáp, tạo mẫu, ghép vải mới…Các hình thức giúp đỡ
truyền nghề này góp phần cho nghệ thuật thêu, ghép hoa văn phát triển. Trước khi đi
làm dâu, các cô gái được mẹ tặng cho bộ váy áo như của hồi môn. Khi về nhà
chồng, các cô gái phải chuẩn bị bộ váy áo tặng mẹ đẻ và mẹ chồng. Váy thêu đẹp trở
thành tài sản của người phụ nữ. Khi đã thành người vợ, người mẹ, người phụ nữ
H‟mông vẫn tiếp tục thêu in nhiều mẫu hoa văn, lo cho chồng con mặc đẹp. Hạnh
phúc của mỗi gia đình được phản ánh trong bức tranh sinh hoạt: người vợ ngồi thêu,
người chồng thổi
kèn, tận tình giúp đỡ người vợ trong công việc thêu thùa:
Cuối nhà là nơi em ngồi thêu váy
Đầu nhà là nơi anh ngồi thổi sáo, múa kèn
Em in hoa mới không có sáp, anh ra chợ kiếm
22


Em thêu hoa mới, không biết đường anh cầm que vạch giúp.
Người vợ trở thành người mẹ lại có nghĩa vụ dạy con cái mình học thêu. Đồng
thời, con dâu lại được mẹ chồng, hay thậm chí là cả các chị chồng nhiệt tình dạy bảo
cách thêu thùa, in sáp ong. Vừa kế thừa nghệ thuật thêu, trang trí hoa văn của nhà
mẹ đẻ, cô dâu lại vừa tiếp thu nghệ thuật trang trí hoa văn của gia đình nhà chồng.
Khi trở về già, người phụ nữ vẫn lo cho mình cả một bộ váy đẹp để về với tổ tiên.
Cứ như vậy, nghệ thuật in thêu hoa văn được bảo lưu, trao truyền nhiều thê hệ, bản
sắc văn hóa riêng của dân tộc luôn phát triển. Dòng đời người phụ nữ qua đi, dòng
hoa văn cứ chảy trôi mãi theo bàn tay tài năng của họ. Qua bàn tay của họ – những
người phụ nữ H‟mông, nghệ thuật tạo hình trên nền trang phục xuất hiện với những
nét độc đáo cả về mặt bố cục, màu sắc.
1.2.1.3.3 Kỹ thuật tạo hình hoa văn trên trang phục
Để tạo được hệ thống hoa văn họa tiết sống động trên trang phục, người
H‟mông sử dụng 4 kỹ thuật tạo hình chính là kỹ thuật thêu, kỹ thuật in sáp ong, kỹ
thuật ghép vải và kỹ thuật ghép hạt cườm, nhựa, bạc.

Kĩ thuật thêu:
Kỹ thuật thêu của của người H‟mông có hai cách thêu lát và thêu chéo
mũi. Hai cách thêu này làm cho việc tạo nét mềm mại chủ động, phóng khoáng,
không bị gò bó trong kỹ thuật thêu luồn sợi, mầu, dựa theo thớ vải ngang, dọc mà
các dân tộc khác thường làm. Người phụ nữ H‟mông thêu hoa văn không cần mẫu.
Chỉ dùng để thêu thường là sợi tơ tằm to, vừa bền sợi vừa bền màu. Đặc biệt sắc
màu óng nuột của tơ tằm làm vẻ đẹp của hoa văn thêm mượt mà. Phụ nữ H‟mông có
cái nhìn khái quát, giàu óc tưởng tượng, hoàn toàn dựa vào trí nhớ để thêu hoa văn.
Người thêu đã thuộc sẵn màu hoa mình thích, họ không cần nhìn mẫu mà vẫn thêu
được những môtip đẹp. Trước khi thêu, họ phải tính toán tỷ mỷ, đếm từng sợi chỉ,
nhớ từng kích thước hoa văn trong toàn bộ mảng trang trí. Vì vậy, ngay từ khâu dệt,
người H‟mông dệt tấm vải nền theo một kỹ thuật sao cho các sợi chỉ không quá xít,
dành các khoảng nhỏ thuận lợi cho việc đếm sợi, bố cục hoa văn. Kỹ thuật thêu hoa
văn rất phức tạp vì thêu ở mặt trái của vải nhưng hình mẫu lại nổi lên ở mặt phải, đòi
hỏi người phụ nữ kiên trì, cẩn thận vì sơ ý nhầm một mũi kim, mũi thêu đã sai lệch,
làm cho mảng trang trí không toàn vẹn.
Kỹ thuật vẽ mầu in sáp ong
Công cụ dùng vẽ mẫu in sáp là dar drangtaz (loại bút vẽ bằng đồng). Có ba
23


loại bút vẽ khác nhau: loại nét nhỏ dùng để tỉa tót hoa văn là đarnrơ ư, loại nét to vẽ
đường thẳng đường diềm là đarchang zsang z, loại dùng vẽ hình tròn, hoa văn con
ốc là đarzes kưr. Cách in hoa văn bằng sáp khá đơn giản. Sau khi nấu chảy sáp ong,
nhúng bút lông vào sáp, vẽ hoa văn lên vải lanh trắng. Vẽ xong đem vải đã in sáp đi
nhuộm chàm. Sau nhiều lần ngâm nhuộm, vải đã sấm màu thì đem vải nhúng vào
nước sôi, sáp ong tan ra để lại những hình hoa văn màu xanh lơ. Có nơi dùng khuôn
in sáp ong, các khuôn này làm bằng giấy do người H‟mông tự chế tạo được bồi khá
dày, trên khuôn in được đục lỗ theo hình các hoa văn khác nhau rồi đổ sáp ong lên
khuôn. Và sau đó tiến hành nhuộm chàm như cách in vẽ, nhưng cách này làm hạn

chế sự sáng tạo của nghệ nhân.
Kỹ thuật ghép vải
Kỹ thuật này được người phụ nữ H‟mông sử dụng để tạo thành các
băng dải, khoang vải màu khác nhau ở cổ áo, ống tay, nẹp ngực và cả khoang dài
gấu váy, vuông vải che váy (tạp dề). Kỹ thuật ghép vải không chỉ tạo ra các khoang
mảng màu mà còn tạo ra các đường nét hoa văn. Trên hình chữ nhật ở cổ áo người
H‟mông xuất hiện nhiều kiểu hoa văn hình học được tạo nên bằng kỹ thuật ghép vải.
Các đường nét hoa văn nhỏ, phức tạp ở yếm, cổ tay áo cũng đều là ghép vải. Vải
ghép thường có gam màu nóng hoặc vải trắng làm diềm nhỏ bao bọc cho các môtip
hoặc tự tạo thành một môtip riêng về hoa văn. Người H‟mông sử dụng một số miếng
vải đỏ, vàng tiết diện nhỏ từ 0,5 – 1cm được viền xung quanh vải nền tạo thành các
hình xếp nếp hoặc các đường viên môtíp chính. Người H‟mông còn sáng tạo nhiều
kiểu ghép vải. Kiểu đơn giản nhất là chọn miếng vải màu đỏ, vàng hình tam giác,
hình vuông, hình chữ nhật khâu lên gấu váy, mũi khâu giấu ở đằng sau miếng ghép
cùng với đệm lót và khâu gấp mép lên. Kiểu phức tạp là ghép các miếng vải thành
nhiều lớp với nhiều màu sắc khác nhau. Việc ghép những miếng vải này thường làm
từng lớp, mỗi lớp là một hoặc vài miếng vải cùng nhau, lớp dưới có diện tích lớn
hơn diện tích lớp trên.
Kỹ thuật ghép hạt cườm, nhựa, bạc
Ở một số khăn của người làm Saman hoặc mũ áo của những đứa trẻ cầu
tự thấy xuất hiện hình thức ghép gắn những đồng bạc trắng, đồng xu nhỏ, hạt
cườm…tạo cho những chiếc khăn, mũ áo này có vẻ đẹp độc đáo, rực rỡ nhưng mang
tính biểu tượng. Mũ trẻ nhỏ H‟mông Hoa ở Mường Khương, trên đỉnh đầu có thêu
hình mào gà trống, theo quan niệm người H‟mông thì gà trống là biểu tượng của vị
24


thần cửa chống ma ác vào nhà, bảo vệ sức khỏe cho trẻ nhỏ. Những quả bông đỏ
trên mũ, những sợi tua nhiều màu sắc tượng trưng cho cầu vồng ngăn thần rắn, ngăn
những ma ở thể giới nước.

Các kỹ thuật tạo hình trên thường được người phụ nữ H‟mông khéo léo
kết hợp với nhau tạo ra sự phong phú về hoa văn. Bên cạnh các đường vải ghép đậm
là đường thêu thanh mảnh, tạo cảm giác hoa văn luôn biến đổi liên tục. Kết hợp các
biện pháp kỹ thuật còn góp phần tạo hiệu quả về màu sắc. Màu xanh lơ nhạt của vải
in sáp trở thành màu trung gian, dung hòa với các màu đậm của vải ghép, chỉ thêu.
Nhờ vậy mà màu sắc, đường nét môtíp của hoa văn có sự chuyển động khá phong
phú, vui mắt và sống động.[3]
Trong giới hạn của đề tài này chúng tôi chỉ quan tâm đến kĩ thuật thêu.
1.2.1.3.4 Bố cục đồ án và màu sắc hoa văn trên trang phục người H’mông
Bố cục
Cũng như hoa văn nhiều dân tộc khác, hoa văn của dân tộc H‟mông có
bố cục thành dải: dải ngang và dải dọc. Mỗi dải hoa văn thường có bố cục ở giữa là
môtip hoa văn thêu chủ đạo khổ lớn, phía diềm các vải là hoa văn thêu có tiết diện
nhỏ, hẹp, bề ngang, dọc. Dải ngang hoa văn xuất hiện trên thắt lung, đầu tấm vải tạp
dề, nằm trên ống tay áo. Trên nền chàm của váy, dải ngang gấu váy rực rỡ hoa văn.
Bố cục dải dọc hoa văn in sáp ong chạy song song sát nhau trên thân váy, hay chạy
thành dọc trên tạp dề.
Tập trung các dải thành khối dày là đặc điểm của bố cục thành dải trên
nền trang phục của người H‟mông. Tạp dề ở phía trước và sau gồm nhiều dải dọc
chạy song song ken dày bên nhau tạo thành hai dải lớn. Thắt lưng là dải ngang lớn.
Gấu váy là dải ngang khổ rộng 15 – 20cm gồm nhiều môtíp hoa văn thêu ghép vải.
Các môtip hoa văn không phân tán mà kề sát bên nhau thành dải nhằm tôn thêm độ
dày của các khối hoa văn. Các dải tập trung thành mặt phẳng lớn, các môtip hoa văn
ở giữa có khổ lớn. Để tránh tình trạng các hoa văn bị tan trên nền váy chàm, chúng
thường dược dồn lại, chồng xít thành dải để trở thành một mảng lớn, vượt khỏi nền
chàm, rực rỡ trên nền vải dân tộc H‟mông. Điểm đáng chú ý là các băng dải này
được kết hợp với nhau thành nhiều kiểu khác nhau, có băng dải mỏng xen với dải
dày, có băng dải hoa văn nằm trên nền thêu, kề dải hoa văn ghép vải.
Bên cạnh bố cục thành dải, một số trang trí của người H‟mông còn có
bố cục thành ô. Ở đây các hình hoa bốn cánh, tám cánh hoặc móc câu được đóng

25


×