Tải bản đầy đủ (.doc) (142 trang)

QUẢN lý NHÀ nước về văn hóa từ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.31 KB, 142 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ ANH QUYẾT

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ ANH QUYẾT

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Vũ Công Giao

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS. TS. Vũ Công Giao. Các nhận định và kết luận trong luận
văn là trung thực, khách quan và chưa từng được công bố. Mọi trích dẫn từ
các tài liệu, được ghi xuất xứ rõ ràng, các sự kiện, tư liệu trong luận văn này
là trung thực. Nếu có gì sai sót, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Tác giả luận văn

Hà Anh Quyết


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
VĂN HÓA ........................................................................................................ 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về văn hóa .......... 7
1.2. Nội dung, và phương pháp quản lý nhà nước về văn hóa ................. 11
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về văn hóa...................... 18
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........... 29
2.1. Bối cảnh địa phương tác động đến quản lý nhà nước về văn hóa trên
địa bàn quận Hoàng Mai ........................................................................... 29
2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về văn hóa ở quận Hoàng Mai, Thành
phố Hà Nội ................................................................................................ 35
2.3. Tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực văn hóa ở quận Hoàng
Mai từ năm 2013 đến nay ......................................................................... 38
2.4. Đánh giá chung công tác quản lý nhà nước về văn hóa ở quận Hoàng
Mai ............................................................................................................ 51
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH

PHỐ HÀ NỘI................................................................................................. 59
3.1. Quan điểm về tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn
quận Hoàng Mai........................................................................................ 59
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn quận
Hoàng Mai................................................................................................. 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 79


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

1

BMNN

Bộ máy nhà nước

2

CCHC

Cải cách hành chính

3


HĐND

Hội đồng nhân dân

4

KT-XH

Kinh tế - xã hội

5

QLNN

Quản lý nhà nước

6

QLVH

Quản lý văn hóa

7

TTVHTTTT

Trung tâm văn hóa-Thông tin-Thể thao

10


UBMTTQ

Ủy ban mặt trận tổ quốc

9

UBND

Ủy ban nhân dân

11

VHTT

Văn hóa thông tin

8

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển xã hội loài người, bất cứ quốc gia nào trên thế giới
cũng có nền văn hóa mang sắc tộc riêng. Văn hóa là tích lũy qua quá trình lao động,
của tổng hòa các giá trị vật chất và tinh thần trong đời sống xã hội, được chọn lọc
qua lịch sử tuyền thống, phát triển của từng dân tộc, từng quốc gia. Ngày nay sự
phân biệt giữa quốc gia này với quốc gia khác không chỉ còn là đường biên giới, mà

đó là nền văn hóa mang đậm tính dân tộc với những sắc ấn riêng biệt, giao lưu và
tiếp biến về văn hóa sẽ diễn ra như một quy luật vận động của tự nhiên. Trên con
đường phát triển toàn cầu hóa của thế giới, “hội nhập mà không hòa tan”, văn hóa
Việt Nam không ngừng phát triển và giữ gìn đậm đà bản sắc dân tộc để tạo dấu ấn
với bạn bè quốc tế khắp năm châu.
Văn hóa Việt Nam là thành quả của quá trình lao động sáng tạo, đấu tranh
kiên cường của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là sự kết tinh lịch sử của hàng
nghìn năm dựng nước, giữ nước và là sự tiếp thu giao lưu, chọn lọc tinh hoa của các
nền văn minh thế giới. Chúng ta tự hào về nền văn hóa Việt Nam được giữ gìn và
bồi đắp ngày càng rạng rỡ của biết bao thế hệ cha ông với truyền thống yêu nước,
tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường, nhân ái, nghĩa tình, thủy chung luôn hướng
tới Chân, Thiện, Mỹ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khóa XI) đã xác định và đề cập đến vấn đề văn hóa theo nghĩa rộng và bao
quát về việc “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước”. Đồng thời, Nghị quyết đã chỉ ra các lĩnh vực cụ thể
của văn hóa, trong đời sống xã hội, từ đó xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam phát triển toàn diện, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa
học. Với tinh thần của Nghị quyết, văn hóa là sức mạnh nội sinh quan trọng, trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Đất nước ta đã đạt được một số thành tựu là nhờ sự giao lưu văn hóa mở
rộng quan hệ quốc tế với các quốc gia trên thế giới trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần củng cố và giữ gìn đậm bản sắc
1


văn hóa dân tộc Việt Nam. Bên cạnh những thành tựu đạt được về văn hóa trong
phát triển kinh tế thị trường, trên các phương tiện truyền thông, thông tin đại chúng
và dư luận xã hội hiện nay cũng phản ánh những tiêu cực trong lĩnh vực văn hóa
như: sự suy thoái về đạo đức, lối sống, tệ sùng ngoại, coi thường những giá trị văn

hóa truyền thống, thuần phong, mỹ tục, có nơi còn chạy theo xu hướng “thương mại
hóa”, tính giáo dục suy giảm..., một trong những nguyên nhân của thực trạng nói
trên là do công tác quản lý nhà nước (QLNN) về văn hóa ở các cấp, trong đó có cấp
quận, một cấp trung gian giữa phường và thành phố còn nhiều yếu kém, làm cho
việc QLNN về văn hóa, vốn đã phức tạp lại càng phức tạp hơn.
Hoàng Mai là một quận nằm ở cửa ngõ phía nam của Thủ đô Hà Nội, được
thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ năm 2004, có vị trí địa lý chiến lược
quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của thành phố. Công tác QLNN
về văn hóa trên địa bàn quận trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả quan
trọng, nhu cầu và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân ngày càng cao, công tác
quản lý đã đi vào nề nếp, nhiều văn bản hướng dẫn được ban hành từ lĩnh vực văn
hóa được thực thi, áp dụng có hiệu lực, hiệu quả trong thực tế, đóng vai trò to lớn,
có ý nghĩa sâu sắc đối với định hướng phát triển văn hóa của Thủ đô.
Tuy nhiên trên địa bàn quận Hoàng Mai, công tác QLNN về văn hóa vẫn còn
nhiều khó khăn, bất cập so với nhu cầu thực tiễn, đòi hỏi công tác quản lý cần có sự
đổi mới. Những hạn chế yếu kém trong công tác quản lý là một trong những nguyên
nhân dẫn đến môi trường văn hóa bị nhiễm độc bởi các sản phẩm “Tây hóa”, dịch
vụ văn hóa độc hại, học đòi, phần nào làm giảm sút, làm suy yếu các chức năng văn
hóa. Việc xây dựng thể chế văn hóa, thực thi các văn bản pháp luật, các chính sách
trên lĩnh vực văn hóa còn chậm, thiếu đồng bộ, các cơ quan chức năng quản lý và
một số cán bộ còn yếu kém, làm hạn chế trong công tác QLNN về văn hóa. Thực
trạng đó đặt ra yêu cầu cấp thiết với việc tăng cường QLNN về văn hóa, góp phần
trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, giải quyết mối quan hệ giữa
phát triển văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội; đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân
dân, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; quản lý văn hóa ở cấp quận tốt để
phát triển kinh tế xã hội trong quá trình đô thị hóa.


Là một học viên học ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính hiện đang
công tác tại cơ quan thuộc lĩnh vực văn hóa, thông tin và thể thao của quận Hoàng

Mai, vì vậy tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước về văn hóa từ thực tiễn quận Hoàng
Mai, Thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp, với mong muốn góp phần tìm ra
những giải pháp phù hợp nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả QLNN về văn hóa,
giúp cho Đảng bộ, chính quyền các cấp ở quận Hoàng Mai định hướng đúng, quản
lý tốt các hoạt động văn hóa, đáp ứng các yêu cầu trong tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề QLNN về văn hóa đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu được
công nhận và ứng dụng hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn ở nước ta. Kết quả nghiên
cứu của nhiều công trình khoa học về vấn đề này đã được công bố trên các sách,
báo, tạp chí, luận văn, luận án và các ấn phẩm khoa học… đề tài ở lĩnh vực này đã
thu hút nhiều cơ quan và các nhà khoa học nghiên cứu.
Sau đây là những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận văn:
Cuốn “Bản sắc văn hóa Việt Nam” của GS. Phan Ngọc (1998); “Cơ sở văn hóa
Việt Nam và tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của GS.TS. Trần Ngọc Thêm
(1999); “Phát triển toàn diện con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” của GS. Viện sĩ Phạm Minh Hạc (2001), Nxb Chính trị Quốc gia; “Phát triển
văn hóa trong thời kỳ đổi mới” của GS. TS. Đinh Xuân Dũng (2001), Nxb Thời
Đại; Đề tài “Hệ quan điểm về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển” của GS. TS
Hồ Tôn Trinh đã nêu lên cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu vấn đề văn
hóa và phát triển trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của thế giới và dựa vào quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Đề tài “Cơ sở phương
pháp luận của việc nghiên cứu và phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực
trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhâp kinh tế” của GS. TS Hồ
Sĩ Quý. Các cuốn sách “Phương pháp luận về vai trò của văn hóa trong phát triển”
đã đề cập đến phương pháp luận nghiên cứu văn hóa dưới góc nhìn khác nhau với
sự tham gia của các tác giả Trần Văn Giàu với bài “Phương pháp luận về vấn đề
văn hóa và phát triển”, tác giả Trường Lưu có bài “Mấy vấn đề phương pháp luận
về văn hóa và con người trong sự phát triển văn hóa”; Các bài viết về“Cơ sở khoa



học, thực tiễn của chính sách văn hóa trong kinh” của GS.TS. Trần Ngọc Hiên
đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 20/2006; “Đẩy mạnh xây dựng và nâng cao chất
lượng đời sống văn hóa cơ sở” của tác giả Lê Doãn Hợp đăng trên Tạp chí Cộng
sản, số 773/2007; “Chính quyền địa phương với việc xây dựng đời sống văn hóa ở
cơ sở” của Nguyễn Đức Mạnh đăng trên Tạp chí Cộng sản chuyên đề cơ sở, số
4/2008; “Văn hóa Việt Nam, đã đến lúc bừng nở sức mạnh tiềm ẩn” của GS.TSKH.
Trần Ngọc Thêm, trên www.vietimes.com.vn (03/4/2008); “Văn hóa và phát triển vấn đề chiến lược cấp bách ở nước ta hiện nay” của GS.TS Trần Ngọc Hiên đăng
trên Tạp chí Cộng sản ngày 09/8/2016; “Xây dựng văn hóa gia đình - cái gốc của
việc xây dựng con người và xây dựng xã hội văn hóa, đạo đức, văn minh” của Ths
Nguyễn Đức Mạnh đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 07/12/2016... và nhiều công
trình khác.
Tuy nhiên, vấn đề QLNN về văn hóa từ thực tiễn quận Hoàng Mai, Thành phố
Hà Nội hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp, toàn diện.
Vì vậy, luận văn này nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải
pháp, kiến nghị nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả QLNN về văn hóa trên địa bàn
quận Hoàng Mai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Luận văn có mục đích tổng quát là xây dựng luận
cứ khoa học cho các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về văn hóa tại quận
Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội nói riêng, trên địa bàn cả nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và
pháp luật liên quan đến QLNN trên lĩnh vực văn hóa, nội dung của quản lý văn hóa
cấp quận trong quá trình đô thị hóa của các Thành phố ở Việt Nam.
- Khảo sát, đánh giá, tìm nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế, thực
trạng trong QLNN về văn hóa tại quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.
- Xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN
về văn hóa tại quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội nói riêng, trên địa bàn quận,
huyện cả nước nói chung.



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quan điểm về QLNN trong lĩnh vực văn hóa ở Việt Nam.
- Các quy định của pháp luật trong hoạt động QLNN về văn hóa tại Việt Nam.
- Thực tiễn công tác QLNN về văn hóa ở quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.
- Kinh nghiệm QLNN về văn hóa của một số địa phương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt
động QLNN về văn hóa ở một số lĩnh vực như: Hệ thống bộ máy quản lý văn hóa,
hoạt động quản lý công tác tuyên truyền xây dựng đời sống văn hóa, quản lý công
tác bảo tồn di tích và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, quản lý các hoạt
động nghệ thuật, văn nghệ quần chúng, quản lý hoạt động thư viện, đọc sách báo,
quản lý công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, quản lý công tác xây dựng các
thiết chế văn hóa thông tin cơ sở, quản lý hoạt động kinh doanh các sản phẩm và
dịch vụ văn hóa.
- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động QLNN về văn hóa tại
quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội. Luận văn có nghiên cứu so sánh với một số
địa phương khác có những nét tương đồng với quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.
- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu QLNN về văn hóa trên địa bàn quận
Hoảng Mai trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài là những luận điểm trong học thuyết
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa kiến trúc
thượng tầng và hạ tầng kinh tế; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
đường lối đổi mới lĩnh vực văn hóa, các Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt
Nam và các Nghị quyết Hội nghị Trung ương cũng như các văn bản pháp luật đối
với công tác QLNN về văn hóa. Đồng thời, tác giả có tham khảo và kế thừa có
chọn lọc một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học liên quan đến lĩnh
vực văn hóa.



5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp cụ thể được tác giả sử dụng trong luận văn bao gồm:
Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương
pháp hệ thống, phương pháp so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn củng cố cơ sở lý luận khoa học về quản lý văn hóa thông qua việc
phân tích tình hình thực tế ở cấp cơ sở (quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội) và đề
xuất các quan điểm, giải pháp làm rõ hơn một số vấn đề lý luận cụ thể về quản lý
văn hóa ở cấp quận, huyện của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần hệ thống hóa đầy đủ về lý luận, những quy định của pháp
luật, thực trạng trong QLNN về văn hóa, có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
công tác lãnh đạo thực tiễn của quận và cấp cơ sở đối với lĩnh vực văn hóa; đồng
thời kiến nghị một số giải pháp, quy định của pháp luật liên quan đến việc QLNN
về văn hóa ở cấp quận, huyện của cả nước hiện nay. Luận văn có thể được sử dụng
làm học liệu tham khảo cho việc giảng dạy luận hiến pháp và luật hành chính ở Học
viện KHXH Việt Nam và các cơ sở đào tạo luật khác ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo, nội dung luận văn gồm
3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về văn hóa.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn quận Hoàng
Mai, Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa trên
địa bàn quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về văn hóa
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về văn hóa
Để định nghĩa được tổng thể khái niệm “QLNN về văn hóa”, đầu tiên cần giải
đáp câu hỏi: Thế nào là QLNN? và Văn hóa là gì?
Thứ nhất, QLNN hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ mọi hoạt động của nhà nước
nói chung, mọi hoạt động mang tính chất nhà nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ,
chức năng của nhà nước. Hiểu theo nghĩa hẹp là hoạt động quản lý do một loại cơ
quan đặc biệt thực hiện mà Hiến pháp và pháp luật nước ta gọi là các cơ quan hành
chính nhà nước, còn gọi là hoạt động chấp hành và điều hành nhà nước, hay thường
gọi đơn giản là hoạt động chấp hành và điều hành [23, tr.11-13].
Thứ hai, khái niệm văn hóa theo Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Khoa học
Xã hội xuất bản năm 1997 thì “Văn hóa bao gồm các thành tố về những thành tựu
của loài người trong sản xuất, xã hội và tinh thần; sự hiểu biết về sự vật hay cách
xử thế tích lũy bằng việc học tập có hệ thống hoặc thấm nhuần đạo đức và các phép
tắc lịch sự, văn minh” [41, tr.1154].
Điều đó có nghĩa là văn hóa bao hàm các giá trị truyền thống, hướng con
người trong hiện tại và tương lai đến Chân, Thiện, Mỹ. Theo định nghĩa của
UNESCO: Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của cá nhân và
cộng đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình
thành nên hệ thống giá trị, truyền thống, thị hiếu - những đặc tính của dân tộc. Như
vậy định nghĩa này, không chỉ thể hiện các giá trị truyền thống do con người sáng
tạo trong quá khứ mà cả trong hiện tại nhưng mang đặc tính riêng của từng quốc gia,
dân tộc. [30, tr.8]
Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chia sẻ định nghĩa sau đây về văn hóa:
“Văn hóa là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra nhờ
lao động và hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và phát triển con
người, nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người và thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội”

[7, tr.81-81].


Từ những quan niệm về QLNN về văn hóa có thể đúc kết lại rằng: QLNN về
văn hóa là “Sự quản lý của một Nhà nước đối với toàn bộ hoạt động văn hóa của
quốc gia bằng quyền lực của nhà nước thông qua Hiến pháp, pháp luật và các cơ
chế, chính sách nhằm đảm bảo sự phát triển của nền văn hóa” [30, tr.9].
Về bản chất: QLNN về văn hóa là sự định hướng, tạo điều kiện, tổ chức điều
hành của nhà nước, làm cho văn hóa phát triển theo hướng có ích cho con người,
giúp cho xã hội không ngừng đi lên.
“QLNN về văn hóa có thể hiểu theo nghĩa rộng, bao quát các hoạt động quản
lý của cả bộ máy nhà nước, bao gồm hoạt động lập pháp của Quốc hội, hoạt động
hành pháp của Chính phủ và các tổ chức hành chính địa phương và hoạt động tư
pháp của Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân.
Tuy nhiên thông thường, QLNN về văn hóa được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là
hoạt động quản lý của các cơ quan hành pháp, của các tổ chức hành chính nhà nước
từ Trung ương đến địa phương trong lĩnh vực văn hóa” [30, tr.9].
1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về văn hóa
Khác với QLNN trên các lĩnh vực khác với ý nghĩa là sự định hướng lập kế
hoạch, điều hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá trên lĩnh vực văn hóa,
QLNN về văn hóa còn có một số đặc điểm riêng biệt sau đây:
Thứ nhất, QLNN về văn hóa là quản lý bằng pháp luật từ Trung ương đến địa
phương với mục đích cuối cùng là quản lý tất cả các mặt của văn hóa một cách hài
hòa, chuẩn mực và đúng đắn nhất.
Thứ hai, QLNN về văn hóa cũng không thể đơn tuyến. Văn hóa có cơ sở là
kinh tế xã hội, luôn luôn gắn liền với kinh tế xã hội. Kinh tế xã hội của một quốc
gia càng phát triển thì nền văn hóa cũng đứng trước những biến động ngay trong nội
tại văn hóa dân tộc đó, cũng như những làn sóng tác động từ văn hóa nước ngoài.
Chính vì vậy bắt buộc QLNN về văn hóa phải thay đổi tùy theo sự phát triển của
nền kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, giữa kinh tế và văn hóa không phải lúc nào cũng

phát triển theo cùng một hướng, mà còn do phản ánh của văn hóa đối với sự phát
triển xã hội. Bởi vậy, QLNN về văn hóa không thể là sự dịch chuyển đơn thuần của
mô hình quản lý kinh tế - xã hội.


Thứ ba, “QLNN về văn hóa khác với QLNN về hoạt động kinh tế kỹ thuật,
khi giá trị các hoạt động văn hóa không chỉ căn cứ ở số lượng thành phẩm, mà chủ
yếu ở tính sáng tạo, ở cái mới vun đắp cho tâm hồn con người, giúp cho con người
(trong những hoàn cảnh cụ thể, xác định) lớn lên, vươn lên trước sự đòi hỏi tính
mới phát triển của xã hội hiện tại. Bên cạnh những giá trị vật chất hữu hình, QLNN
về văn hóa còn quản lý, bảo tồn, duy trì và phát huy những giá trị tinh thần phi vật
chất mang lại trong đời sống xã hội” [30, tr.10].
Thứ tư, QLNN về văn hóa căn cứ vào những hoàn cảnh cụ thể, những trường
hợp cụ thể để xem xét chứ không theo lối tư duy dập khuôn, cứng nhắc, bởi vì văn
hóa là sự sáng tạo, lựa chọn, chọn lọc của quần chúng nhân dân được thực hiện
thông qua các đại biểu của mình là văn nghệ sĩ. Vì vậy, để định hướng, tổ chức điều
hành, tạo điều kiện cho văn hóa phát huy, phát triển không ngừng theo hướng Chân,
Thiện, Mỹ, việc QLNN về văn hóa sẽ giúp ích cho con người, giúp cho xã hội, cho
nhân loại ngày càng phát triển đúng với quy luật tự nhiên.
Thứ năm, “QLNN về văn hóa theo nghĩa hẹp là quản lý cái phần tĩnh, cái bề
nổi còn quản lý phát triển văn hóa là quản lý cái phần động, phần chìm, cái phần
nảy sinh, tương tác trong sự vận động của đời sống văn hóa. Theo nghĩa rộng, nếu
xem xét văn hóa là tổng thể những giá trị mà con người đã sáng tạo và tích lũy trong
quá trình hoạt động thực tiễn nhằm cải biến tự nhiên, xã hội và bản thân thì quản lý
phát triển văn hóa mới là chức năng đích thực của QLNN về văn hóa” [ 30, tr.10].
QLNN về văn hóa về thực chất là sự tác động vào quá trình hình thành và vận
động của hệ giá trị theo những mục tiêu định sẵn, nhưng vẫn có sự chuyển đổi dưới
tác động của không gian, thời gian và chủ thể đối với hệ giá trị vốn đã ổn định.
1.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước về văn hóa
Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội, là năng lực sáng

tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người, là trụ cột phát triển bền vững của mỗi
quốc gia, dân tộc và nhân loại.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, văn hóa càng được khẳng định, có vai
trò quan trọng, nhất là trong điều tiết, cân bằng sự phát triển của đất nước, không để
tốc độ sự phát triển nhanh, dẫn tới những hệ lụy khó lường về văn hóa và cả về kinh


tế, xã hội, v.v.v.... Trong sự tồn tại và phát triển của văn hóa thì quản lý văn hóa
đóng vai trò rất quan trọng. Một quốc gia có nền tảng văn hóa hòa nhập và phát
triển thì nhân dân phát huy được sức sáng tạo, bản sắc văn hóa và sức mạnh khối
đại đoàn kết của toàn dân tộc.
Thứ nhất, “trên phương diện vĩ mô, QLNN về văn hóa sẽ góp phần định
hướng, điều chỉnh sự phát triển của văn hóa quốc gia, giúp hiện thực hóa các chủ
trương, đường lối văn hóa của Đảng cầm quyền, từ đó tác động đến mục tiêu, bản
chất của văn hóa dân tộc” [ 30, tr.11].
Thứ hai, “trên phương diện vi mô, QLNN về văn hóa giúp tạo ra sự ổn định và
đồng thuận trong xã hội thông qua hoạt động quản lý văn hóa trong các lĩnh vực,
địa bàn, nhóm dân cư cụ thể là sẽ giúp kiểm soát sự tùy tiện, sai lệch trong khi thực
thi các cơ chế, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. QLNN về văn hóa
tốt sẽ giúp xây dựng, hoàn thiện thể chế văn hóa ngày càng được kiện toàn theo
hướng thiết thực, hiệu quả” [ 30, tr.11].
QLNN về văn hóa tốt đồng nghĩa với việc xây dựng, ban hành hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật đồng bộ, có giá trị pháp lý cao trên lĩnh vực văn hóa, tạo
điều kiện để hoạt động quản lý ngày càng thuận lợi, qua đó, tạo điều kiện cho sự
tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong kinh doanh và hoạt động văn hóa,
khuyến khích sự mở cửa, giải phóng các nguồn lực, huy động được sự tham gia của
toàn xã hội chung tay xây dựng và phát triển văn hóa.
Thứ ba, “QLNN về văn hóa hình thành nên các chuẩn mực giá trị xã hội, lành
mạnh hóa các quan hệ xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Điều này thể hiện qua, các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp được bảo tồn và phát

huy, bản sắc văn hóa dân tộc không bị mai một, hòa tan trong quá trình hội nhập và
toàn cầu hóa. QLNN về văn hóa đảm bảo các giá trị văn hóa mới, tiến bộ được xác
lập, củng cố trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái đẹp của văn hóa nhân
loại đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao và đa dạng của người dân” [
30,tr.12].
Cơ chế QLNN về văn hóa tốt không chỉ đáp ứng nhu cầu của người dân mà
còn, khuyến khích được sức sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của các chủ thể văn hóa,
tạo điều kiện gia tăng và đa dạng hóa các sinh hoạt văn hóa và loại hình giải trí. Nói


cách khác, QLNN về văn hóa cần khuyến khích được nhiều nguồn lực tham gia xây
dựng và phát triển văn hóa đất nước.
Thứ tư, “QLNN về văn hóa cũng làm cho văn hóa trở thành một tác nhân kích
thích sự phát triển kinh tế - xã hội của nhiều địa phương. Thông qua hoạt động
QLNN về văn hóa, chính văn hóa trở thành một lĩnh vực có giá trị kinh tế, mang lại
lợi nhuận, góp phần nâng cao đời sống người dân, ổn định an ninh xã hội và văn
hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế - xã hội chứ
không đơn thuần của một lĩnh vực bị xem là chủ yếu mang chức năng tuyên truyền
và giáo dục.
1.2. Nội dung, và phương pháp quản lý nhà nước về văn hóa
1.2.1. Nguyên tắc quản lý nhà nước về văn hóa
Nguyên tắc QLNN về văn hóa là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo tổ chức
và hoạt động QLNN trên lĩnh vực văn hóa theo một thể thống nhất.
QLNN về văn hóa phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Đảng lãnh đạo hoạt động văn hóa thông
qua các quan điểm, chủ trương, chính sách thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết,
chỉ thị; thông qua việc xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ của Đảng tham gia vào bộ
máy chính quyền nhà nước.
Thứ hai, nguyên tắc Nhà nước quản lý. Nguyên tắc này thể hiện qua việc thực
hiện quyền lực của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa thể hiện qua Hiến pháp, luật và

các văn bản dưới luật để quản lý, xây dựng bộ máy QLNN từ Trung ương đến địa
phương, xây dựng cơ chế chính sách, bộ máy cán bộ công chức, viên chức nhà nước
để thực thi các nhiệm vụ về văn hóa.
Thứ ba, nguyên tắc nhân dân làm chủ. Nhân dân làm chủ hoạt động văn hóa
thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các đoàn thể chính trị xã hội…từ
đó nhân dân tham gia xây dựng, đóng góp và giám sát việc thực hiện công tác quản
lý văn hóa của nhà nước.
Thứ tư, nguyên tắc phân định quản lý hành chính và quản lý sự nghiệp văn
hóa. Nguyên tắc này thể hiện ở sự phân định rõ chức năng quản lý hành chính nhà
nước về văn hóa thông tin, bộ, vụ, cục, UBND tỉnh, sở, phòng…quản lý bằng luật


pháp, phi lợi nhuận và chức năng hoạt động sự nghiệp văn hóa của các đơn vị sự
nghiệp văn hóa từ Trung ương đến địa phương như: nhà hát, các đoàn nghệ thuật,
bảo tàng, thư viện, trung tâm văn hóa thông tin, viện nghiên cứu”.
1.2.2. Nội dung của quản lý nhà nước về văn hóa
QLNN về văn hóa là hoạt động của bộ máy nhà nước trong lĩnh vực hành
pháp nhằm giữ gìn, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nói cách khác:
“QLNN về văn hóa là quản lý các hoạt động văn hóa bằng chính sách và pháp luật”.
Hoạt động QLNN về văn hóa bao gồm các mảng cơ bản sau:
- QLNN đối với văn hóa nghệ thuật;
- QLNN đối văn hóa xã hội;
- QLNN đối với di sản văn hóa.
* Hoạt động QLNN về văn hóa bao gồm những nội dung sau:
1.2.2.1. Hoạt động xây dựng, ban hành các chính sách và văn bản pháp luật
về văn hoá
“Chính sách văn hoá được hiểu là tổng thể những nguyên tắc thể hiện tư tưởng
chủ đạo của Nhà nước về đường lối, phương hướng xây dựng và phát triển nền văn
hoá. Chính sách văn hoá đặt ra các nguyên tắc chung của sự nghiệp phát triển văn
hoá, phù hợp với mục tiêu phát triển văn hoá chung của đất nước” [ 30, tr.14].

Các chính sách về quản lý và phát triển văn hoá hiện nay có thể kể đến: sáng
tạo các giá trị văn hoá; bảo tồn, phát huy tài sản văn hoá; phát triển văn hoá cơ sở;
giao lưu văn hoá quốc tế; hiện đại hoá kỹ thuật và phương thức sản xuất, phân phối
sản phẩm văn hoá; đào tạo, phát triển đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ ; đảm bảo ngân
sách, điều kiện pháp lý cho phát triển văn hoá; nâng cao tính tự quản và phân cấp
quản lý văn hoá...
Chính sách văn hoá có ý nghĩa quan trọng trong công tác QLNN về văn hoá,
song chính sách văn hoá không thể thay thế pháp luật. Nhà nước ban hành các văn
bản pháp luật về văn hoá nhằm phát huy tác dụng của văn hoá tới sự hình thành
nhân cách, nâng cao chất lượng cuộc sống tinh thần của con người.
- Trong QLNN về văn hoá nghệ thuật, “Nhà nước ban hành các chính sách
phát triển văn hoá sâu rộng trong quần chúng nhân dân, phát huy khả năng sáng tạo.


Bên cạnh đó Nhà nước còn thực hiện chính sách bảo trợ vật chất ở mức độ khác
nhau cho những loại hình văn hoá nghệ thuật không tự tồn tại và phát triển trong
quan hệ kinh tế thị trường như sân khấu tuồng cổ, nghệ thuật chèo...Tuy nhiên, để
tạo điều kiện cho mọi công dân có quyền bình đẳng trong nghiên cứu khoa học kỹ
thuật và sáng tạo nghệ thuật thì phải được quy định rõ trong luật” [ 30, tr.14].
Ví dụ, các Điều 60, 62 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước, xã hội phát triển
văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của
Nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu
thông tin của Nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; “Nhà
nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển,
chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo đảm
quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ”.
- Trong QLNN về văn hóa - xã hội, “Nhà nước ban hành các chính sách nhằm
ổn định trật tự xã hội, giữ gìn những nét đẹp của văn hóa truyền thống, xây dựng
nếp sống văn hóa mới” [30,tr.15].
Bên cạnh, Nhà nước cũng ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định những

khuôn mẫu ứng xử trong xã hội như Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn
nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; Nghị định
số 110/2018/NĐ-CP ngày 29/8/2018 của Chính phủ quy định về quản lý và tổ chức
lễ hội; hay Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 09/02/2018 của Thủ tướng chính phủ về
“Đâỷ mạnh thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang”.
- Trong QLNN về di sản văn hóa, “Nhà nước ban hành các chính sách và pháp
luật để phát triển sự nghiệp, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa” [ 30,tr.15].
Luật Di sản văn hóa năm 2001 là một văn bản pháp lý quan trọng đối với việc
áp dụng và thực hiện pháp luật để gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc.
1.2.2.2. Hoạt động của tổ chức bộ máy các cơ quan QLNN về văn hóa
“Cơ quan có chức năng QLNN về văn hóa là Chính phủ; Bộ Văn hóa - Thể
thao và du lịch (cấp Trung ương); UBND là cơ quan hành chính nhà nước ở địa


phương thực hiện chức năng QLNN về văn hóa trong địa phương mình theo quy
định của pháp luật” [ 30,tr.15].
Hoạt động này bao gồm các công việc như đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; xây
dựng và chỉ đạo quy hoạch; ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp quy;
hướng dẫn, tuyên truyền; thẩm định; cấp giấy phép, giấy chứng nhận. Đây là những
hoạt động trên thực tế để thực hiện các chức năng QLNN về văn hóa theo mục đích
và nhiệm vụ đã đặt ra. Ngoài ra, hoạt động đầu tư tài chính cho văn hóa cũng đóng
vai trò đặc biệt quan trọng. Trong đầu tư tài chính cho văn hóa, xuất phát từ vấn đề
quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực nên Nhà nước chú trọng đầu tư ngân sách
cho giáo dục.
“Đầu tư cho hoạt động văn hóa với tư cách là đầu tư cho hoạt động sản xuất,
cần được tính toán đến hiệu quả, cần xem văn hóa cũng làm ra lợi nhuận cho nhà
nước, cho nhân dân, đồng thời cũng cần tận dụng cơ chế thị trường cho sự phát triển
văn hóa đúng hướng” [30, tr.16].
1.2.2.3. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực văn hóa

Đây là hoạt động có vai trò quan trọng của công tác QLNN về văn hóa. Hoạt
động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của cơ quan kiểm duyệt và thanh tra văn hóa
có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi vì văn hóa có mối quan hệ trực tiếp với chính trị,
nó có tác động trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Trong xu hướng xã hội hóa văn hóa hiện nay, các tác động tiêu cực nảy sinh
ngày càng nhiều, vì vậy, hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý phải được chú trọng
nhằm chủ động phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời, nghiêm khắc các sai phạm,
nắm bắt các vấn đề nảy sinh trong hoạt động văn hóa, gia đình, thể dục thể thao tại
địa phương và thông tin công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng liên quan xử lý vi phạm, thực hiện nghiêm
minh, đúng quy định pháp luật, chấn chỉnh kịp thời các hành vi, vi phạm, đặc biệt
chú trọng một số lĩnh vực di sản văn hóa, lễ hội và các hoạt động kinh doanh dịch
vụ văn hóa. Thông qua thanh tra, kiểm tra để nâng cao vai trò QLNN cũng như ý
thức chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động văn hóa.


1.2.2.4. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, tổng kết đánh giá,thi đua khen thưởng
trong lĩnh vực văn hóa
Trong QLNN trên bất cứ lĩnh vực nào cũng có khiếu nại và tố cáo, bởi vì
thông qua QLNN mọi hoạt động có liên quan của con người đều được pháp luật
điều chỉnh hành vi nhằm đạt được hành vi chuẩn mực nhất. Lĩnh vực văn hóa cũng
tồn tại những khiếu nại, tố cáo trong quá trình thực thi pháp luật. Vì vậy, Nhà nước
ban hành hệ thống các luật và các văn bản quy phạm dưới luật để quản lý và giải
quyết khiếu nại tố cáo của công dân và tổ chức nói chung, trong đó có khiếu nại, tố
cáo liên quan đến lĩnh vực văn hóa.
“Hiện tại, để giải quyết khiếu nại, tố cáo có Luật tếp công dân 2013, Luật
khiếu nại 2011, Luật tố cáo 2018, Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật sở hữu trí
tuệ, Luật Điện ảnh, Luật Di sản văn hóa, Luật Du lịch, Luật Thể dục thể thao, Luật
Quảng cáo, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật bình đẳng giới, Pháp lệnh
Thư viện...[ 30, tr. 17].

Căn cứ vào hệ thống pháp luật này, các cơ quan chức năng trong lĩnh vực văn
hóa, cơ quan QLNN về văn hóa có trách nhiệm giải quyết theo thẩm quyền những
nội dung đơn thư khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm khi có sai phạm xảy ra. Ví dụ,
tại Điều 68, chương V, Luật di sản văn hóa 2001 quy định: “1. Tổ chức, cá nhân có
quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc thi hành pháp luật về di sản
văn hoá. 2. Cá nhân có quyền tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật về di sản văn
hoá với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. 3. Thẩm quyền, thủ tục giải
quyết khiếu nại, tố cáo và khởi kiện được thực hiện theo quy định của pháp luật”;
hoặc, Điều 70 chương V, Luật Di sản văn hóa 2001 quy định: “Người nào phát hiện
được di sản văn hoá mà không tự giác khai báo, cố tình chiếm đoạt hoặc có hành
vi gây hư hại, huỷ hoại thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường
theo quy định của pháp luật; di sản văn hoá đó bị Nhà nước thu hồi”.
Hiện nay, tến trình xã hội hóa văn hóa của nước ta đang gây ra nhiều tác động


têu cực do điều kiện phát triển kinh tế thị trường, vì vậy hoạt động thanh tra, kiểm


tra, xử lý vi phạm về lĩnh vực văn hóa cần được quan tâm và cần phải có chương
trình, kế hoạch, tổ chức thực hiện nghiêm túc đúng quy định pháp luật. Cần có sự
phân công, quy trách nhiệm và cơ chế phối hợp rõ ràng giữa các cơ quan, bộ, ban,
ngành trong việc giải quyết tố cáo, khiếu nại và xử lý sai phạm trong hoạt động
QLNN về lĩnh vực văn hóa, để hoạt động này đạt kết quả tốt theo đúng chức năng
nhiệm vụ đặt ra.
1.2.3. Hính thức, phương pháp quản lý nhà nước về văn hóa
“Hình thức QLNN về văn hóa là sự biểu hiện ra bên ngoài của hoạt động
quản lý, thống nhất về nội dung, tnh chất, phương thức tác động của nhà
nước đối với toàn bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa của quốc gia bằng

quyền lực của nhà nước thông qua Hiến pháp, pháp luật và các cơ chế, chính
sách nhằm đảm bảo, phát triển của nền văn hóa. Trong khái niệm này chúng
ta cần chú ý các nội dung sau” [30, tr.17]
- Hình thức QLNN về văn hóa do chủ thể quản lý hành chính nhà nước, mà
chủ yếu là do các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và những người có thẩm
quyền trong các cơ quan này sử dụng để tác động đến đối tượng quản lý là các cá
nhân và tổ chức trong lĩnh vực văn hóa nhằm đạt được những hành vi xử sự cần
thiết. Hình thức QLNN về văn hóa do pháp luật quy định về thẩm quyền trình tự
thủ tục. Vì vậy việc quyết định sử dụng hình thức QLNN nào, các chủ thể quản lý
phải căn cứ vào các quy định liên quan của pháp luật [21, tr48 ].
- QLNN về văn hóa được thể hiện ra bên ngoài dưới nhiều hoạt động cụ thể
khác nhau, tuy nhiên hình thức QLNN chỉ là những nhóm hoạt động có cùng nội
dung, tnh chất và phương thức tác động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quản lý tác động lên cá nhân, tổ chức, cơ quan hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, ví
dụ, Nhà nước ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tến hành các hoạt động tổ
chức trực tếp đến lĩnh vực văn hóa...
“Phương pháp QLNN về văn hóa là cách thức thực hiện quyền lực nhà nước
trong lĩnh vực văn hóa. Những phương pháp quản lý của các cơ quan hành chính


nhà nước được thể hiện dưới những hình thức QLNN nhất định và được tến hành
trong giới hạn do pháp luật quy định” [ 30, tr.19].


Khác với các tổ chức chính trị, chính trị xã hội khi thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình các chủ thể QLNN về văn hóa đại diện cho nhà nước, mang quyền lực
nhà nước, vì vậy khác với phương pháp quản lý các tổ chức xã hội chủ yếu là thuyết
phục, phương pháp QLNN về văn hóa không chỉ là thuyết phục đối tượng quản lý
mà còn thực hiện bằng mệnh lệnh hành chính thông qua văn bản, bằng sự
cưỡng bức thông qua các biện pháp cưỡng chế do luật định.

- Quản lý của cơ quan hành chính nhà nước được thể hiện bằng các hình
thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thực hiện các hoạt động khác mang
tnh pháp lý.
- Phương pháp QLNN về văn hóa phải được tiến hành trong khuôn khổ của
pháp luật, nhất là những phương pháp có tính chất hạn chế quyền của đối
tượng quản lý. Những phương pháp này về thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng
được pháp luật quy định chặt chẽ.
Để QLNN về văn hóa đạt hiệu quả cao, cần chú ý đến các yếu tố sau đây:
Thứ nhất, phải xây dựng được một hệ thống thể chế làm công cụ cho
Nhà nước quản lý về văn hóa và công tác tư tưởng văn hóa. Chính sách cho văn
hóa không thể thay thế luật pháp trong quản lý văn hóa. Quản lý theo đúng luật
vừa đảm bảo cho hoạt động văn hóa ngày càng đạt được những mục têu đã định,
đồng thời góp phần quan trọng vào việc duy trì, đảm bảo kỷ cương xã hội. Tuy
nhiên, cùng với pháp luật, Nhà nước cũng cần tăng cường quản lý văn hóa bằng hệ
thống chính sách. Đó chính là tổng thể các nguyên tắc hoạt động, các hình thức,
phương pháp quản lý, các yếu tố tác động làm cơ sở cho hoạt động văn hóa và
quản lý văn hóa.
Thứ hai, phải quan tâm đúng mức việc đầu tư tài chính cho văn hóa và xây
dựng mạng lưới thiết chế văn hóa. Đầu tư tài chính cho văn hóa là đầu tư cho phát
triển, nguồn đầu tư cho văn hóa được triển khai theo hai hướng: tạo nguồn đầu tư
từ phía Nhà nước, từ các tổ chức kinh tế - xã hội và tư nhân. Đồng thời đầu tư cho
văn hóa cũng chính từ bản thân văn hóa tái đầu tư cho văn hóa. Trong chính sách
đầu tư, phải xác định rằng quan niệm "Nhà nước đầu tư ngân sách cho văn


hóa" không đồng nghĩa với quan niệm "Nhà nước đầu tư cho Bộ, ngành mang tên
văn hóa"[21]. Từ xưa ở Việt Nam, Đình làng là thiết chế văn hóa của cộng đồng
làng xã, Chùa là



×