Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Pháp luật về đầu tư thành lập mới doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.08 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THÀNH LẬP MỚI
DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THÀNH LẬP MỚI
DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS BÀNH QUỐC TUẤN
Sinh viên thực hiện:



LÊ NHẬT MAI THẢO

MSSV: 1511271290

Tp. Hồ Chí Minh - 2018

Lớp: 15DLK12


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu nhà
trường, quý Thầy Cô Khoa Luật, quý Thầy Cô trường Đại học Công nghệ Thành
phố Hồ Chí Minh đã tận tụy truyền đạt cho tác giả nguồn kiến thức sâu rộng.
Và hơn hết, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Bành Quốc Tuấn
đã không ngại thời gian quý báu để chỉ dẫn, giúp đỡ tác giả về kiến thức, tài liệu
cũng như là phương pháp trong suốt thời gian qua để tác giả hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp này.
Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn đến gia đình đã luôn ủng hộ, động viên
và tạo điều kiện để tác giả hoàn thành giấc mơ Đại học của mình.
Với điều kiện thời gian cho phép, khả năng nghiên cứu và kinh nghiệm thực tế
còn hạn chế do vậy đề tài báo cáo tốt nghiệp còn những hạn chế và không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Nhưng với sự nghiên cứu nghiêm túc, sự đam mê tìm tòi bằng
tất cả nỗ lực của bản thân tác giả hy vọng rằng với đóng góp nhỏ bé vào sự phát
triển chung của nền khoa học pháp lý của nước nhà. Tác giả rất mong nhận được sự
chỉ bảo tận tình của quý Thầy Cô, những người đi trước và anh, chị đọc giả quan
tâm đến đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên


LÊ NHẬT MAI THẢO


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: LÊ NHẬT MAI THẢO,

MSSV: 1511271290

Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khoá luận tốt
nghiệp này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn
đầy đủ và theo đúng qui định);
Nội dung trong khoá luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường
và pháp luật.
Sinh viên


DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
CJV

Cooperative Joint
Venture

Hợp tác liên doanh
Đăng ký kinh doanh

ĐKKD
EJV

Equity Joint Venture


Liên doanh vốn

FDI

Foreign Direct
Investment

Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
từ nước ngoài

FPI

Foreign Portfolio
Investment

Doanh nghiệp có vốn đầu tư gián tiếp
từ nước ngoài

SEV

Sovyet
Ekonomičeskoy
Vzaimopomošči

Hội đồng tương trợ kinh tế

SIAC

Tổng cục quản lý hành chính và

thương mại Trung Quốc

TLDN

Thành lập doanh nghiệp

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

WFOE

Wholly ForeignOwned Enterprise

Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.

WTO

World Trade
Organization

Tổ chức thương mại thế giới


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Tổng quan nghiên cứu ..........................................................................................2
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài ...........................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................3

5. Kết cấu của đề tài ..................................................................................................4
CHƯƠNG 1................................................................................................................5
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ THÀNH LẬP MỚI DOANH NGHIỆP CÓ
VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI ................................................................................5
1.1 Khái niệm về đầu tư thành lập mới doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài............................................................................................................................5
1.1.1.

Khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ...................................5

1.1.2.

Khái niệm đầu tư thành lập mới doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
.......................................................................................................................6

1.2.

Quá trình xây dựng và phát triển của pháp luật về đầu tư thành lập mới

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .................................................................8
1.2.1.

Giai đoạn 1975 đến 1987 ..............................................................................9

1.2.2.

Giai đoạn 1987 đến 1996 ..............................................................................9

1.2.3.


Giai đoạn 1996 đến 2005 ............................................................................11

1.2.4.

Giai đoạn 2005 đến 2014 ............................................................................13

1.2.5.

Giai đoạn 2014 đến nay ..............................................................................14

1.3.

Kinh nghiệm lập pháp của một số nước về xây dựng pháp luật đầu tư

thành lập mới doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ......................................18
1.3.1.

Hình thức doanh nghiệp ............................................................................18

1.3.2.

Mô hình quản lý..........................................................................................21


1.3.3.

Trình tự thủ tục ..........................................................................................23

1.3.4.


Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ...........................................................33

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................34
CHƯƠNG 2..............................................................................................................35
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.............................................36
2.1.

Nội dung điều chỉnh pháp luật hiện hành về đầu tư thành lập mới doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ...........................................................................36
2.1.1.

Chủ thể có quyền thành lập mới DNCVĐTNN.........................................37

2.1.2.

Điều kiện thành lập mới DNCVDTNN......................................................39

2.1.3.

Trình tự thủ tục thành lập mới DNCVDTNN ...........................................41

2.1.3.1.

Hồ sơ thành lập mới DNCVDTNN ...........................................................41

2.1.3.2.

Cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập mới DNCVDTNN ............46


2.1.3.3.

Thời hạn giải quyết hồ sơ thành lập mới .................................................47

2.1.3.4.

Những công việc phải thực hiện sau khi thành lập mới DNCVDTNN ....49

2.1.4.

Một số vấn đề đặt ra trong pháp luật hiện hành về đầu tư thành lập mới

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.................................................................50
2.2.

Giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về đầu tư thành lập mới doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ...........................................................................56
2.2.1.

Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về đầu tư thành lập mới

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn hiện nay .......................56
2.2.2.

Các nguyên tắc hoàn thiện pháp luật đầu tư thành lập mới doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn hiện nay...............................................58
2.2.3.


Một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật .....................................64

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................67
KẾT LUẬN ..............................................................................................................68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................69


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, thị trường Việt Nam càng ngày
càng trở thành điểm đến quan trọng thu hút nhà đầu tư ở châu Á nói riêng và trên
khắp thế giới nói chung. Một vấn đề quan trọng hàng đầu mà các nhà đầu tư nước
ngoài quan tâm khi có nguyện vọng kinh doanh ở Việt Nam đó chính là hành lang
pháp lý của Việt Nam đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là
một tiền đề cực kỳ quan trọng không chỉ giúp tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài có thể kinh doanh thuận lợi ở Việt Nam, mà còn tạo ra tác
dụng thu hút thêm nhiều nhà đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài mới trên mọi lĩnh
vực của đời sống.
Ngay từ sau năm 1975, Đảng và Chính phủ đã có chủ trương xây dựng khung
pháp lý trong việc nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, cụ thể là thông qua Nghị định
115ND-CP về Điều lệ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 1977 do Hội đồng
chính phủ ban hành. Từ đó cho đến nay, về cơ bản hệ thống pháp luật về đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam đã tương đối hoàn chỉnh, với Luật Đầu tư mới nhất năm
2014, và một loạt các văn bản pháp luật có liên quan, về cơ bản đã đáp ứng được
yêu cầu quản lý và hỗ trợ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên
cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, nhiều loại hình kinh
doanh, loại hình doanh nghiệp mới ra đời đã đặt ra yêu cầu đối với pháp luật Việt
Nam nói chung, và pháp luật về đầu tư nước ngoài nói riêng trong việc cần tiếp tục
không ngừng điều chỉnh, bổ sung để hướng tới hoàn thiện hệ thống pháp luật, đồng

thời từ đó tạo động lực thúc đẩy hoạt động đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam.
Gần đây nhất, Chính phủ vừa ban hành Nghị định 09/2018/NĐ-CP quy định
chi tiết Luật thương mại và Luật quản lý ngoại thương về hoạt động mua bán hàng
hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của nhà đầu tư nước
ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Nghị Định 09) vào
ngày 15/01/2018, thay thế Nghị định 23/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2007
về hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán
hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Nghị định 23).
Điều đặc biệt là Nghị định 09 có hiệu lực ngay từ ngày ban hành, khiến cho các
doanh nghiệp và cơ quan có liên quan đang phải gấp rút nghiên cứu thực hiện. Nhìn
chung so với Nghị định 23, Nghị định 09 đã có một số quy định tiến bộ và tạo thuận
1


lợi cho nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thể hiện
chính sách của Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện Cam kết gia nhập WTO về
mở cửa thị trường phân phối tại Việt Nam. Các văn bản pháp luật trên đã góp phần
quan trọng trong việc xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi thu hút vốn đầu tư của
nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, phát triển kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, qua thời gian áp dụng vào thực tiễn cùng với sự phát triển nhanh
chóng của kinh tế - xã hội Việt Nam, nhu cầu tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đầu tư
nói chung, đầu tư thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng trở
nên cấp thiết nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, thúc đẩy kinh tế tiếp
tục phát triển. Xuất phát từ lý do này, tác giả chọn đề tài “PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU
TƯ THÀNH LẬP MỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI” cho khoá luận tốt nghiệp của mình nhằm góp một phần nhỏ bé vào hoạt
động nghiên cứu pháp luật về thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói
riêng, và pháp luật về đầu tư của Việt Nam nói chung.
2. Tổng quan nghiên cứu


Mục đích nghiên cứu chung của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề
lý luận cũng như hệ thống các lý thuyết về pháp luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam,
từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện khoa học nghiên cứu về pháp luật
đầu tư nói chung, và pháp luật về thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
ở Việt nam nói riêng, từ đó góp phần hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài và những
người làm việc trong lĩnh vực pháp luật trong việc nâng cao chất lượng hoạt động
đăng ký thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của mình.
Mục đích nghiên cứu cụ thể của đề tài gồm:
- Hệ thống hoá cơ sở lý thuyết về pháp luật trong hoạt động đầu tư thành lập
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng pháp luật về đầu tư thành lập doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư thành lập doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.

2


3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về đầu tư thành lập doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng pháp luật về đầu tư thành lập doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi cả nước, đồng thời đưa ra một số ví dụ minh
họa cụ thể.
Tác giả nghiên cứu trong phạm vi một số văn bản quy phạm pháp luật cụ thể
như: Luật Đầu tư 2014; Luật Doanh nghiệp 2014 và một số Luật chuyên ngành có

liên quan cùng với nghị định hướng dẫn thi hành.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp hệ thống hóa: là phương pháp giúp người viết tập hợp các tài
liệu và hệ thống hóa những vấn đề về pháp luật trong hoạt động đầu tư thành lập
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Phương pháp này nhằm giúp tiếp cận với
cơ sở lý luận của pháp luật về đầu tư, là căn cứ đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về đầu tư thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong
những năm tiếp theo.
Phương pháp thông kê, phân tích, tổng hợp: là phương pháp được áp dụng
nhằm phân tích và tập hợp các nội dung về thực trạng pháp luật về đầu tư thành lập
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, cũng như đưa ra các
đánh giá của tác giả trên cơ sở tài liệu, số liệu thu thập được về vấn đề nghiên cứu
của đề tài.
Phương pháp phân tích hệ thống hóa: Dựa trên các nội dung đã hệ thống hóa
và tổng hợp được, từ đó rút ra các nhận xét và đề ra các giải pháp.

3


5. Kết cấu của đề tài
Ngoài Lời cảm ơn, mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục từ viết tắt, Mở
đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề tài gồm có 2
chương:
Chương 1: Khái quát chung về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài
Chương 2: Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
trong giai đoạn hiện nay.

4



CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ THÀNH LẬP MỚI DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.1 Khái niệm về đầu tư thành lập mới doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một thuật ngữ pháp lý quan trọng
trong hệ thống pháp luật về đầu tư tại Việt Nam. Từ khi mới hình thành cho đến
ngày nay, pháp luật về đầu tư nói chung và pháp luật điều chỉnh doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài đang ngày càng được hoàn thiện, nhằm thu hẹp khoảng
cách giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, từ
đó phát huy hiệu quả môi trường đầu tư ở Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư quốc
tế. Đối với hoạt động nghiên cứu pháp luật điều chỉnh việc đầu tư thành lập mới
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trước hết cần phải làm rõ khái niệm doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vì đây là cơ sở pháp lý đầu tiên để xác định địa vị
pháp lý của doanh nghiệp, pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp, là cơ
sở để xác định rõ quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo
pháp luật Việt Nam.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay còn gọi là doanh nghiệp FDI
xuất hiện đầu tiên tại Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, theo đó doanh nghiệp
FDI “bao gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp
tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa
Chính phủ Việt Nam và chính phủ nước ngoài và phần góp vốn của bên nước
ngoài trong doanh nghiệp liên doanh không được thấp hơn 30% tổng số vốn”.
Theo quy định của Luật Đầu tư 2014 không đề cập trực tiếp loại hình doanh
nghiệp này mà chỉ định nghĩa một cách khái quát tại phần khái niệm về tổ chức
kinh tế và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được quy định tại khoản 16 và
17 Điều 3 Luật Đầu tư đó là:

“Tổ chức kinh tế là tổ chức được thành lập và hoạt động theo quy định của
5


pháp luật Việt Nam, gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và các tổ
chức khác thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh.
Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế có nhà đầu tư
nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông.”
Theo đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một trong những loại
hình của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài .Như vậy, theo quy định này,
đối chiếu với khái niệm doanh nghiệp FDI theo định nghĩa Tiếng Anh, pháp luật
Việt Nam hiện hành ghi nhận hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài trong nền
kinh tế nước ta ở một phạm vi rộng hơn (tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài)
so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư năm 2014 cũng sử
dụng khái niệm “Đầu tư kinh doanh” để thay thế 2 khái niệm trước đây là “Đầu tư
trực tiếp, đầu tư gián tiếp”, do đó hợp nhất đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp vào
chung một khái niệm đó là đầu tư kinh doanh từ nước ngoài.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
là doanh nghiệp có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông.

1.1.2. Khái niệm đầu tư thành lập mới doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài
Để hiểu rõ khái niệm và bản chất của đầu tư thành lập mới doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, trước hết cần đi vào xem xét 2 khía cạnh đó là khái niệm về
đầu tư nước ngoài và khái niệm về thành lập doanh nghiệp.
Khái niệm về đầu tư và đầu tư nước ngoài
Hoạt động đầu tư (gọi tắt là đầu tư) là quá trình sử dụng các nguồn lực về tài
chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm trực tiếp
hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ
thuật của nền kinh tế. Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu

tư, có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư.1
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương

1

Bùi Xuân Phong (2002), Giáo trình quản trị dự án đầu tư, NXB Thống kê.

6


lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực có thể là
tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Các kết quả đạt được có
thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn
lực.2
Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở
hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Từ đây có khái niệm về đầu tư như sau: Đầu tư là hoạt động sử dụng các
nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để sản xuất
kinh doanh trong một thời gian tương đối dài nhằm thu về lợi nhuận và lợi ích kinh
tế xã hội.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, đầu tư là: "Bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh để
được hưởng phần lời lãi."3
Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) đã đưa ra định nghĩa: "đầu tư nước ngoài
được hiểu là tất cả những loại giá trị vật chất mà nhà đầu tư đưa từ nước ký kết này
sang nước ký kết hữu quan theo pháp luật của nước sử dụng đầu tư". Ở khái niệm
này, đầu tư nước ngoài được hiểu với nghĩa rất hẹp chỉ bao gồm các giá trị vật chất,
còn các loại tài sản vô hình thì lại chưa được đề cập đến.4
Trong báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 1996: "Đầu tư thương mại và các

thỏa thuận chính sách quốc tế", có đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm đầu tư
trực tiếp nước ngoài: "là một khoản đầu tư liên quan đến các quan hệ dài hạn và
phản ánh một lợi ích lâu dài và sự kiểm soát một thực thể trong một nền kinh tế
(nhà đầu tư nước ngoài hay công ty mẹ) thông qua một doanh nghiệp thuộc về một
nền kinh tế khác, nền kinh tế của nước có nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài".5
Trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, khái niệm đầu tư được hiểu
theo một nghĩa rộng hơn: "là mọi hình thức đầu tư trên lãnh thổ của một bên do các
2
3

Nguyễn Bạch Nguyệt, Từ Quang Phương (2007), Giáo trình kinh tế đầu tư, NXB ĐH Kinh tế Quốc Dân.
Nguyễn Như Ý (1999) Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa Thông tin.

TS. Lê Mạnh Tuấn (1996), Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện khung pháp luật đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ luật học, Hà Nội.
4

5

World Bank (1996), The World Bank annual report 1996, The World Bank.

7


công dân hoặc công ty của bên kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp, bao
gồm các hình thức: một công ty hoặc một doanh nghiệp; cổ phần, cổ phiếu và các
hình thức góp vốn khác, trái phiếu, giấy ghi nợ và các quyền lợi đối với các khoản
nợ dưới các hình thức khác trong công ty; các quyền theo hợp đồng như quyền theo
các hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp đồng xây dựng hoặc hợp đồng quản lý, các
hợp đồng sản xuất hoặc hợp đồng phân chia doanh thu, tô nhượng hoặc các hợp

đồng tương tự khác…”.6
Từ nhận định trên, có thể đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài như sau:
đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư của nước này đưa vốn bằng tiền hoặc tài
sản khác vào nước khác để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm
thu lợi nhuận.

Khái niệm về thành lập doanh nghiệp
“ Thành lập doanh nghiệp là một thủ tục pháp lý được thực hiện tại cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền, nhằm thành lập doanh nghiệp có tính hợp pháp và có thể
đi vào hoạt động theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, từ những khái niệm trên khái niệm, tác giả xin đưa ra khái niệm về
đầu tư thành lập mới doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài là:
“Đầu tư thành lập mới doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là hình thức
đầu tư mà ở đó các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn để
lập ra pháp nhân mới tại Việt Nam theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu chung của các nhà đầu tư.”
1.2. Quá trình xây dựng và phát triển của pháp luật về đầu tư thành lập mới
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Pháp luật về đầu tư thành lập mới doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là
một nội dung quan trọng trong pháp luật về đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Quá
trình xây dựng và phát triển của các quy định pháp luật này có thể chia làm một số
giai đoạn như sau:

6

Đại Sơn (2018), bài viết “Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ: 15 năm một chặng đường”. Liên hiệp Các
Tổ chức Hữu nghị Thành phố Đà Nẵng. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 3
tháng 3 năm 2018

8



1.2.1. Giai đoạn 1975 đến 1987
Giai đoạn này có đặc điểm là miền Nam mới được giải phóng, nước ta đang
ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; cả nước
hòa bình, độc lập và thống nhất, cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận
lợi, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và các tàn dư của
chủ nghĩa thực dân mới gây ra
Thể chế hóa đường lối, chính sách kinh tế và đối ngoại của Đảng, ngày
18/4/1977, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Điều lệ Đầu tư
nước ngoài (sau đây gọi là Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977). Việc nghiên
cứu Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 cho thấy, đây là văn bản pháp lý đầu
tiên hướng vào nền kinh tế thị trường, thể hiện bước đầu quan điểm "mở cửa" của
Đảng và Nhà nước ta, bởi lẽ Điều lệ khuyến khích đầu tư nước ngoài vào mọi
lĩnh vực của nền kinh tế, trừ những ngành nghề bị cấm. Tuy nhiên, do Điều lệ
Đầu tư nước ngoài năm 1977 được ban hành trong bối cảnh của cơ chế tập trung,
quan liêu, bao cấp đang thịnh hành trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; các
vấn đề lý luận về kinh tế thị trường đang là điều cấm kỵ, cho nên Điều lệ cũng
không tránh khỏi những hạn chế, còn bộc lộ nhiều điểm chưa hấp dẫn các nhà
đầu tư nước ngoài như xí nghiệp tư doanh chỉ được phép thành lập với điều kiện
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, mà đây là điều kiện rất khó thực hiện; thời hạn
cho phép đầu tư nước ngoài quá ngắn: từ 10 đến 15 năm kể từ ngày được cấp
giấy phép đầu tư. Trước tình hình bị Mỹ bao vây, cấm vận kinh tế, chúng ta đã ký
kết một số hiệp định hợp tác đầu tư với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
trước đây. Các hoạt động đầu tư nước ngoài vào thời điểm này không chịu sự
điều chỉnh của Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 mà chịu sự điều chỉnh của
các Hiệp định này.
Như vậy có thể thấy đặc điểm của pháp luật về đầu tư thành lập mới doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn này là còn chung chung, chủ

yếu chịu sự điều chỉnh của các Hiệp định hợp tác với các nước trên thế giới.
1.2.2. Giai đoạn 1987 đến 1996
Vào những năm đầu của giai đoạn này, tình hình kinh tế – xã hội nước ta có
những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm, hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp;
9


phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế
chậm được thu hẹp, có mặt gay gắt hơn; đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn,
các hiện tượng tiêu cực diễn ra ở nhiều nơi, có nơi có lúc nghiêm trọng.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra, ngày
31/12/1987, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tạo cơ
sở pháp lý có giá trị cao cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Việc
soạn thảo Luật này dựa trên cơ sở rút kinh nghiệm Điều lệ Đầu tư nước ngoài
năm 1977, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và có tham khảo kinh nghiệm lập
pháp đầu tư nước ngoài của nhiều nước trên thế giới.
So với Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977, Luật Đầu tư nước ngoài năm
1987 đã có một bước tiến bộ vượt bậc về kỹ thuật lập pháp, về sự phù hợp với tập
quán và luật pháp quốc tế, tạo môi trường pháp lý tương đối đầy đủ cho hoạt
động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã có
một điều riêng (Điều 2) nêu 12 khái niệm pháp lý quan trọng, tạo điều kiện nhận
thức và áp dụng thống nhất luật này trên phạm vi toàn quốc.
Bên cạnh đó, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định cụ thể hơn về:
1) Đối tượng hợp tác đầu tư với nước ngoài; 2) Lĩnh vực khuyến khích đầu tư; 3)
Hình thức đầu tư; 4) Biện pháp bảo đảm đầu tư; 5) Quy định về thuế; 6) Quy định
về vốn pháp định; 7) Chế độ kế toán, thống kê, bảo hiểm; 8) Mở tài khoản; 9)
Thời hạn đầu tư; 10) Cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài.
Để thực hiện yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam, ngày 30/6/1990, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa
VIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài

năm 1987 (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990). Luật
này đã sửa đổi, bổ sung 15 trên tổng số 42 điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm
1987.
Với sự sửa đổi, bổ sung một cách đồng bộ này, hệ thống pháp luật về đầu tư
nước ngoài đã góp phần làm cho môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam vào
những năm 1990 thêm hấp dẫn.
Ngày 23/12/1992, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước
10


ngoài (sửa đổi) năm 1992). Luật này đã sửa đổi, bổ sung 9 điều, bổ sung mới 3
điều tập trung vào 9 vấn đề quan trọng.
Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 được thông qua, Nghị
định số 18ND-CP ngày 26/12/1992 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nghị định 18), thay thế
cho Nghị định số 28/HĐBT ngày 6/2/1991 (sau đây gọi là Nghị định 28) và 17
văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng đã được ban hành. Như
vậy, cho đến trước khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996,
Nhà nước đã ban hành khoảng 110 văn bản luật và dưới luật liên quan đến đầu tư
nước ngoài, tạo môi trường pháp lý tương đối đầy đủ, đồng bộ cho hoạt động đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam.
1.2.3. Giai đoạn 1996 đến 2005
Giai đoạn này đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội; quan hệ
đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành
chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
Đảng và Nhà nước ta đã có các chủ trương, giải pháp cụ thể trong lĩnh vực
đầu tư nước ngoài. Ngày 12/11/1996 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990, Luật

Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992, tiếp tục tạo môi trường pháp lý hấp dẫn,
thể hiện chính sách nhất quán thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam của Đảng
và Nhà nước ta.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 được ban hành trong bối cảnh hệ thống
pháp luật về kinh tế đã được xây dựng, sửa đổi, bổ sung tương đối đầy đủ, so với
trước kia. Nhiều đạo luật quan trọng đã được ban hành vào thời điểm này như Bộ
luật Dân sự, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp... nhằm thu hút tối đa mọi nguồn
vốn đầu tư, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Sau khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, Nghị định số 12NDCP ngày 18/2/1997 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nghị định 12) và 15 văn bản pháp luật khác
có liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng được ban hành. Luật Đầu tư nước ngoài
11


năm 1996 cùng hệ thống các văn bản luật nói trên đã tạo dựng khung pháp lý cơ
bản điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài phù hợp với đường lối, quan điểm
của Đảng về phát triển và mở cửa nền kinh tế, đáp ứng được yêu cầu của thời
điểm đó.
Tuy nhiên, từ sau năm 1997, tình hình trong nước cũng như khu vực và
thế giới đã có nhiều thay đổi. Ở trong nước, tuy khu vực đầu tư nước ngoài vẫn
tiếp tục có đóng góp tích cực vào sự phát triển của kinh tế đất nước, nhưng
những năm sau đó, nhịp tăng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam liên tục
suy giảm.
Trước thực tế trên, để chặn đà suy giảm, tiến tới có sự tăng trưởng của
đầu tư nước ngoài; ngày 9/6/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật
Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000). Luật này đã bổ sung hai điều mới và
sửa đổi, bổ sung 20 điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996. Luật Đầu tư
nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã đưa ra nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ
những vướng mắc, khó khăn, giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài. Sau đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định 24. Nghị định gồm 14
chương, 125 điều và kèm theo 2 phụ lục.
Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 và Nghị định 24 đã tạo điều
kiện xích gần hơn giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo thế chủ
động trong tiến trình hội nhập và đảm bảo các cam kết quốc tế, làm cho môi
trường kinh doanh của Việt Nam hấp dẫn, thông thoáng hơn so với trước đây và
so với một số nước trong khu vực.
Từ năm 2000 đến năm 2005 là thời điểm kinh tế tư nhân trong nước phát
triển mạnh mẽ, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt được những bước
tiến dài sau thời gian áp dụng những quy định mang tính đột phá của Luật
Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987. Đây cũng là thời
điểm Việt Nam chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với
những cam kết mạnh mẽ về mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ và tự do hóa
hoạt động đầu tư. Do đó, có thể thấy rằng, việc ban hành Luật Đầu tư năm 2005
là một bước tiến quan trọng trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật về đầu tư tại Việt Nam. Cùng với Luật Doanh nghiệp được thông qua và có
hiệu lực thi hành vào cùng một thời điểm (01/7/2006), đánh dấu một chặng
12


đường 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam mới có một khung pháp
luật về đầu tư, doanh nghiệp áp dụng thống nhất cho các nhà đầu tư và doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
1.2.4. Giai đoạn 2005 đến 2014
Những quy định của Luật Đầu tư năm 2005 đã mở rộng quyền tự chủ trong
hoạt động đầu tư, kinh doanh của các nhà đầu tư bằng việc xóa bỏ những rào cản
đầu tư không phù hợp với thông lệ kinh tế thị trường và cam kết hội nhập của Việt
Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo
hướng ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình đẳng giữa các nhà đầu tư.
Tuy nhiên, sau 9 năm triển khai thi hành, bên cạnh những kết quả tích cực nêu

trên, Luật Đầu tư đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập không còn phù hợp với tình hình
thực tiễn, cần được sửa đổi, bổ sung, cụ thể như sau:
Một là, Luật Đầu tư năm 2005 và Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày
25/9/2006 của Chính phủ còn bộc lộ nhiều vướng mắc khi thực thi trên thực tế, cụ
thể: (i) Lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư còn dàn trải, thiếu tính thống nhất
và chưa thật sự hướng mạnh vào việc thu hút các dự án đầu tư với chất lượng và
hiệu quả cao hơn, nhất là tập trung nguồn lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước; (ii) Điều kiện đầu tư và thủ tục đầu tư còn thiếu tính minh bạch,
khả thi và đồng bộ, chưa thật sự tạo lập được một mặt bằng pháp lý bình đẳng cho
nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời chưa có cơ chế để đảm
bảo thực hiện một cách nhất quán và hiệu quả các cam kết quốc tế của Việt Nam về
điều kiện đầu tư, kinh doanh; (iii) Thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư và triển khai
thực hiện dự án còn phức tạp, tồn tại nhiều đầu mối xem xét, giải quyết, không phù
hợp với chủ trương đơn giản hóa thủ tục hành chính cho người dân và doanh
nghiệp; (iv) Vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nói chung và cơ chế
phối hợp giữa cơ quan trung ương và địa phương chưa được hoàn thiện kịp thời
trong bối cảnh thực hiện chế độ phân cấp cũng gây khó khăn trong hoạt động quản
lý đầu tư.
Hai là, nhu cầu vốn đầu tư xã hội để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, khôi phục
tốc độ tăng trưởng hợp lý tăng lên theo thời gian. Trong điều kiện tình hình đất
nước đang còn nhiều khó khăn, nguồn vốn ngân sách nhà nước và vốn ODA có thể
chỉ ổn định ở mức đã đạt được, thì việc cải thiện cơ chế, chính sách nhằm tăng
13


cường huy động các nguồn lực ngoài nhà nước cho đầu tư phát triển là hết sức cần
thiết và hiện thực. Bên cạnh đó, quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng theo hướng chất lượng, hiệu quả và hội nhập sâu rộng hơn với khu
vực và thế giới cũng đặt ra yêu cầu cấp bách phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp
luật, chính sách trong đó có Luật Đầu tư, để thích ứng với đòi hỏi cao hơn của quá

trình phát triển kinh tế - xã hội cũng như thực hiện cam kết quốc tế về tự do hóa đầu
tư và thương mại.
Ba là, Việt Nam đang phải đối mặt với xu hướng cạnh tranh thu hút đầu tư
nước ngoài ngày càng gay gắt từ các nước trên thế giới và trong khu vực, trong khi
năng lực cạnh tranh quốc gia nói chung, sức cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài
nói riêng, còn nhiều mặt hạn chế. Bên cạnh đó, mặc dù Chính phủ đã chỉ đạo tích
cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nhất là cải cách thủ tục hành chính,
nhưng vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của các nhà đầu tư lớn.
Theo bảng xếp hạng của Ngân hàng Thế giới về môi trường kinh doanh toàn
cầu được công bố ngày 29/10/2013, Việt Nam đứng thứ 99/189 nền kinh tế, trong
khi Campuchia tăng 23 bậc, Indonesia, Philippines tăng 19 bậc. Ngân hàng Thế giới
nhận định, thứ hạng của Việt Nam không thay đổi mặc dù từ năm 2005 đến nay đã
thực hiện 21 cải cách, nhiều nhất trong khu vực Đông Á - Thái Bình Dương. Do
vậy, để thu hút các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới đầu tư vào Việt Nam, thì bảo
đảm tính công khai, minh bạch, ổn định của hệ thống pháp luật phải được ưu tiên
nhất hiện nay, trong đó có Luật Đầu tư. 7
1.2.5. Giai đoạn 2014 đến nay
Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XIII, với 422 trên tổng số 424 (99,53%) đại
biểu Quốc hội tán thành, Luật Đầu tư (sửa đổi) được thông qua ngày 26/11/2014 và
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2015. Luật này bao gồm 7 chương, 76 điều,
quy định về hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và đầu tư kinh doanh từ Việt
Nam ra nước ngoài; điều kiện và thủ tục đầu tư; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư;
chính sách ưu đãi và bảo đảm đầu tư; quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư8.
Sự đổi mới toàn diện, đột phá về thể chế, mở ra môi trường đầu tư thông thoáng của
Luật Đầu tư sửa đổi năm 2014 được thể hiện qua những đổi mới cụ thể sau:
Sandeep Mahajan, Đinh Tuấn Việt (2013), Điểm lại cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt nam, The
World Bank.
8
Bộ Kế hoạch Đầu tư (2014), Dự thảo sửa đổi Luật đầu tư, Quốc Hội, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Ủy ban Kinh tế
7


14


Một là, bảo đảm thực hiện nguyên tắc hiến định về quyền tự do đầu tư kinh
doanh của công dân trong các ngành, nghề mà Luật không cấm. Việc tập hợp cụ thể
Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và Danh mục ngành, nghề đầu tư
kinh doanh có điều kiện trong Luật theo phương pháp loại trừ (chọn bỏ) đã góp
phần đổi mới căn bản nguyên tắc áp dụng pháp luật. "Đây là phương pháp rất khó
mà trên thế giới, ít nước áp dụng. Nhưng Quốc hội đã quyết định áp dụng phương
pháp này, có nghĩa điều gì pháp luật cấm thì ghi vào trong Luật, để thể hiện đúng
tinh thần của Hiến pháp năm 2013 là quyền tự do kinh doanh của người dân, doanh
nghiệp. Những gì pháp luật không cấm thì người dân và doanh nghiệp được tự do
đầu tư kinh doanh". Theo đó, từ việc nhà đầu tư chỉ được quyền thực hiện hoạt động
đầu tư kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật cho phép sang nguyên tắc
được tự do đầu tư tất cả các ngành, nghề mà luật này không cấm hoặc quy định phải
có điều kiện. Trên cơ sở đó, Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh gồm 06
ngành nghề quy định tại Điều 6 và các Phụ lục 1, 3 và 3 của Luật; Danh mục ngành
nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện gồm 267 ngành, nghề được quy định tại Phụ
lục 4 của Luật.
Hai là, củng cố, hoàn thiện cơ chế bảo đảm đầu tư phù hợp với quy định của
Hiến pháp và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể: Cập nhật các
quy định về việc Nhà nước bảo đảm quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư và cam kết
bồi thường thỏa đáng, công bằng trong trường hợp trưng thu, quốc hữu hóa tài sản
của nhà đầu tư phù hợp với quy định của Hiến pháp; Hoàn thiện quy định về việc
Nhà nước bảo đảm đối xử không phân biệt giữa các nhà đầu tư phù hợp với cam kết
của Việt Nam theo các điều ước quốc tế; Hoàn thiện quy định về việc áp dụng
nguyên tắc không hồi tố trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật thay đổi làm
ảnh hưởng bất lợi đến ưu đãi đầu tư đã áp dụng đối với nhà đầu tư.
Ba là, hoàn thiện các quy định về ngành, nghề ưu đãi đầu tư nhằm nâng cao

chất lượng, hiệu quả thu hút đầu tư. Luật sửa đổi đã hoàn thiện các quy định của
Luật Đầu tư hiện hành về ngành, nghề ưu đãi đầu tư cũng như các nguyên tắc, điều
kiện áp dụng ưu đãi nhằm đảm bảo thu hút đầu tư có chọn lọc, chất lượng, tập trung
vào các ngành sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, dự án sản xuất có quy mô
lớn, dự án đầu tư tại vùng nông thôn sử dụng nhiều lao động, dự án sản xuất các sản
phẩm công nghiệp hỗ trợ, dự án thực hiện trong các lĩnh vực xã hội hóa đầu tư (y tế,
giáo dụng, dạy nghề, văn hóa…) Ngoài ra, để khắc phục việc áp dụng ưu đãi đầu tư
tràn lan đối với tất cả các dự án thuộc địa bàn ưu đãi đầu tư, Luật không quy định
15


ưu đãi đầu tư theo địa bàn đối với các dự án khai thác khoáng sản; dự án sản xuất
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phù hợp với
quy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt.
Bốn là, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính gắn liền với việc nâng cao trách
nhiệm của nhà đầu tư trong việc triển khai thực hiện dự án đầu tư, bao gồm: Bỏ thủ
tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với tất cả các dự án đầu tư trong nước;
đơn giản hóa hồ sơ, trình tự, thủ tục và rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục cấp giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài (từ 45 ngày theo Luật
Đầu tư hiện hành xuống còn 15 ngày). Cùng với việc đơn giản hóa thủ tục hành
chính, Luật đã bổ sung, hoàn thiện một số quy định nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả dự án đầu tư, như: Bổ sung quy định về bảo đảm nghĩa vụ thực hiện dự án đầu
tư dưới hình thức ký quỹ; bổ sung quy định về giám định chất lượng máy móc, thiết
bị, công nghệ nhập khẩu để thực hiện dự án đầu tư; hoàn thiện các quy định về
chuyển nhượng dự án đầu tư, giãn tiến độ đầu tư, tạm ngừng hoạt động đầu tư, thu
hồi giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư… theo
hướng xác định cụ thể điều kiện, thủ tục thực hiện các hoạt động này cũng như
trách nhiệm của nhà đầu tư và thẩm quyền giải quyết của cơ quan quản lý ở địa
phương.
Năm là, hoàn thiện chế độ phân cấp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước

đối với hoạt động đầu tư: Để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước
đối với các dự án đầu tư quan trọng, có quy mô lớn và tác động liên ngành, liên
vùng, Luật đã bổ sung quy định về thẩm quyền, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu
tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng:
Quy định dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận đầu tư của Quốc hội và Thủ tướng
Chính phủ trên cơ sở kế thừa, luật hóa và hoàn thiện quy định tương ứng của Nghị
quyết số 49/2010/QH12 và quy định của Nghị định số 108/2006/NĐ-CP hướng dẫn
thi hành Luật Đầu tư; bổ sung quy định về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu
tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với các dự án được Nhà nước giao đất, cho
thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất (điểm mới trong nội dung này là chuẩn hóa
và đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với một số dự án thuộc thẩm quyền chấp
thuận đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Theo đó, cơ quan quản lý đầu tư thực
hiện chủ trương đầu tư đồng thời với việc xem xét giới thiệu địa điểm và thẩm tra
nhu cầu sử dụng đất. Việc áp dụng đồng thời các thủ tục nêu trên sẽ giúp cắt giảm
đáng kể thời gian thực hiện thủ tục hành chính do nhà đầu tư không phải tiến hành
16


lần lượt từng thủ tục liên quan đến việc sử dụng đất như quy định hiện hành. Ngoài
ra, Luật đã bổ sung quy định về trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu công nghệ cao, khu kinh tế trong quản lý hoạt động đầu tư, đồng thời hoàn
thiện các quy định về chế độ báo cáo đầu tư, giám sát và đánh giá hoạt động đầu tư.
Sáu là, hoàn thiện các quy định về hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Các quy
định về vấn đề này được thiết kế trên cơ sở sửa đổi, bổ sung những nội dung của
Luật Đầu tư hiện hành, đồng thời luật hóa và hoàn thiện một số quy định tại Nghị
định số 78/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ về đầu tư ra nước ngoài.
Theo đó, Luật khẳng định nguyên tắc nhà đầu tư được thực hiện hoạt động đầu tư ra
nước ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường tăng khả năng xuất khẩu
hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực

quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế đất nước; hoạt động đầu tư ra nước
ngoài phải tuân thủ các quy định của Luật này, pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư
và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về
hiệu quả hoạt động đầu tư. Luật cũng quy định trách nhiệm của nhà đầu tư trong
việc huy động các nguồn vốn (bao gồm cả ngoại tệ) để thực hiện hoạt động đầu tư ở
nước ngoài; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của nhà đầu tư cũng như cơ quan
đại diện chủ sở hữu nhà nước trong việc quyết định đầu tư và quản lý hoạt động đầu
tư ở nước ngoài, đồng thời bổ sung một số quy định về thủ tục triển khai hoạt động
đầu tư ra nước ngoài nhằm tạo cơ chế giám sát và quản lý nguồn vốn chuyển ra
nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư. Ngoài ra, Luật đã giao Chính phủ quy
định chi tiết về hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo hình thức mua, bán chứng
khoán, các giấy tờ có giá khác và đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các
định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài mà không trực tiếp tham gia hoạt
động quản lý hoạt động đầu tư.
Với những nội dung trên, Luật Đầu tư sửa đổi năm 2014 đã tạo ra hành lang
pháp lý và môi trường đầu tư thông thoáng, hy vọng sẽ thu hút ngày càng nhiều tổ
chức, cá nhân tham gia vào hoạt động đầu tư, góp phần tạo ra bước phát triển mạnh
mẽ và bền vững cho nền kinh tế Việt Nam.

17


1.3. Kinh nghiệm lập pháp của một số nước về xây dựng pháp luật đầu tư
thành lập mới doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài, trong đó có
pháp luật điều chỉnh việc đầu tư thành lập mới doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài là một nội dung quan trọng trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Ở
nhiều nước trên thế giới, do ảnh hưởng của thể chế chính trị, quá trình phát triển
kinh tế và các đặc điểm riêng biệt của từng quốc gia mà kinh nghiệm lập pháp về
lĩnh vực này cũng có sự khác biệt nhất định. Trong phạm vi hạn hẹp của đề tài khóa

luận tốt nghiệp, tác giả đề tài xin trình bày kinh nghiệm lập pháp về pháp luật điều
chỉnh đầu tư thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc,
Indonesia và Malaysia, trên các khía cạnh là hình thức doanh nghiệp, mô hình quản
lý và trình tự thủ tục.
1.3.1. Hình thức doanh nghiệp9
Trung Quốc
Tại Trung Quốc, nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư trực tiếp thông qua hai
hình thức:
- Thành lập Văn phòng đại diện: Văn phòng này chỉ được thực hiện các hoạt
động không trực tiếp phát sinh lợi nhuận như làm đầu mối, tiếp thị, nghiên cứu thị
trường.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn
- Công ty trách nhiệm hữu hạn bằng cổ phiếu.
Ngoài ra, để phân biệt với doanh nghiệp trong nước, pháp luật về đầu tư nước
ngoài còn đưa ra ba hình thức đầu tư cụ thể như sau:
- Liên doanh vốn (Equity Joint Venture) (“EJV”)
- Hợp tác liên doanh (Cooperative Joint Venture) (“CJV”)
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (wholly foreign-owned enterprise
Bộ Kế hoạch đầu tư (2014), Báo cáo nghiên cứu pháp luật đầu tư của một số nước trên thế giới, Bộ Kế
hoạch đầu tư.
9

18


×