Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng làm văn kể chuyện ở học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (964.67 KB, 59 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
======

DIỆP THỊ THƠM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LÀM VĂN
KỂ CHUYỆN Ở LỚP 4
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. HOÀNG THỊ THANH HUYỀN

Hà Nội, 2018


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này em xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc tới
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 cùng với các thầy, các cô những người đã
trực tiếp giảng dạy, trang bị cho em những kiến thức quý giá trong thời gian
chúng em học tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến TS. Hoàng Thị Thanh Huyền,
người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, nhiệt tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành bản khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trường Tiểu học Tiến Thịnh
B – Mê Linh – Hà Nội đã tạo điều kiện trong quá trình tìm hiểu thực tiễn dạy
học cũng như là gia đình, người thân những người luôn quan tâm, động viên
và nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018


Sinh viên

Diệp Thị Thơm


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kì công trình nghiên cứu nào khác. Nếu những cam kết trên là không
đúng sự thật, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Sinh viên

Diệp Thị Thơm


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC TỪ VIẾT TẮT

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

SGK

Sách giáo khoa


NxB

Nhà xuất bản


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu .............................................. 4
4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
7. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................... 6
1.1 Cơ sở lí luận ................................................................................................ 6
1.1.1 Cơ sở tâm lí học ....................................................................................... 6
1.1.1.1 Đặc điểm nhận thức .............................................................................. 9
1.1.1.2 Đặc điểm sinh lí .................................................................................. 10
1.1.2 Cơ sở ngôn ngữ học ............................................................................... 11
1.1.2.1 Kể chuyện và văn kể chuyện............................................................... 11
1.1.2.2 Đặc điểm của văn kể chuyện............................................................... 15
1.1.2.3 Văn kể chuyện trong trường Tiểu học ................................................ 18
1.2 Cơ sở thực tiễn .......................................................................................... 19
1.2.1 Thực trạng dạy học văn kể chuyện ở trường Tiểu học .......................... 19
1.2.2 Thực trạng học văn kể chuyện của học sinh .......................................... 21
Chương 2: MỘT SỐ BIỆN PHAP REN LUYỆN KI NANG LAM VAN KỂ
CHUYỆN TRONG PHAN MON TẬP LAM VAN CHO ............................. 23
HỌC SINH LỚP 4. ......................................................................................... 23

2.1 Nguyên tắc xây dựng các biện pháp rèn luyện kỹ năng làm văn miêu tả
trong dạy học môn Tiếng Việt lớp 4 ............................................................... 23
2.1.1 Nguyên tắc giao tiếp............................................................................... 23


2.1.2 Nguyên tắc đảm bảo tính phù hợp với nội dung chương trình .............. 24
2.1.3 Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và phát huy tính sáng tạo của học sinh
......................................................................................................................... 24
2.2 Đề xuất biện pháp...................................................................................... 25
2.2.1 Cung cấp kiến thức về văn kể chuyện.................................................... 25
2.2.2 Hướng dẫn học sinh lựa chọn cốt truyện của bài văn kể chuyện........... 26
2.2.3 Hướng dẫn học sinh lựa chọn nhân vật trong bài văn ........................... 30
2.2.4 Hướng dẫn học sinh lựa chọn tình huống, chi tiết trong bài văn ........... 32
2.2.5 Hướng dẫn học sinh lựa chọn ngôi kể, giọng kể.................................... 34
2.2.6 Các dạng bài tập bổ trợ rèn kĩ năng làm văn kể chuyện trong phân môn
Tập làm văn cho học sinh lớp 4 ...................................................................... 36
2.2.6.1 Bài tập xây dựng đoạn văn trong bài văn kể chuyện .......................... 36
2.2.6.2 Bài tập sửa lỗi đoạn văn trong bài văn kể chuyện .............................. 40
2.2.6.2.1 Sửa lỗi đoạn văn liên kết về nội dung .............................................. 41
Chương 3: THỰC NGHIỆM KHOA HỌC .................................................... 44
3.1 Mục đích thực nghiệm .............................................................................. 44
3.2 Nhiệm vụ thực nghiệm .............................................................................. 44
3.2 Đối tượng, địa bàn, thời gian thực nghiệm ............................................... 44
3.3 Nội dung thực nghiệm ............................................................................... 44
3.4 Phương pháp thực nghiệm ........................................................................ 49
3.5 Kết quả thực nghiệm ................................................................................. 49
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 53



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong chương trình tiểu học, môn Tiếng Việt là một trong hai môn chính
có vai trò rất quan trọng. Dạy Tiếng Việt cho HS Tiểu học tạo cho học sinh kỹ
năng sử dụng trong học tập và giao tiếp; cung cấp cho HS các hiểu biết về
Tiếng Việt, mở mang kiến thức về tự nhiên, xã hội, văn hóa của dân tộc Việt
Nam và nước ngoài. Trong đó, phân môn Tập Làm Văn có nhiệm vụ rèn cho
học sinh các kỹ năng sản sinh ngôn bản; sử dụng và hoàn thiện một cách tổng
hợp các kiến thức và kỹ năng Tiếng Việt mà các phân môn Tiếng Việt khác
đã hoàn thành. Đây là phân môn mang tính tích chất tổng hợp, sáng tạo, thực
hành, thể hiện đậm dấu ấn cá nhân. Đối với học sinh Tiểu học, biết nói đúng,
viết đúng, diễn đạt mạch lạc đã khó. Để nói, viết hay, có cảm xúc và giàu hình
ảnh lại khó hơn nhiều. Cái khó ấy chính là cái đích của phân môn Tập Làm
Văn đòi hỏi người học cần phải hướng tới. Từ đó, các kiến thức, kỹ năng
luyện nói sẽ được hoàn thiện và nâng cao, phát huy vốn sống, bồi dưỡng tâm
hồn và hình thành nhân cách cho các em.
Ở phân môn Tập làm văn thì văn kể chuyện là một trong những phần
trọng tâm của chương trình Tập Làm Văn lớp 4.
Văn kể chuyện là thể loại văn nghệ thuật gắn liền với đời sống xã hội, có
tác dụng giáo dục đạo đức, tư tưởng tình cảm, kỹ năng sống cho học sinh tiểu
học. Thể loại tập làm văn này vận dụng tổng hợp, ở mức độ cao, vốn tri thức
về cuộc sống, về văn chương và các kỹ năng của người nói, người viết để
thuyết phục nhận thức, tư tưởng, tình cảm, hành động của người nghe, người
đọc. Trong văn học, các câu chuyện, các cuốn tiểu thuyết, các truyện
ngắn…được xây dựng trên nhiều đoạn văn tự sự (kể). Vì thế, văn kể chuyện
là nền tảng của sáng tác văn học và là loại văn thường dùng trong đời sống
hàng ngày. Chẳng những sau này đi vào cuộc sống mà ngay khi còn học ở nhà

1



trường, HS đã luôn luôn vận dụng văn kể chuyện trong mọi mặt sinh hoạt.
Văn kể chuyện dạy cho các em nắm được nội dung và phương pháp kể.
Luyện cho HS kỹ năng nói và viết những câu chuyện trong đời sống hàng
ngày gần gũi với các em mà các em được chứng kiến hoặc được nghe kể
lại. Vì thế, có thể nói văn kể chuyện có vị trí quan trọng trong sáng tác văn
chương và chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình Tập làm
văn bậc Tiểu học.
Để hoàn thành bài văn kể chuyện, đối với học sinh lớp 4 thường rất khó
khăn. Do đặc điểm tâm lí chưa ổn định, hơn nữa các em còn ham chơi, khả
năng tập trung chú ý quan sát chưa tinh tế, năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa
phát triển tốt… Dẫn đến việc các em không biết viết gì, chưa biết cách hóa
thân, nhập vai vào nhân vật, thường hay lặp câu đã viết, viết sai hoặc viết
chưa hay nên các em chưa đạt được yêu cầu đề ra.
Đối với giáo viên thì đây cũng là một loại bài khó dạy. Giáo viên còn thiếu
linh hoạt trong vận dụng phương pháp và chưa sáng tạo trong việc tổ chức các
hoạt động học tập của học sinh. Vì vậy, không phải dạy loại văn nào cũng đạt
được hiệu quả như mong muốn và không phải giáo viên nào cũng dạy tốt văn
kể chuyện. Việc tìm ra các phương pháp để hướng dẫn học sinh diễn đạt, lựa
chọn tình tiết, miêu tả ngoại hình và tính cách nhân vật…của giáo viên vẫn
còn nhiều hạn chế.
Là một giáo viên tiểu học trong tương lai, tôi thấy việc áp dụng các biện
pháp rèn luyện kỹ năng viết văn kể chuyện ở lớp 4 nói riêng là một việc làm
cần thiết nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở
Tiểu học và góp phần nâng cao hiệu quả dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học.
Xuất phát từ những yêu cầu lý luận thực tiễn ở trên đặt ra vấn đề cần
nghiên cứu, tìm hiểu sâu, cụ thể về áp dụng các biện pháp rèn luyện kỹ năng

2



làm văn kể chuyện lớp 4 cho học sinh tiểu học. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài:
“Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng làm văn kể chuyện ở học sinh lớp 4”.
2. Lịch sử vấn đề
Văn kể chuyện là một phân môn quan trọng của Tập làm văn nên có rất
nhiều cuốn sách đề cập đến vấn đề kể chuyện ở Tiểu học như Phương pháp
dạy học Tiếng việt của Đặng Kim Nga, Lê Phương Nga (2017), Phương pháp
dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học, NXB Đại học Quốc Gia, Hà Nội,…
Nổi bất nhất phải kể đến cuốn “Dạy kể chuyện ở Tiểu học” của tác giả
Chu Huy, NXB Giáo dục, 2017. Trong đó, tác giả đã giúp chúng ta hiểu đúng
về thể loại truyện, hướng dẫn học sinh sử dụng các biện pháp kể chuyện song
các biện pháp được trình bày không phù hợp với phương pháp dạy học hiện
nay.
Trong cuốn “Hỏi đáp về dạy học Tiếng việt 4”, tác giả Nguyễn Minh
Thuyết đã nêu được các mức độ rèn kĩ năng làm văn kể chuyện cho học sinh
tuy nhiên việc nghiên cứu chỉ chung chung, đại khái chưa đi sâu vào việc
nghiên cứu cụ thể từng biện pháp.
Với các chương trình cải cách và của bộ SGK và SGV mới, Bộ Giáo dục
và Đào tạo thể hiện sự đổi mới trong dạy học Tiếng việt nói chung và Tập làm
văn nói riêng. Việc dạy Tập làm văn theo quan điểm giao tiếp, hướng dẫn học
sinh sử dụng Tiếng việt hiện đại để học tập và giao tiếp trong các môi trường
hoạt động phù hợp với lứa tuổi.
Nhìn chung, các cuốn sách trên đã đề cập đến việc giảng dạy phân môn kể
chuyện nhưng ít tác giả đề cập sâu đến các biện pháp rèn luyện kĩ năng làm
văn kể chuyện cho học sinh lớp 4. Thực tế đòi hỏi nâng cao yêu cầu chất
lượng dạy và học của giáo viên và học sinh, từ đó phát triển các năng lực cần
thiết cho các em.

3



3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các biện pháp rèn luyện kỹ năng làm văn kể chuyện ở lớp 4.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu và thực nghiệm tại trường Tiểu học Tiến Thịnh B – xã Tiến
Thịnh, huyện Mê Linh, Hà Nội. Đồng thời nghiên cứu nội dung văn kể
chuyện trong phân môn Tập làm văn lớp 4.
4. Mục đích nghiên cứu
Văn kể chuyện là loại văn có vị trí quan trọng trong chương trình Tập làm
văn bậc Tiểu học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng. Song chất lượng
dạy học của giáo viên và học sinh chưa thực sự hiệu quả, chưa đạt đươc các
yêu cầu đề ra.
Thực hiện đề tài này chúng tôi hi vọng sẽ đề xuất được các biện
pháp nhằm nâng cao kết quả thực hành về văn kể chuyện cho học sinh lớp 4.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy và học văn kể chuyện
trong dạy học Tiếng Việt ở trường Tiểu học.
- Tìm hiểu thực trạng về việc tổ chức dạy và học văn kể chuyện lớp 4 ở
trường Tiểu học.
- Xây dựng các biện pháp rèn luyện các kĩ năng làm văn kể chuyện trong
phân môn Tập làm văn lớp 4.
- Thực nghiệm khoa học
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Phương pháp đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu làm cơ sở cho lí luận
6.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Được tiến hành dưới các
hình thức:

4



+ Dùng phiếu điều tra
+ Đàm thoại, trao đổi trực tiếp giữa giáo viên và học sinh
+ Dự giờ tiết dạy văn ở trường Tiểu học để tìm hiểu các hình thức và
phương pháp dạy học của giáo viên.
6.3 Phương pháp toán học
Sử dụng thống kê để xử lí thông tin, tổng hợp số liệu điều tra từ thực tế
để phân tích, làm cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất biện pháp rèn kỹ năng làm
văn kể chuyện ở học sinh lớp 4.
6.4 Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Từ các biện pháp đã đề xuất tiến hành thực nghiệm tại trường Tiểu học
Tiến Thịnh B, xã Tiến Thịnh, huyện Mê Linh, tỉnh Hà Nội.
6.5 Nhóm phương pháp hỗ trợ
+ Phương pháp quan sát, thực hành kiểm tra, đánh giá,…
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung chính của khóa luận
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2 : Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng làm văn kể chuyện trong
phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 4.
Chương 3: Thực nghiệm khoa học.

5


NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Cơ sở lí luận
Hiện nay, ở bậc Tiểu học, văn kể chuyện được dạy từ lớp 2. So với văn

miêu tả thì văn kể chuyện khá gần gũi với trẻ em vì các em đã được nghe kể
chuyện từ mọi người thân. Cùng với các thể loại khác, văn kể chuyện sẽ giúp
cho học sinh rèn luyện ngôn ngữ một cách toàn diện. Mặt khác, nắm vững và
thực hành tốt về văn kể chuyện sẽ góp phần nâng cao năng lực tư duy, phát
huy cao nhất khả năng sáng tạo của học sinh. Trong chương trình tập đọc, các
câu chuyện kể được đưa vào sách rất giàu tính nhân văn, có tính giáo dục, tính
tư tưởng cao, khả năng truyền cảm xúc mạnh như: Con sẻ; Người mẹ; Người
ăn xin; Người thợ săn và con khỉ…Qua những bài văn mẫu mà em được tiếp
xúc trong sách giáo khoa, các em có điều kiện tốt để thưởng thức, phân tích
tác phẩm văn học, từ đó các em sẽ nâng cao nhận thức về tư tưởng, tình cảm
để thực hiện tốt các chức năng giáo dục, giáo dưỡng của quy trình đào tạo. Vì
vậy, đòi hỏi mỗi giáo viên dậy Tiểu học phải đạt được các mục tiêu lớn đã đề
ra cho phân môn giúp hình thành nhân cách cho học sinh.
1.1.1 Cơ sở tâm lí học
Trong nhà trường Tiểu học, nhu cầu kể chuyện là nhu cầu tất yếu của lứa
tuổi học sinh nhỏ. Từ tuổi lên 3 bập bẹ tập nói các em đã thích được nghe kể
chuyện. Đến tuổi mẫu giáo nhu cầu cần nghe kể chuyện lại tăng thêm nhiều
và trẻ cũng dần tập kể chuyện cho bạn bè, cha mẹ, anh chị…nghe. Bước vào
tuổi học sinh Tiểu học, kể chuyện là một trong những phân môn của Tiếng
việt nhằm rèn luyện cho học sinh kĩ năng biểu cảm đặc biệt là đối với các
loại truyện cổ dân gian và truyện về đời sống hằng ngày. Vì vậy, từ lớp 1 đến
lớp 5, lớp nào cũng có tiết kể chuyện. Tập làm văn lại có bài văn kể chuyện.
Luyện tập văn kể chuyện trở thành một yêu cầu đối với học sinh Tiểu học.

6


Tâm lí trẻ em đặc biệt là trẻ em lứa tuổi từ 1 đến 12 tuổi rất thích nghe kể
chuyện. Chúng thường được ông bà, cha mẹ, thầy cô kể những câu chuyện cổ
tích có những nhân vật gần gũi với lứa tuổi của chúng. Những truyện kể,

truyện dân gian là một trong những hình thức nhận thức thế giới của các em,
giúp các em chính xác hóa những biểu tượng đã có về thực tế xã hội xung
quanh, từng bước cung cấp thêm những khái niệm mới và mở rộng kinh
nghiệm sống cho các em. Những tác phẩm ấy giúp cho các em xác lập một
thái độ đối với các hiện tượng của đời sống xung quanh. “Truyện cổ tích gắn
liền với cái đẹp góp phần phát triển các cảm xúc thẩm mĩ mà thiếu chúng
không thể có tâm hồn cao thượng, lòng mẫn cảm chân thành trước nỗi bất
hạnh, đau đớn và khổ ải của con người. Nhờ có truyện cổ tích, trẻ nhận thức
được thế giới không chỉ bằng trí tuệ mà còn bằng trái tim. Và trẻ em không
phải chỉ có nhận thức mà còn đáp ứng lại sự kiện và hiện tượng của thế giới
xung quanh, tỏ thái độ của mình với các điều thiện và ác. Truyện cổ tích cung
cấp cho trẻ những biểu tượng đầu tiên về chính nghĩa và phi nghĩa. Giai đoạn
đầu tiên của giáo dục lí tưởng cũng diễn ra nhờ có truyện cổ tích. Truyện cổ
tích là ngọn nguồn phong phú và không gì thay thế được để giáo dục tình yêu
Tổ quốc”.
(Chu Huy, Tài liệu đã dẫn, trang 14-15)
Puskin từng thổ lộ: “ Buổi tối tôi nghe kể chuyện cổ tích và lấy việc đó bù đắp
những thiếu sót trong sự giáo dục đáng nguyền rủa của mình. Mỗi truyện cổ
tích ấy mới đẹp làm sao, mỗi truyện là một bài ca”.
(Dẫn theo Nguyễn Trí, Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt 2,
NXB ĐHSP, 2004)
Ngoài ra, kể chuyện còn đem đến cho các em nhiều niềm vui, sự thích thú,
thư giãn sau những giờ học căng thẳng. Những câu chuyện đó khơi gợi ở các
em lòng yêu cái đẹp trong thiên nhiên, xã hội của con người, tạo ra sự gần

7


gũi, cảm thông, lòng tin cậy giữa các thầy cô và các em. Đặc biệt là với các
em còn rụt rè, nhút nhát, do bản thân hoặc do hoàn cảnh sống. Khi học tiết kể

chuyện, các em sẽ có cơ hội gần gũi, hòa đồng với các bạn, cùng sống với các
nhân vật trong truyện giúp các em tự tin hơn mạnh dạn hơn. Các em được
sống trong thế giới riêng của mình, có thể được nghe, được kể bằng trí tưởng
tượng, phong phú và đầy sáng tạo riêng của mình.
Nhân cách của học sinh thời kì này đang được hình thành. Bởi các em là
một thực thể, chỉnh thể trọn vẹn nhưng chưa định hình mà đó là một thực thể
đang phát triển. Tâm lí chưa hoàn thiện, các bộ phận trong cơ thể phát triển
chưa đồng đều nên dễ bị ảnh hưởng của GV, người lớn.
Chính vì những đặc điểm tâm lí trên, mà kiểu bài kể chuyện đã được đưa
vào trong phân môn Tâp làm văn nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức
về văn kể chuyện. Tuy nhiên, ở giai đoạn học sinh Tiểu học, các em vẫn ngại
viết văn, e dè khi kể chuyện theo cảm nhận của riêng mình. Nguyên nhân là
do các cơ quan của cơ thể chưa được phát triển đầy đủ, chữ viết còn chậm,
tình trạng vốn từ của học sinh còn ít, khả năng tư duy còn kém, các kỹ năng
quan sát, phân tích, tổng hợp còn chưa cao. Cho nên, nhu cầu về phương pháp
luận dạy văn kể chuyện là một nhu cầu cấp bách để nâng cao hơn nữa hiệu
quả thực hành văn kể chuyện trong phân môn Tập làm văn cho học sinh Tiểu
học.
Việc dạy kể chuyện cho các em rất cần sự đầu tư của giáo viên và phải
xác định được tầm quan trọng của tiết kể chuyện nói riêng và Tập làm văn nói
chung. Đồng thời, cần có những biện pháp dạy học tích cực, hình thức dạy
học phong phú phát huy trí lực của học sinh, nhằm đạt kết quả dạy học cao
nhất.

8


1.1.1.1 Đặc điểm nhận thức
Học sinh Tiểu học có độ tuổi từ 6 đến 11 tuổi. Từ đứa trẻ mẫu giáo trở
thành học sinh phổ thông với bao điều mới mẻ cần khám phá, trẻ có nhiều

thay đổi về tâm lí. Sự phát triển nhận thức ở học sinh tiểu học có những bước
tiến mới so với lứa tuổi tiểu học. Đối với quá trình tri giác, ngay từ khi trẻ
bước vào trường phổ thông, khả năng tri giác của trẻ khá phát triển. Trẻ có
khả năng định hướng tốt đối với hình dáng và màu sắc khác nhau tuy nhiên
vẫn còn hạn chế. Trong các giờ học, trẻ có thể tiếp nhận các thông tin và tự
mình diễn đạt lại các thông tin đó một cách tương đối chính xác. Quá trình
này được hoàn thiện dần trong quá trình phát triển ở trẻ.
Về sự phát triển ghi nhớ của học sinh Tiểu học, ban đầu các em áp dụng
phương thức ghi nhớ là nhắc đi nhắc lại nhiều lần để ghi nhớ nguyên văn tài
liệu. Sau đó, các em được dạy ghi nhớ có chủ định một cách lâu dài. Ghi nhớ
máy móc dần tiến tới ghi nhớ có ý nghĩa, dựa trên mối quan hệ logic của nội
dung. Một trong những phương thức dạy các em ghi nhớ đó là dạy các em lập
dàn ý và dựa vào dàn ý để ghi nhớ. Mối tương quan của ghi nhớ có ý nghĩa và
ghi nhớ máy móc trong quá trình nhận thức của trẻ nhỏ có những điểm khác
nhau. Ở học sinh lớp 1, hiệu quả của việc ghi nhớ máy móc là cao hơn ghi
nhớ có ý nghĩa, vì trẻ chua hình thành những biện pháp phân chia tài liệu theo
nhóm có ý nghĩa. Càng lên lớp cao hơn, cùng với sự hình thành những biện
pháp ghi nhớ có ý nghĩa thì ghi nhớ có ý nghĩa trong nhiều trường hợp có
hiệu quả hơn ghi nhớ máy móc. Tuy nhiên, cả hai hình thức này đều có vai trò
quan trọng đối với lứa tuổi học sinh tiểu học. Trong trường hợp trẻ phải học
thuộc lòng những sự kiện, những con số thì bắt buộc trẻ phải áp dụng hình
thức ghi nhớ máy móc. Ở trường hợp khác như lĩnh hội trên cơ sở xử lí tài
liệu một cách logic thì việc áp dụng ghi nhớ ý nghĩa lại là một hình thức ghi
nhớ bắt buộc.

9


Sự phát triển khả năng tưởng tượng của trẻ được diễn ra theo hai giai
đoạn chủ yếu. Giai đoạn đầu những hình ảnh được tái tạo lại bằng những chi

tiết nghèo nàn, miêu tả 1 cách rõ nét khi trẻ được tri giác bằng hình ảnh cụ thể
như tranh vẽ hoặc những câu chuyện cụ thể. Giai đoạn thứ hai thì khả năng
tưởng tượng tăng lên rõ rệt, trẻ có khả năng tái tạo những hình ảnh mà không
cần có sự cụ thể hóa đặc biệt, nhờ vào trí nhớ hoặc những sơ đồ. Chẳng hạn,
trẻ có khả năng miêu tả một cách sinh động những câu chuyện mà chúng ta đã
được đọc hoặc được nghe cô giáo kể.
Học sinh tiểu học có khả năng tư duy các đối tượng trực tiếp tác động đến
trẻ, hay nói cách khác, trẻ dựa vào những đối tượng thực hoặc trực tiếp thay
thế. Sau đó, với vai trò của người lớn và giáo viên, đã giúp trẻ chỉ ra mối liên
hệ giữa các yếu tố riêng lẻ của các tri thức cần lĩnh hội. Từ đó, dần dần hình
thành ở trẻ khả năng khái quát hóa và tổng hợp ở mức độ cao hơn và trên cơ
sở những biểu tượng đã hình thành được ở trước đó.
Chú ý không chủ định vẫn phát triển, chú ý có chủ định còn yếu và thiếu
bền vững và sự phát triển chú ý gắn liền với sự phát triển của hoạt động học
tập.
1.1.1.2 Đặc điểm sinh lí
Nếu như ở bậc học mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì
đến tuổi Tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển
từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt
động học tập, ở các em còn diễn ra các hoạt động khác như hoạt động vui
chơi, hoạt động lao động và hoạt động xã hội,…
Các cơ quan cảm giác: thị giác, thính giác, khướu giác, xúc giác đều phát
triển và trong quá trình hoàn thiện. Nhận biết được điều này, chúng ta phải
thu hút trẻ bằng các hoạt động mới mang màu sắc, tính chất đặc biệt khác lạ
so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và

10


chính xác. Tưởng tượng của học sinh Tiểu học đã phát triển phong phú hơn

đặc biệt là ở học sinh lớp 4, 5 nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm
dày dặn. Qua đó, các nhà giáo dục phải phát triển tư duy và trí tưởng tượng
của các em bằng cách biến các kiến thức “khô khan” thành những hình ảnh có
cảm xúc, đặt ra cho các em các câu hỏi có tính gợi mở, thu hút các em vào
hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá trình
nhận thức lí tính của mình một cách toàn diện.
Hầu hết học sinh Tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1,
bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 4 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và
bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ
phát triển mà trẻ em có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung
quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính
và lí tính, nhờ ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tưởng phát triển
dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Mặt
khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát
triển trí tuệ của trẻ. Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên các
nhà giáo dục phải trau dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng
cách hướng hứng thú của trẻ vào các loại sách báo có lời và không lời, có thể
là truyện tranh, truyện cổ tích, sách văn học, báo nhi đồng,… đồng thời cũng
có thể kể cho trẻ nghe hoặc tổ chức các cuộc thi kể chuyện đọc thơ, viết báo,
viết truyện, dạy trẻ cách viết nhật kí,… Tất cả đều có thể giúp trẻ có được một
vốn ngôn ngữ phong phú và đa dạng tạo điều kiện cho học sinh hoàn thiện tốt
một bài văn kể chuyện.
1.1.2 Cơ sở ngôn ngữ học
1.1.2.1 Kể chuyện và văn kể chuyện

11


Theo Phương pháp dạy học Tiếng Việt của Đặng Phương Nga, Lê

Phương Nga (2007) giải thích:
“Chuyện là tất cả những sự việc diễn ra trong cuộc sống. Chuyện có nhiều
mức độ. Chuyện lớn thì liên quan đến nhiều người và kéo dài theo thời gian.
Chuyện nhỏ thì liên quan đến ít người và kéo dài trong thời gian ngắn.
Chuyện có thể xảy ra trong mỗi gia đình, xã hội.”
“Nếu chuyện được kể với nhau bằng lời nói miệng thì người ta gọi đó là
kể chuyện. Còn nếu được viết lại bằng văn bản chữ thì sản phẩm viết ra được
gọi là thể loại truyện.”
“ Truyện được gọi là thể loại văn học. Nó được truyền, lưu giữ bằng văn
bản chữ. Truyện có nhiều mức độ khác nhau. Truyện ngắn, truyện vừa, truyện
dài,…Truyện dùng để đọc.”
“ Câu chuyện là nói đến nội dung cho dù là việc diễn ra trong truyện hay
trong chuyện thì đều là câu chuyện.”
Theo sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4 tập 1 định nghĩa như sau: “ Kể
chuyện là kể lại một chuỗi sự việc có đầu có cuối, liên quan đến một hay một
số nhân vật. Mỗi câu chuyện cần nói lên được một điều có ý nghĩa.”
Kể là một động từ biểu thị hoạt động nói. Từ điển Tiếng Việt (do Văn
Tân chủ biên) giải thích kể: nói rõ đầu đuôi và nêu ví dụ kể chuyện cổ tích.
Khi ở vị trí một thuật ngữ, kể chuyện bao hàm bốn phạm trù ngữ nghĩa sau:
a, Chỉ loại hình tự sự trong văn học (phân biệt với loại hình trữ tình, loại
hình kịch) – còn gọi là truyện hay tiểu thuyết.
Văn kể chuyện là văn trong truyện hoặc trong tiểu thuyết. Do đó, đặc
điểm của văn kể chuyện cũng là đặc điểm của truyện. Đặc trưng cơ bản của
truyện là tình tiết, tức là có sự việc đang xảy ra, đang diễn biến, có nhân vật
với ngôn ngữ, tâm trạng, tính cách riêng.

12


b, Chỉ tên một phương pháp nói trong diễn giảng.

Kể chuyện là một phương pháp trực quan sinh động bằng lời nói. Khi cần
thay đổi bằng hình thức diễn giảng nhằm thu hút sự chú ý của người nghe,
người ta cũng xen kẽ phương pháp kể chuyện. Với các môn khoa học tự
nhiên, kể chuyện được dùng trong phần kể về tiểu sử tác giả, miêu tả quá trình
phát minh, sáng chế, quá trình phản ứng hóa học…
c, Chỉ tên một loại văn thuật truyện trong môn Tập làm văn.
Văn kể chuyện là một loại mà HS phải được luyện tập diễn đạt bằng
miệng hoặc bằng viết thành bài theo những quy tắc nhất định. Vì tính chất
phổ biến và ứng dụng rộng rãi của bài văn này nên nó trở thành loại hình cần
được rèn kĩ năng, kĩ xảo bên cạnh các loại hình văn miêu tả, văn nghị luận.
d, Chỉ tên một phân môn được học ở các lớp trong trường Tiểu học
Kể chuyện là một môn học của lớp Tiểu học trường Phổ thông. Có người
hiểu đơn giản kể chuyện chỉ là kể chuyện dân gian, kể chuyện cổ tích. Thực
ra không hẳn như vậy, kể chuyện ở đây bao gồm việc kể nhiều loại truyện
khác nhau, kể cả truyện cổ và truyện hiện đại, nhằm mục đích giáo dục, giáo
dưỡng, rèn kĩ năng nhiều mặt cho một con người. Lâu nay, thuật ngữ “kể
chuyện” vẫn được dùng với ý nghĩa kể một câu chuyện bằng lời, kể cả câu
chuyện có hình thức hoàn chỉnh, được in trên sách báo.
(Xem Chu Huy, Dạy Kể chuyện ở trường Tiểu học, NXB Giáo dục,
2000, trang 11- 12)
Kể chuyện là một hình thức thông tin nhanh gọn, truyền cảm bằng ngôn
ngữ. Mặc dù đã có những phương tiện thông tin đại chúng hiện đại như tivi,
đài phát thanh, radio cát xét, người ta vẫn thích nghe nói chuyện bằng miệng.
Theo định nghĩa rộng, thuật ngữ “kể chuyện” có thể bao hàm toàn bộ ngôn
ngữ nói sinh hoạt hằng ngày. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy: “ Tiếng nói
là thứ của cải vô cùng lâu đời và quý báu. Chúng ta phải biết quý trọng nó,

13



giữ gìn nó, phát triển nó.” Nhờ có tiếng nói và lao động mà con người thoát
hẳn khỏi đời sống động vật, vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm
chủ thiên nhiên. Bầy người nguyên thủy quay quanh đám lửa trại nướng thịt
thú rừng, nướng quả hạt thường kể những chuyện săn, bắt, hái, lượm cho
nhau nghe. Đó cũng là khởi đầu của sự tích lũy tri thức khoa học và kể
chuyện ở đây mang chức năng thông tin. Khi ngôn ngữ ngày càng phát triển,
số lượng từ cơ bản tăng lên, đời sống vật chất và tinh thần ngày một phong
phú thì kể chuyện không chỉ dừng lại ở mức độ thông tin nữa mà mang thêm
chức năng giải trí, hay cao hơn nữa là chức năng nghệ thuật. Nhờ vậy mà kho
tàng đồ sộ truyện cổ dân gian hết sức giàu có, hết sức đa dạng được truyền lại
đến ngày nay bằng hình thức kể. Trải qua 10 thế kỉ Bắc thuộc, dân tộc Việt
Nam sở dĩ bảo toàn bản lĩnh và bản sắc dân tộc độc đáo, không bị phong kiến
phương Bắc xâm lược, đồng hóa thôn tính một phần là nhờ ở hung khí những
câu chuyện cổ. Chùm truyền thuyết về Âu Cơ, Lạc Long Quân, về Hùng
Vương, về Thánh Gióng, về Sơn Tinh Thủy Tinh, về An Dương Vương, về
bánh chưng bánh giầy, về An Tiêm…đã nhen nhóm niềm tin tất thắng về một
tương lai của cả một dân tộc bị ngoại bang thống trị. Cho đến năm 939, với
chiến thắng của Ngô quyền dân tộc ta đã bẻ gẫy cái vòng xiềng xích “quận
huyện” của bọn phong kiến nhà Hán. Ta là là ta, ta là dân tộc Việt Nam không
thể là ai khác. Chùm truyện cổ về háo khí dân tộc chứ không thể là ai khác.
Chùm truyện cổ về hào khí dân tộc ấy nhờ vậy mà được bảo tồn và phát triển
mãi mãi bằng hình thức truyền miệng. Trong một thời gian lịch sử lâu dài, khi
đã có văn tự để ghi chép, in ấn rồi thì kể chuyện vẫn còn tồn tại và phát triển
song song với sự phát triển của văn tự.
(Chu Huy, Tài liệu đã dẫn, trang 12-13)
Như vậy, Chuyện là có sự việc có diễn biến, có nhân vật nhằm nói lên
một điều gì đó. Người ta có thể mang chuyện ra để kể. Kể chuyện là phương

14



thức tự sự, một phương thức biểu đạt để kể các chuyện. Chúng không chỉ
được sử dụng trong đời sống mà còn được sử dụng trong sáng tác văn học.
Giá trị một truyện ngắn, truyện dài,… do nhiều yếu tố tạo nên, trong đó có tài
kể chuyện của nhà văn. Dưới góc độ giao tiếp, kể chuyện là một hoạt động
giao tiếp có người phát, người nhận, nội dung là những sự việc xảy ra trong
đời sống hằng ngày và diễn ra trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Vậy thế nào là văn kể chuyện?
Trong các thể loại tập làm văn, văn kể chuyện là thể loại văn nghệ thuật
gắn liền với đời sống xã hội, có tác dụng giáo dục đạo đức, tư tưởng tình cảm,
kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học. Thể loại tập làm văn này vận dụng tổng
hợp, ở mức độ cao, vốn tri thức về cuộc sống, về văn chương và các kĩ năng
của người nói, người viết để thuyết phục nhận thức, tư tưởng, tình cảm, hành
động của người nghe, người đọc.
Trong cuốn “Rèn luyện kĩ năng thực hành Tiếng việt” của Nguyễn
Quang Ninh cho rằng: Văn kể chuyện là loại văn viết ra nhằm trình bày
những sự việc xảy ra trong đời sống xã hội, sự đánh giá đó không chỉ dừng lại
ở một sự việc đơn lẻ nào mà là sự phản ánh và đánh giá có bắt đầu có kết
thúc.
Tóm lại, ta có thể hiểu khái niệm văn kể chuyện như sau:
Văn kể chuyện là loại văn mà học sinh hay được luyện tập diễn đạt bằng
miệng hoặc viết thành bài theo quy tắc nhất định nhằm thuật lại cho người
đọc, người nghe diễn biến, hoạt động của một sự vật, sự việc hoặc của chính
bản thân mình và từ câu truyện đó rút ra được nhiều điều bổ ích.
1.1.2.2 Đặc điểm của văn kể chuyện
Văn kể chuyện được ở lớp 4 được chia làm những loại chính sau: Kể
chuyện đã được nghe, được đọc ngoài giờ học, kể lại câu chuyện được chứng
kiến hoặc tham gia, nghe và kể lại câu chuyện vừa nghe thầy cô kể trên lớp,…

15



Văn kể chuyện phải có cốt truyện. Đó là một chuỗi sự việc có đầu có
cuối làm nòng cốt cho diễn biến của truyện, liên quan đến một hay một số
nhân vật. Cốt truyện thường có 3 phần: Mở đầu, diễn biến, kết thúc. Qua sự
việc có diễn biến, có nhân vật, người kể nhằm nói lên một điều gì đó. Cho nên
kể chuyện thực ra không phải giản đơn là kể một câu chuyện nào đó mà thông
qua câu chuyện, thông qua số phận nhân vật, người kể muốn thể hiện ý nghĩa
của cuộc đời, bài học về con người, về nhân sinh quan, thế giới quan, từ đó,
giúp mọi người thấy được cái hay, cái đẹp của cuộc sống, sống tốt hơn, đẹp
hơn. Do đó, “s v
n

n

u mu n n

n

n n v t chỉ là phương tiện còn

mới là mục đích của truyện. Người ta có thể kể về con

người, sự việc thật, đã xảy ra trên đời, cũng có thể “bịa” ra câu chuyện, “bịa”
ra nhân vật dựa trên kinh nghiệm sống của mình nhưng không thể “bịa” ra ý
nghĩa cuộc đời.

nghĩa cuộc đời phải rất thật, phải thể hiện sâu sắc niềm tin,

lí tưởng, đạo đức thiêng liêng của dân tộc, thời đại.

Không thể có cốt truyện mà chỉ bao gồm một sự việc, mà phải có nhiều
sự việc gắn bó với nhau.Trong cuốn Văn m êu tả và kể chuy n, nhà văn Phạm
Hổ viết: “ N ày xư

n em n à k

k

mẹ mất, mớ

em ủa cải

ra chia cho nhau,… nếu chuyện Cây khế mà chỉ viết đến đó thì không thể gọi
là truyện được, vì nó chưa có chuyện và chưa có ý nghĩa gì cả. Nếu kể tiếp:
N ười anh tham giành h t nhà cửa, của cải và chỉ chia cho em mình một túp
l u con cùng một cây kh thì cũng đã bắt đầu vào chuyện nhưng vẫn chưa có
chuyện. Phải có chuyện con chim tới ăn khế, phải có chuyện người em rồi
người anh theo chim đi lấy vàng, người anh tham quá bị chết… thì mới gọi có
chuyện, có ý nghĩa…”
Đối với văn kể chuyện nếu chẳng có chuyện ( các sự việc nối tiếp nhau)
để kể thì có lẽ văn bản thuộc thể loại khác, chẳng hạn như miêu tả, nghị luận,
thuyết minh, biểu cảm… Ngay cả nhưng câu chuyện ta tưởng “không có

16


chuyện” bởi chỉ là những mẩu vụn của cuộc sống như “Hai đứa trẻ” của
Thạch Lam,

“Thanh ! Dạ !” của Nguyễn Công Hoan thì thực chất vẫn có


các sự việc nối tiếp nhau xảy đến nhân vật dù không có “thắt nút”, “mở nút”,
“cao trào”. Với học sinh lớp 4, đối tượng của việc dạy văn kể chuyện trong
nhà trường Tiểu học, không nên yêu cầu trẻ phải xây dựng được chuỗi sự việc
phức tạp, gay cấn mà chỉ cần có những sự việc hợp lí gắn bó với nhau.
Vai trò của người kể là phải sử dụng các tình tiết, các sự kiện, đặc điểm tính
cách các nhân vật làm luận cứ để người nghe, người đọc tự đi đến những kết
luận, những bài học về ý nghĩa cuộc đời, nhân tình thế thái, nhân sinh quan,
thế giới quan... Chuyện được kể theo ngôi, có 2 cách để kể lại lời nói và ý
nghĩ của nhân vật đó là kể nguyên văn (dẫn lời trực tiếp) và kể bằng lời của
người kể chuyện (lời dẫn gián tiếp). Trong bài văn kể chuyện, nhiều khi ta
phải kể lại lời nói và ý nghĩ của nhân vật. Lời nói và ý nghĩ cũng nói lên tính
cách nhân vật và ý nghĩa câu chuyện. Riêng về ngôi kể, có thể kể theo ngôi
thứ nhất ( tôi, chúng tôi, em, chúng em ) hoặc kể theo ngôi thứ ba ( lời người
dẫn chuyện). Ngoài ra, trong nhà trường còn phát triển hình thức chuyển cách
kể chuyện đã cho từ ngôi nọ sang ngôi kia. Trong quá trình kể, người ta có thể
kể theo trình tự thời gian, chuyện xảy ra trước kể trước, chuyện xảy ra sau kể
sau. Ngoài ra còn có cách kể theo trình tự đan xen vào nhau: trước – sau, sau
– trước…Lại có chuyện kể theo lối sắp xếp song song: hai việc cùng xảy ra
cùng một lúc ở hai nơi khác nhau.
Riêng với thể loại truyện kể đã được chứng kiến hoặc tham gia đòi hỏi
học sinh phải kể lại sự việc có thật, đã xảy ra và kể lại trung thành diễn biến
của sự việc theo thời gian và không gian hoặc thông qua những chi tiết chọn
lọc tiêu biểu. Trong quá trình viết đoạn văn kể chuyện, người viết phải là
người trong cuộc ( tức người tham gia) hoặc được dự, được xem nên phải

17


trung thành với các sự kiện có thật, không được bóp méo dù là một chi tiết

nhỏ.
1.1.2.3 Văn kể chuyện trong trường Tiểu học
Văn kể chuyện có vị trí rất quan trọng trong phân môn Tập làm văn ở
Tiểu học. Từ thuở nhỏ, trẻ em đã sớm học và tập dùng văn để kể chuyện. Ở
trường học, văn kể chuyện được dạy từ lớp 2. Qua những câu chuyện này, học
sinh có vốn từ phong phú, đa dạng hơn, hiểu biết và năng lực suy nghĩ của các
em cũng được nâng lên ở một mức cao hơn. Ở lớp 4 có 3 dạng bài học kể
chuyện: Kể chuyện đã nghe thầy cô kể trên lớp; Kể chuyện đã nghe, đã đọc;
Kể chuyện đã được chứng kiến, tham gia.
Kiểu bài nghe – kể lại câu chuyện vừa nghe thầy cô kể trên lớp được thực
hiện ở tuần thứ nhất trong một chủ điểm 3 tuần học. Trong trường hợp này,
câu chuyện (có độ dài khoảng trên dưới 500 chữ) được in trong sách giáo
viên, trình bày bằng tranh hoặc tranh kèm lời dẫn giải ngắn gọn trong sách
giáo khoa. Câu chuyện được thầy, cô kể cho học sinh nghe, rồi học sinh kể
lại. Bên cạnh mục đích chung là rèn kĩ năng cho học sinh, kiểu bài này còn có
mục đích là rèn kĩ năng nghe, ở nhiều bài có thêm điểm tựa để nhớ truyện là
tranh minh họa và gợi ý dưới tranh.
Kiểu bài Kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc ngoài giờ kể chuyện yêu cầu
học sinh phải tự sưu tầm trong sách báo hoặc trong đời sống hằng ngày ( nghe
người thân hoặc ai đó kể ) để kể lại. Kiểu bài này trước đây chỉ có trong giờ
Tập làm văn. Bên cạnh mục đích chung là rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh,
kiểu bài đã nghe, đã đọc ngoài giờ kể chuyện còn có mục đích kích thích học
sinh ham đọc sách.
Khi kể chuyện đã nghe, đã đọc phải kể đúng cốt truyện, trung thành với
cốt truyện, nhân vật, chi tiết nhưng có thể kể bằng lời lẽ, giọng điệu, cách

18


nhấn mạnh hay lướt qua để kể. Sự sáng tạo chỉ ở lời kể, cách kể. Khi kể lại

câu chuyện đã nghe, đã đọc học sinh còn tập chuyển đổi ngôi kể.
Kiểu bài kể lại câu chuyện đã được chứng kiến hoặc tham gia yêu cầu học
sinh kể những chuyện người thật, việc thật có trong cuộc sống xung quanh mà
các em đã biết, đã thấy, cũng có khi chính các em là nhân vật của câu truyện
như kể về một tấm gương kiên trì, vượt khó, kể về một lần tham gia dọn vệ
sinh môi trường, kể về một tấm gương hiếu học... Kiểu bài này trước đây chỉ
có trong giờ tập làm văn. Các bài kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia
rất đa dạng vì chúng gắn với các chủ điểm của sách. Bên cạnh mục đích rèn
luyện kĩ năng nói, kiểu bài kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia còn có
mục đích rèn cho học sinh thói quen quan sát, ghi nhớ.
So với các câu chuyện ở lớp 2,3 thì các chuyện ở lớp 4,5 có độ dài lớn
hơn, phức tạp hơn, nội dung sâu sắc hơn. Những câu chuyện này nói về
những phẩm chất tốt đẹp mà con người cần phải rèn luyện gắn với các chủ
điểm học tập.
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Thực trạng dạy học văn kể chuyện ở trường Tiểu học
Hầu hết giáo viên ở trường tiểu học Tiến Thịnh B trải qua tập huấn về
chương trình mới nên giờ kể chuyện diễn ra có sự sôi nổi, tích cực, tự giác
của học sinh và giáo viên giữ đúng được vai trò của mình. Phần lớn học sinh
tham gia kể đều nhớ nội dung câu truyện.
Tuy nhiên, trong chương trình cũ, kiểu bài kể chuyện được xây dựng
với những kiểu bài cụ thể và những kĩ năng đặt ra cho từng đề bài cụ thể đó.
Trong chương trình mới, kể chuyện lại bắt đầu bằng việc hình thành cho học
sinh một số kiến thức chung về văn kể chuyện, sau đó mới đi vào phần thực
hành. Điều này khiến cho không ít giáo viên những khó khăn, lúng túng về
phương pháp truyền đạt, về kinh nghiệm giảng dạy… Bên cạnh đó, trong

19



×