Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Vai trò của hậu phương trong kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược giai đoạn 1945 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.19 KB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

NGUYỄN VĂN THƯỞNG

VAI TRÒ CỦA HẬU PHƯƠNG
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
GIAI ĐOẠN 1945 - 1954
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI - 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

NGUYỄN VĂN THƯỞNG

VAI TRÒ CỦA HẬU PHƯƠNG
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC GIAI
ĐOẠN 1945 - 1954
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
Người hướng dẫn khoa học

Thiếu tá, ThS. Nguyễn Thế Hùng

HÀ NỘI - 2018




LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Trung tâm Giáo dục
Quốc phòng và An ninh - trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tận tình và tạo
điều kiện cho em hoàn thành khóa luận của mình.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thầy Thiếu tá, ThS. Nguyễn
Thế Hùng - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và truyền đạt kinh nghiệm
cho em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài khóa luận.
Do lần đầu tiên làm quen với công tác nghiên cứu khoa học nên đề tài
của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được
sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn sinh viên để đề tài này
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên
Nguyễn Văn Thưởng


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
thầy Thiếu tá, ThS. Nguyễn Thế Hùng. Em xin cam đoan rằng: Đây là kết
quả nghiên cứu của riêng em.Nếu sai em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2018
Sinh viên
Nguyễn Văn Thưởng


DANH MỤC VIẾT TẮT


KÝ HIỆU VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

1

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

2

CHND

Cộng hòa nhân dân

3

QĐNDVN

Quân đội nhân dân Việt Nam

STT


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 2

4. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 2
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 3
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 3
7. Đóng góp khoa học của khóa luận ................................................................ 3
8. Kết cấu đề tài ................................................................................................. 3
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ HẬU
PHƯƠNG TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM
LƯỢC GIAI ĐOẠN 1945 – 1954 ................................................................... 4
1.1. Cơ sở lí luận .............................................................................................. 4
1.1.1. Một số quan điểm về vấn đề hậu phương ............................................... 4
1.1.2. Vai trò của hậu phương trong chiến tranh cách mạng ............................ 9
1.2. Cơ sở thực tiễn của hậu phương trong kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược ............................................................................................... 13
1.2.1. Bối cảnh lịch sử trong kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945 - 1951 ........... 13
1.2.2. Bối cảnh lịch sử trong kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1951-1954 16
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 19
Chương 2. CHI VIỆN CỦA HẬU PHƯƠNG TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC GIAI ĐOẠN 1945-1954 ...... 20
2.1. Chi viện hậu của phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp
giai đoạn 1945-1951 ....................................................................................... 20
2.1.1. Sự chi viện của hậu phương trong nước ............................................... 20
2.1.2. Sự chi viện của hậu phương quốc tế ..................................................... 33


2.2. Chi viện và củng cố hậu phương trong kháng chiến chống Pháp giai
đoạn 1951 - 1954 ............................................................................................ 39
2.2.1. Sự chi viện của hậu phương trong nước ............................................... 39
2.2.2. Sự chi viện của hậu phương quốc tế ..................................................... 48
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 53
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM VỀ SỰ CHI VIỆN CỦA

HẬU PHƯƠNG TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
XÂM LƯỢC GIAI ĐOẠN 1945-1954 ......................................................... 54
3.1. Kết quả và ý nghĩa.................................................................................. 54
3.1.1 Kết quả ................................................................................................... 54
3.1.2 Ý nghĩa ................................................................................................... 55
3.2 Một số bài học kinh nghiệm chủ yếu ..................................................... 56
3.2.1. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong đấu tranh bảo vệ Tổ
quốc ................................................................................................................. 56
3.2.2. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ Quốc phát huy tinh
thần tự lực, tự cường ....................................................................................... 58
3.2.3. Tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế. ......................................................... 59
3.2.4. Bảo đảm xây dựng hậu phương về chính trị và lực lượng vũ trang vững
mạnh kết hợp chặt chẽ kinh tế quốc phòng. .................................................... 62
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................... 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 67


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Năm 1945, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập
để khẳng định với thế giới Việt Nam là một đất nước độc lập, thực dân Pháp
đã quay trở lại hòng cướp nước ta một lần nữa. Đứng trước thế lực của địch,
quân và dân ta quyết không nhân nhượng, quyết không để mất nước vào tay
giặc. Tháng 12 năm 1946, sau khi nhận được lá thư “Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến” của Hồ Chủ tịch, cả nước ta đồng lòng đứng lên dốc toàn bộ lực
lượng, tính mạng và của cải để sẵn sàng cho cuộc chiến lâu dài, trường kì.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1954 là sự đánh đổi
từ xương máu, từ nước mắt, từ tuổi xuân của biết bao anh hùng liệt sĩ trực tiếp
cầm súng nơi tiền tuyến, và còn là cả sự bất khuất, kiên trung của những con

người nơi hậu phương. Từng manh áo, từng hạt gạo, mỗi đôi giầy, mỗi lá thư
viết vội đều góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại ấy. Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 12 khóa II tháng 5/1957 đã khẳng định “Hậu
phương vững chắc là nhân tố quan trọng bậc nhất quyết định thắng lợi của
kháng chiến”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đã có câu nói khẳng định sức
mạnh của mặt trận hậu phương: “Bọn đế quốc, bọn phản động không bao giờ
đánh giá được sức mạnh đoàn kết của một dân tộc, sức mạnh của một nhân
dân” và khẳng định “Trên mặt trận Điện Biên Phủ, vấn đề cung cấp lương
thực, thực phẩm, đạn dược là nhân tố vô cùng quan trọng, quan trọng không
kém về tác chiến; khó khăn về cung cấp không kém khó khăn về tác chiến và
công tác cung cấp là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi”.
Hoàn cảnh đất nước sau chiến thắng Biên giới thu đông 1950, chúng ta
đã phá vỡ được âm mưu của Pháp nhằm thế cô lập cách mạng Việt Nam với
các bên ngoài. Đồng thời, chọc thủng hành lang Đông - Tây mà Pháp xây

1


dựng ở Bắc Bộ. Từ đó, Đảng nhận định chúng ta có thể thực hiện các chiến
dịch lớn và có khả năng giành chiến thắng. Tuy nhiên, muốn giành thắng lợi
đòi hỏi Đảng và Chính phủ phải tích cực chuẩn bị về mọi mặt cho các chiến
dịch, một yếu tố tiên quyết không thể không bàn đến nếu “muốn tiến hành
chiến tranh một cách nghiêm chỉnh, phải có một hậu phương được tổ chức
một cách vững chắc…”, hậu phương kháng chiến trở thành vấn đề được Đảng
quan tâm đặc biệt. Bởi vì, không có quân đội nào trên thế giới không có hậu
phương vững chắc mà lại có thể chiến thắng được, cố nhiên là chúng ta nói
một cuộc chiến thắng bền vững và lâu dài.
Xuất phát từ việc nhận thấy tầm quan trọng và những đóng góp to lớn
của mặt trận hậu phương mang lại trong kháng chiến chống Pháp, tôi đã lựa
chọn đề tài “vai trò của hậu phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp

xâm lược giai đoạn 1945 - 1954 ” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc phân tích quá trình sự chi viện của hậu phương trong
kháng chiến chống thực dân Pháp qua đó rút ra vai trò, ý nghĩa và bài học
kinh nghiệm quý báu trong xây dựng, bảo vệ và phát huy sức mạnh hậu
phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn 1945-1954 vận
dụng vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề hậu phương kháng
chiến chống thực dân Pháp
- Nghiên cứu quá trình chi viện của hậu phương cho kháng chiến chống
thực dân Pháp
- Ý nghĩa, vai trò của hậu phương và rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu.
4. Đối tượng nghiên cứu
Sự chị viện của hậu phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược giai đoạn 1945 - 1954

2


5. Phạm vi nghiên cứu
Vai trò của hậu phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược giai đoạn 1945-1954 ở nước ta
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu phương pháp luận khoa học chủ nghĩa
Mác-Lênin và trình bày khóa luận, tác giả sử dụng các phương pháp lịch sử logic, phương pháp tổng hợp, phương pháp luận, phương pháp phân tích,
phương pháp nghiên cứu tài liệu, giáo trình, các văn bản
7. Đóng góp khoa học của khóa luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài làm sâu sắc thêm cơ sở lí luận và thực
tiễn về vấn đề vai trò của hậu phương - vấn đề trực tiếp quyết định đến thắng

lợi đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Tập hợp, hệ thống hóa các tư liệu có liên quan tới đề tài từ những
nguồn khác nhau.
Khóa luận cung cấp thêm nguồn tài liệu phục vụ việc nghiên cứu lịch
sử cũng như làm tài liệu phục vụ giáo dục truyền thống và giảng dạy, tham
khảo học tập về quân sự
8. Kết cấu đề tài
Khóa luận gồm có: mục lục, mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, khóa luận gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề hậu phương trong
kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược giai đoạn 1945 - 1954
Chương 2: Chi viện của hậu phương trong kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược
Chương 3: Kết quả và bài học kinh nghiệm về sự chi viện của hậu
phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược giai đoạn 19451954

3


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ HẬU PHƯƠNG
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
GIAI ĐOẠN 1945 – 1954
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số quan điểm về vấn đề hậu phương
1.1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
“Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự, phải có một hậu
phương được tổ chức vững chắc. Một đội quân giỏi nhất, những người trung
thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt,
nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy đủ”

(V.I.Lênin toàn tập, tập 35, trang 497).
Trong chiến tranh, xây dựng hậu phương là vô cùng quan trọng, đây
không chỉ là nơi xây dựng và dự trữ tiềm lực của chiến tranh về chính trị, kinh
tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chi viện nhân lực mà còn là chỗ dựa tinh thần
cho tiền tuyến. Sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến là một yếu tố
thường xuyên quyết định thắng lợi của cuộc chiến tranh. Việc xây dựng hậu
phương là một vấn đề có tính chất chiến lược và quyết định sống còn đối với
thắng lợi của toàn bộ cuộc chiến. Bên cạnh đó, các hoạt động hậu phương
cung cấp nhu cầu của tiền tuyến được đẩy mạnh hơn bao giờ hết, đặc biệt là
khi phương án chiến dịch có sự thay đổi từ “đánh chắc, tiến chắc” sang “đánh
nhanh, thắng nhanh” góp phần tạo nên chiến thắng .
Sau Lênin, Stalin cũng nói: “Không có quân đội nào trên thế giới không
có hậu phương vững chắc mà lại có thể thắng được”. Chiến thắng của Hồng
quân Liên Xô là minh chứng tiêu biểu cho câu nói của những nhà chính trị,
quân sự vĩ đại này. Việc xây dựng hậu phương là một vấn đề có tính chất

4


chiến lược và quyết định sống còn đối với thắng lợi của toàn bộ cuộc chiến.
Đó là quy luật của các loại chiến tranh từ xưa đến nay .
Như vậy hậu phương có vững chắc thì tiền tuyến mới có chỗ dựa vưng
chắc vì vậy xây dưng và phát triển hậu phương là nhiệm vụ cần đạt được để
phát triển chiến tranh cách mạng.
1.1.1.2. Tư tưởng của Hồ Chí Minh
“Khi có chiến tranh phải huy động và tổ chức tất cả các lực lượng
trong nước để chống giặc”.
Hậu phương là một nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của
chiến tranh. Nhìn lại cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông của nhà
Trần, chúng ta sẽ thấy rõ điều này.Nhà Trần đã ba lần đại thắng quân Nguyên

xâm lược vào những năm 1258, 1285 và 1288. Đánh thắng quân Nguyên đã
từng “bách chiến bách thắng” khắp các miền Âu, Á thời bấy giờ không phải là
ngẫu nhiên, càng không phải là chuyện đơn giản, dễ dàng. Trái lại nó là kết
quả rực rỡ của sự chuẩn bị đầy đủ tinh thần của quân và dân Đại Việt ta, là sự
thắng lợi của đường lối chiến lược, chiến thuật đúng đắn của vua tôi nhà Trần.
Đường lối chiến lược chiến thuật đúng đắn ấy bắt nguồn từ quyết định: “nới
sức dân làm kế võ sâu gốc vững”. Trên cơ sở đồng tình ủng hộ và tự nguyện
tham gia của nhân dân.
Kế thừa truyền thống đánh giặc của ông cha ta từ bao đời nay với tinh
thần yêu nước Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng chiến tranh toàn dân đánh
giặc “Khi có chiến tranh phải huy động và tổ chức tất cả các lực lượng trong
nước để chống giặc”. Ở đây Hồ Chí Minh muốn đoàn kết dân tộc lại với mục
tiêu chung là: cứu Tổ quốc. Kẻ thù nước ta là nước lớn, được trang bị vũ khí
kỹ thuật cao, có tiềm lực kinh tế quân sự mạnh, chiếm ưu thế áp đảo ta mà
chúng ta vẫ giành thắng lợi là do chúng ta biết kết hợp sức mạnh toàn dân tộc
với chiến lược quân sự, tranh thủ sự ủng hộ của hâu phương.

5


“Phải có một quân đội đánh giỏi và một hậu phương vững chắc…";
“Mỗi một người công nhân, mỗi một người nông dân đều phải biết đánh
giặc”; “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”. Đó là những lời của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong các bài viết đăng trên Báo Nhân dân, số ra từ ngày 21
đến 25-1-1954. Trong các bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh để mọi
người thấy rõ quan điểm lý luận về tính tất yếu phải xây dựng một quân đội
của giai cấp công nhân, cùng với hậu phương vững chắc, đáp ứng yêu cầu của
cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc. Qua đó, Người chủ trương tập trung
củng cố, tăng cường sức mạnh cho quân đội; cả nước hợp sức, dồn lực, xây
dựng hậu phương vững chắc, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng".

Trước tình hình khó khăn của nước nhà để huy động tất cả các lực
lượng để chống giặc ngày 19/ 12/ 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến. Nội dung toàn văn của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến” sau này đã được in trong Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, trang 480, nhà
xuất bản Chính trị Quốc giai Hà nội 1995, có nội dung như sau:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lẫn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước
ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ
người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người
Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu tổ quốc. Ai có súng
dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng,
gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự về, dân quân! Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy
sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian khổ kháng

6


chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định thuộc về
dân tộc ta!”
Không phân biệt người già hay trẻ nhỏ, đàn ông hay đàn bà với vũ khí
thô sơ chúng ta đã đã đồng lòng cùng đứng lên đánh giặc đặt trách nhiệm cứu
quốc lên vai tất cả mọi người dân Việt Nam mọi tầng lớp, mọi độ tuổi, mọi
giai cấp,... dùng mọi thứ có trong tay để chiến đấu hy sinh đến giọt máu cuối
cùng để giữ gìn đất nước. “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền” Bác
Hồ nói.

Khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đại đoàn kết toàn dân, ý
chí quyết tâm giành độc lập dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp tham gia
xây dựng quân đội và bảo đảm hậu phương cho tuyền tuyến, giành thắng lợi
trong Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Và kết thúc lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định niềm tin tất
thắng: “Với một lòng kiên quyết hy sinh, dù phải gian lao kháng chiến, thắng
lợi nhất định về dân ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn nǎm! Kháng
chiến thắng lợi muôn nǎm!”.
Như vậy, muốn tiến hành chiến tranh chúng ta phải tranh thủ được sự
đồng tình và ủng hộ của nhân dân, phải huy động tất cả các lực lượng huy
động tất cả trang bị vũ khí sẵn có. Đúng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Khi có chiến tranh phải huy động và tổ chức tất cả các lực lượng trong
nước để chống giặc”. Hậu phương có mạnh thì tiền tuyến mới mạnh. Hậu
phương và tiền tuyến có tác đọng 2 chiều với nhau: Tiền tuyến đánh thắng sẽ
bảo vệ được hậu phương, động viên hậu phương tạo điều kiện để hậu phương
củng cố và xây dựng; ngược lại xây dựng hậu phương vững mạnh có tác dụng
quyết định đến thắng lợi ở tiền tuyến.
1.1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề hậu phương
Hậu phương thực sự là một nhân tố quyết định thường xuyên thắng lợi
của chiến tranh. Đối với chiến tranh nhân dân Việt Nam, hậu phương càng giữ

7


một vai trò đặc biệt quan trọng. Cuộc kháng chiến chống Pháp, hậu phương luôn
luôn được Đảng ta coi trọng. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn
1945 - 1954, căn cứ vào hoàn cảnh tình hình trong nước và thế giới đã có nhiều
thay đổi đặc biệt là diễn biến cuộc kháng chiến của ta và những âm mưu, chiến
lược tấn công của địch mà, Đảng ta đã đặc biệt chú trọng xây dựng và phát triển
hậu phương làm chỗ dựa vững chắc của cách mạng.

Đường lối của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, chủ yếu là “đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài,
dựa vào sức mình là chính. “Bởi lẽ, chiến tranh của ta là chiến tranh nhân
dân, do nhân dân tiến hành (mỗi người dân là một chiến sĩ), với lực lượng vũ
trang ba thứ quân làm nòng cốt.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, hậu phương đóng vai trò vô cùng
quan trọng. Từ đầu năm 1954 hưởng ứng lời kêu gọi “Tất cả vì tiền tuyến, tất
cả để chiến thắng… dốc toàn lực chi viện cho tiền tuyến Điện Biên Phủ” của
Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Cả nước đều hướng ra mặt trận, cán bộ,
nhân dân các tỉnh đã chạy đua với thời gian, mưa lũ nhằm đảm bảo tốt nhất
nhu cầu chiến đấu cho bộ đội, nhân dân đã hăng hái, tự nguyện cung cấp sức
người, sức của cho tiền tuyến.
Nắm vững qui luật đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tranh thủ mọi thời
gian, điều kiện vật chất để chuẩn bị hậu phương cho chiến tranh giải phóng
dân tộc và bảo vệ tổ quốc. Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa đánh giặc,
vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng căn cứ địa hậu phương là một chủ trương
chiến lược đúng đắn, sáng tạo của Đảng, phản ánh một trong những đặc trưng
của cách mạng Việt Nam.
Đảng đã đặc biệt chú ý đến vai trò quan trọng của hậu phương, bởi vì
với một cuộc chiến không cân sức: dân tộc ta thắng những kẻ thù mạnh hơn
gấp nhiều lần bởi vì chúng ta có nhân dân anh hùng, có sự lao động sáng tạo,

8


tài năng và trí tuệ của Đảng, có hậu phương lớn tập trung sức người, sức của,
động viên tinh thần tuyến tuyến lớn đánh thắng kẻ thù. Do vậy, việc nghiên
cứu chủ trương xây dựng hậu phương của Đảng, để qua đó rút ra những bài
học kinh nghiệm, phục vụ cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước hiện
nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều

thuận lợi cũng như khó khăn mới, sẽ góp phần đắc lực vào nhiệm vụ bảo vệ
và xây dựng tổ quốc Việt Nam XHCN.
Đảng, Nhà nước ta vận dụng sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng,
phát triển Quân đội nhân dân Việt Nam, xây dựng miền Bắc thành hậu
phương lớn, cùng quân dân miền Nam thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất nước nhà.
1.1.1.4. Ý nghĩa của hậu phương.
- Hậu phương là chỗ dựa về chính trị, tinh thần của tiền tuyến chiến đấu
- Hậu phương cung cấp cho tiền tuyến: nhân lực, vũ khí, trang bị, lương
thực, thực phẩm, thuốc men, thường xuyên bổ sung lực lượng cho tiền tuyến
và khích lệ tiền tuyến chiến đấu.
- Hậu phương trong cuộc chiến tranh nhân dân là một hệ thống căn cứ
ở thành thị và nông thôn, các khu du kích và căn cứ du kích trong vùng tạm bị
địch chiếm.
- Hậu phương chăm lo cứu chữa thương binh, đón tiếp các chiến sĩ ốm
đau bệnh tật trở về.
- Hậu phương còn là chỗ “dừng chân” của các lực lượng vũ trang trong
từng chiến dịch để học tập rút kinh nghiệm tác chiến, bồi bổ sức lực.
1.1.2. Vai trò của hậu phương trong chiến tranh cách mạng
1.1.2.1. Hậu phương là địa bàn đứng chân và động viên chính trị tinh thần
Thứ nhất, hậu phương là địa bàn đứng chân và động viên chính trị tinh thần.
Thật vậy, hậu phương là vùng phía sau chiến tuyến, cung cấp nhân tài,
vật lực, là nền tảng kinh tế, cơ sở vật chất của tiền tuyến, chiến tranh chính là

9


sự tiếp tục của kinh tế và chính trị để đạt được mục đích nhất định về chính trị
hay kinh tế: “Tiềm lực kinh tế của hậu phương như thế nào thì khả năng
trang bị vũ khí đảm bảo cho hậu cần quân đội như vây, vũ khí trang bị đảm

bảo cho hậu cần như thế nào, thì hoạt động của tiền tuyến như vậy, hoạt động
của tiền tuyến thế nào thì kết cục của chiến tranh như vậy” [4, tr188]. Từ xưa
đến nay - khi đất nước chiến tranh hay hòa bình, vai trò của hậu phương vẫn luôn
được đánh giá cao, đòi hỏi các nhà chiến lược, nhà quân sự phải quan tâm thường
xuyên. Bởi lẽ, chiến tranh là sự thử thách toàn diện với mỗi bên tham chiến, trong
đó tất cả lực lượng đều bị thử thách, tiêu hao nên đòi hỏi phải được phát triển trên
mọi mặt nhằm lấn át, đè bẹp đối phương để dành chiến thắng. Nếu cơ sở vật chất
của đất nước mạnh hay yếu, dồi dào hay thiếu thốn là một điều kiện quan
trọng, quyết định và có tác động rất lớn đến thắng hay bại của chiến tranh thì
sức mạnh của hậu phương không chỉ dựa trên những chỉ số kinh tế, trên mức
sống, trình độ hiểu biết khoa học kĩ thuật của con người, cũng như vũ khí và
trang bị kĩ thuật của quân đội, mà còn dựa trên nhiều yếu tố khác nhau nữa.
Mặc dù hậu phương có vai trò quan trọng trong việc quyết định thắng bại của
chiến tranh như vậy nhưng giải quyết vấn đề hậu phương, xây dựng và phát
huy sức mạnh của hậu phương thế nào lại là một vấn đề không dễ.
Không chỉ có vậy, hậu phương có thể chuyển hóa từ yếu sang mạnh hoặc
ngược lại nên cách huy động lực lượng hậu phương là một vấn đề vô cùng
quan trọng. Nó phụ thuộc vào những yếu tố như: tính chất của chiến tranh,
trình độ giác ngộ của con người, năng lực xử lý các vấn đề liên quan đến
chiến tranh... Muốn để hậu phương động viên được sức người, sức của cho
kháng chiến, đồng thời là nguồn cổ vũ mạnh mẽ về chính trị, tinh thần cho
các lực lượng chiến đấu trên chiến trường thì chúng ta phải trải qua một quá
trình xây dựng, từng bước phát triển và củng cố hậu phương từ yếu thành
mạnh. Khi đó hậu phương phải thường xuyên tái tạo ra tiềm lực mới cả về vật
chất lẫn tinh thần, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
10


Đề cập đến những yến tố cụ thể quyết định sức mạnh của hậu phương,
Mác và Ăngghen, Lê-nin đều đã đánh giá cao nhân tố chính trị - tinh thần,

đồng thời cũng nhấn mạnh đến yếu tố trang bị vũ khí. Xtalin khi bàn đến sự
thử thách khắc nghiệt của chiến tranh đã nói:
Lịch sử chiến tranh dạy rằng, chỉ có những nước nào mạnh hơn đối
phương của mình về mặt phát triển và tổ chức kinh tế, về kinh nghiệm, tài
nghệ và tinh thần chiến đấu của quân đội, về tinh thần kiên cường và đoàn kết
của nhân dân trong suốt cả quá trình chiến tranh thì mới chịu đựng được sự
thử thách đó [22, tr113]
1.1.2.2. Hậu phương là cơ sở kinh tế, cung cấp vật chất
Thứ hai, hậu phương là cơ sở kinh tế, cung cấp vật chất.
Đây là một tiêu chuẩn quan trọng nữa quyết định sự vững mạnh của hậu
phương. Theo đồng chí Lê Quẩn “một hậu phương vững mạnh là một hậu
phương có tiềm lực kinh tế và quốc phòng hùng hậu, có nguồn dự trữ dồi dào
để cung cấp lương thực, súng đạn, sức người, sức của đầy đủ cho tiền tuyến”
[11, tr28]. Đồng chí Trường Chinh cũng coi một trong những nhân tố thường
xuyên của thắng lợi trong một cuộc chiến tranh nhân dân ở thời đại của chúng
ta là “hậu phương chiến tranh nhân dân được củng cố, nguồn cung cấp nhân
tài, vật lực cho chiến tranh dồi dào, chỗ dựa của các lực lượng vũ trang vững
mạnh” [17, tr54]. Qua đây ta có thể thấy các nhà lãnh đạo
“Tiềm lực kinh tế của hậu phương như thế nào thì khả năng trang bị vũ
khí đảm bảo cho hậu cần quân đội như vây, vũ khí trang bị đảm bảo cho hậu
cần như thế nào, thì hoạt động của tiền tuyến như vậy, hoạt động của tiền
tuyến thế nào thì kết cục của chiến tranh như vậy” [4, tr188].
1.1.2.3. Hậu phương là nơi cung cấp nhân lực
Hồ Chí Minh đã từng khẳng định “Trong cuộc kháng chiến kiến quốc,
lực lượng chính là ở dân”. Nói đến hậu phương chúng ta nghĩ ngay đến nhân

11


dân, nhân dân vừa là chủ thể vừa đối tượng phục vụ của hậu phương để kháng

chiến. Còn Lê-nin thì cho rằng “Trong chiến tranh, ai có nhiều lực lượng hậu
bị hơn, ai có nhiều nguồn lực, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân
hơn, thì người đó thu được thắng lợi”. Dân là chỗ bao bọc che trở, tạo điều
kiện cho cách mạng xây dựng căn cứ của mình. Ngoài động viên tinh thần và
cung cấp vật chất cho chiến tranh cách mạng, hậu phương còn là nơi cung cấp
nguồn nhân lực đảm bảo yếu tố “cân sức”, “cân tài”.
Như vậy có thể thấy ngay rằng trong các cuộc chiến tranh, hậu phương
là một trong những điều kiện cơ bản quyết định thắng bại, được thua của cả
hai bên tham chiến. Chiến tranh phải dựa trên hậu phương hùng mạnh. Một
quân đội tách khỏi hậu phương thì không thể giành được thắng lợi trong chiến
tranh, không thể tồn tại được Ăng ghen đã viết “Toàn bộ việc tổ chức và
phương thức chiến đấu của quân đội và do đó thắng lợi, thất bại đều tỏ ra là
phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào chất
liệu của con người và cả của vũ khí, nghĩa là vào cả chất lượng và số lượng
của cư dân và của cả kĩ thuật” Lê - nin đã nói “Muốn tiến hành chiến tranh
một cách thật sự, phải có một hậu phương có một tổ chức vững chắc, một đội
quân giỏi nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng
lập tức đều bị kẻ thù tiêu diệt nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực
và huấn luyện đầy đủ” Hậu phương có mạnh có vững chắc hay không một
phần là do cách huy động lực lượng của hậu phương, nó phụ thuộc vào những
yếu tố như: tính chất của chiến tranh, trình độ giác ngộ của con người, năng
lực xử lý các vấn đề liên quan đến chiến tranh. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của cuộc chiến thì hậu phương phải trải qua một quá trình xây dựng, từng
bước phát triển và củng cố hậu phương từ yếu thành mạnh. Trong quá trình
đó, hậu phương phải thường xuyên tái tạo ra tiềm lực mới cả về vật chất lẫn
tinh thần.

12



1.2. Cơ sở thực tiễn của hậu phương trong kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược
1.2.1. Bối cảnh lịch sử trong kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945 - 1951
Ngày 17/8/1945, Uỷ ban Quốc phòng Pháp quyết định đưa 6 vạn quân
sang Đông Dương. Mặc dù mới có một bộ phận nhỏ quân Pháp theo gót quân
Anh vào miền Nam nhưng dựa vào gần 2 vạn lính Pháp còn lại tại Đông
Dương và sự tiếp tay của quân Anh, ngày 23/9/1945, quân Pháp gây hấn
đánh chiếm Nam Bộ, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bắt đầu.
Từ ngày 23/9/1945 đến năm 1946, cuộc kháng chiến diễn ra trên chiến trường
Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Lực lượng vũ trang ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ
tuy rất nhỏ và yếu nhưng có những sự trợ giúp của đoàn quân Nam tiến từ
miền Bắc, Trung vào hỗ trợ. Không những vậy mà còn có các đoàn quân của
Việt kiều từ Lào, Campuchia, từ Thái Lan về, và quan trọng nhất là nhân dân
đã đứng lên chống địch nên đã từng bước ngăn chặn được địch, và làm phá
sản kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào thời điểm bấy giờ còn đang non
trẻ và đang đứng trước muôn ngàn khó khăn, không thể tiến hành một cuộc
chiến tranh với quy mô cả nước với thực dân Pháp. Vì vậy chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã chủ trương hòa hoãn nhân lượng, cố giải quyết các cuộc
xung đột bằng hòa bình để có thể kéo dài và trì hoãn được cuộc chiến tranh nổ
ra để ta có thể có thời gian chuẩn bị lực lượng. Các cuộc hòa đàm Việt - Pháp
đã diễn ra Hiệp định sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước Việt - Pháp (15/9/1946)
được kí kết. Chiến tranh đã lùi lại một bước
Không từ bỏ ý đồ xâm lược, thực dân Pháp ngày càng lấn tới đòi nhân dân
ta hạ vũ khí đầu hàng. Khả năng hoà hoãn không còn, với tinh thần “Thà hy sinh
tất cả chứ nhất định không chịu mấy nước, nhất định không chịu làm nô lệ”,
đêm 19/12/1946, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương
Đảng, cả nước đứng lên kháng chiến. Cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu.

13



Toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Đây chính là
đường lối kháng chiến của Đảng ta xác định ngay từ đầu cuộc chiến Từ ngày
19/12/1946 đến chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947, quân dân ta đã chặn
đánh tiêu hao lực lượng địch, bảo toàn lực lượng rút khỏi thành phố, phát
triển lực lượng, phản công diệt địch trong Chiến dịch Việt Bắc. Sau khi mở
rộng được địa bàn chiếm đóng trên cả nước, Thu Đông năm 1947, Pháp tập
trung trên 2 vạn quân mở cuộc tiến công lớn hiệp đồng quân binh chủng từ
nhiều hướng bao vây căn cứ Việt Bắc, tìm diệt quân chủ lực và đầu não kháng
chiến của ta. Ngày 7/10/1947, địch bắt đầu tiến công. Quân địch theo đường
bộ số 3, số 4 và đường thuỷ sông Lô, sông Gấm hình thành thế bao vây Việt
Bắc. Đồng thời, địch cho quân nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn, chợ Mới, chợ
Đồn định diệt các cơ quan đầu não kháng chiến. Trung ương Đảng và Bộ
Tổng chỉ huy ta đã phán đoán âm mưu của địch nhưng việc nhảy dù xuống
địa điểm cụ thể thì chưa lường hết nên lúc đầu có lúng túng. Sau khi nắm
được kế hoạch của địch, ta đã điều chỉnh kế hoạch tác chiến.Lực lượng ta
dùng trong chiến dịch là 10 trung đoàn và 7 tiểu đoàn bộ binh cùng dân quân
du kích tại chổ. Các chiến trường toàn quốc cũng đẩy mạnh tiến công phối
hợp. Trên hướng tiến công đường số 3, số 4 của địch, quân ta đánh phục kích,
tập kích liên tục nhiều trận tiêu hao lực lượng địch. Bị thiệt hại nặng, địch
phải quay lại.
Mục tiêu chiến dịch không đạt được, lại bị thiệt hại nặng và có nguy cơ
bị bao vây tiêu diệt nên địch phải rút lui. Ngày 22/11, quân Pháp bắt đầu rút
khỏi Việt Bắc. Dọc đường bị quân ta phục kích một số trận. Ngày 22/12/1947,
chiến dịch kết thúc. Chiến dịch Việt Bắc kết thúc giành thắng lợi có ý nghĩa
chiến lược. Quân ta loại khỏi vòng chiến đấu 6.000 địch, đánh bại cuộc tiến
công quy mô lớn của địch, làm phá sản chiến lược đánh nhanh thắng nhanh
của chúng, bảo vệ cơ quan lãnh đạo, chuyển kháng chiến sang giai đoạn mới.


14


Từ năm 1948 đến chiến dịch Biên Giới (1950), phát triển chiến tranh
du kích, đẩy mạnh vận động chiến tranh, chiến thắng Biên Giới.
Về phía địch
Sau Chiến dịch Việt Bắc, thực dân Pháp phải chuyển hướng chiến lược
chiến tranh. Từ chiến lược “Đánh nhanh thắng nhanh” phải chuyển sang
đánh lâu dài, thực hiện chính sách “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng
người Việt đánh người Việt”. Từ mở rộng vùng chiếm đóng chuyển sang
củng cố vùng chiếm đóng, từ những cuộc hành quân lớn nhằm tiêu diệt quân
chủ lực của ta chuyển sang nhiều cuộc hành quân nhỏ đánh vào cơ sở kinh tế,
chính trị và diệt từng bộ phận lực lượng vũ trang ta. Chúng ra sức củng cố
nguỵ quyền, phát triển nguỵ quân, tranh thủ viện trợ Mỹ.
Về phía ta
Sau chiến thắng Việt Bắc, lực lượng vũ trang ta trưởng thành một bước
quan trọng. Ngày 28/8/1949, sư đoàn chủ lực đầu tiên - đại đoàn 308 ra đời,
tiếp đó đầu năm 1950 đại đoàn 304 được thành lập. Chiến tranh du kích phát
triển mạnh ở vùng sau lưng địch cả ở Bắc-Trung Bộ và Nam Bộ; đồng thời, ta
chủ trương “Phải từng bước đẩy vận động chiến tiến tới”.
Tháng 6/1950, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch
Biên Giới nhằm: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông
biên giới Việt - Trung, gắn liền với phe xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố
căn cứ địa Việt Bắc. Ngày 16/9, quân ta nổ súng đánh Đông Khê (Lạng Sơn)
mở màn chiến dịch, sau đó đón đánh diệt 2 binh đoàn quân Pháp đến tăng
cường cho Thất Khê sợ bị tiêu diệt, quân Pháp phải rút chạy khỏi các cứ điểm
từ Thất Khê đến Lạng Sơn, quân ta truy kích diệt thêm một số quân Pháp.
Ở các địa phương, quân dân ta đẩy mạnh hoạt động tiến công phối hợp
với chiến dịch Biên Giới. Ngày 14/10/1950, ta kết thúc chiến dịch. Chiến dịch
Biên Giới, ta đã diệt được trên 8.000 quân địch, thu nhiều vũ khí trang bị,


15


giải phóng vùng biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn), mở rộng
giao lưu quốc tế, làm thay đổi cục diện chiến tranh, giành quyền chủ động
chiến lược trên chiến trường.
1.2.2. Bối cảnh lịch sử trong kháng chiến chống Pháp giai đoạn
1951-1954
Từ năm 1951 đến chiến dịch Điện Biên Phủ, giữ vững quyền chủ động
chiến lược đẩy mạnh tiến công và phản công, giành thắng lợi quyết định, kết
thúc chiến tranh. Sau thất bại ở chiến trường biến giới, thực dân Pháp còn cố
giành lại quyền chủ động chiến lược bằng cách tăng quân, thay tướng, xin
thêm viện trợ Mỹ, De Latre de Tassigny, viên tướng được coi là tài giỏi nhất
của nước Pháp lúc đó, được cử sang Việt Nam với kế hoạch: phát triển quân
số, xây dựng hệ thống cứ điểm vững chắc, tập trung giữ chiến trường chính là
Bắc Bộ, đồng thời tăng cường càng quét “bình định” Trung Bộ và Nam Bộ,
kết hợp với đánh phá, bao vay kinh tế, chiến tranh tâm lý với vùng căn cứ
kháng chiến.
Về phía ta, chủ trương chung là tiếp tục giữ khí thế chủ động tiến công
liên tục tiêu diệt sinh lực địch, tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ. Các đại
đoàn 312, 316, 320, 351, 325 được thành lập. Nhiều chiến dịch lớn được mở
như Chiến dịch Trần Hưng Đạo (tháng 12/1950-2/1951) ở Bắc Giang, Việt
Trì; Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (tháng 4/1951) dọc đường 18; Chiến dịch
Quang Trung (tháng 5-6/1951) ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình; Chiến dịch
Lý Thường Kiệt (tháng 9-10/1951) ở Nghĩa Lộ; Chiến dịch Hoà Bình (tháng
12/1951-2/1952); Chiến dịch Tây Bắc (tháng 10/1951-2/1952); đồng thời, đẩy
mạnh chiến tranh du kích.
Hoạt động quân sự của ta gây cho địch nhiều thiệt hại lớn, Kế hoạch de
Tassginy phá sản, Cao uỷ kiêm Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương

De Latre de Tassginy bị triệu hồi.

16


Tháng 5/1953, tướng Henry Navare được cử sang làm Tổng chỉ huy
quân đội Pháp. Navare đề ra kế hoạch mới gọi là Kế hoạch Navare định giành
thắng lợi quân sự có ý nghĩa chiến lược trong vòng 18 tháng làm cơ sở cho
một giải pháp chính trị mở lối thoát danh dự cho Pháp.
Nắm chắc âm mưu của địch, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 gồm
nhiều chiến dịch trên một số hướng chiến lược, đẩy mạnh chiến tranh du kích,
sẵn sàng tiêu diệt địch khi chúng đánh vào vùng tự do, nhằm đánh bại cố gắng
cao nhất của Pháp - Mỹ. Ta đã mở Chiến dịch Tây Bắc - Thượng Lào, phối
hợp với Bạn giải phóng Trung, Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia, Chiến dịch
Bắc Tây Nguyên. Các chiến trường đồng bằng Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, cực
Nam Trung Bộ, Nam Bộ đẩy mạnh tiến công địch, tiêu hao, phân tán, kiềm
chế lực lượng địch để phối hợp với các chiến dịch lớn.
Để giữ Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào, Navare cho quân nhảy dù
tăng cường cho Điện Biên Phủ, xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ
điểm mạnh, thành nơi tập trung binh lực thứ hai sau đồng bằng Bắc Bộ. Quân
Pháp chấp nhận đương đầu với chủ lực ta ở Điện Biên Phủ, coi đây là
nơi “nghiền nát chủ lực Việt Minh”. Như vậy, Điện Biên Phủ lúc đầu không
có trong kế hoạch thì nay lại trở thành trung tâm điểm của kế hoạch Navare.
Tháng 12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở Chiến
dịch Điện Biên Phủ. Lực lượng của ta gồm 3 đại đoàn (308, 312, 316) và 1
trung đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công binh - pháo binh (351). Đại tướng Tổng
tư lệnh Võ Nguyên Giáp được cử làm Tư lệnh chiến dịch. Kế hoạch lúc đầu ta
chủ trương tiến công ào ạt, đánh nhanh, thắng nhanh nhưng sau khi nắm cụ
thể tình hình địch, ta thấy không bảo đảm chắc thắng nên chuyển sang

phương châm “đánh chắc, tiến chắc”.

17


Chiều ngày 13/3/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn. Sau 3 đợt
tiến công, 55 ngày đêm chiến đấu anh dũng, quyết liệt, mưu trí, sáng tạo, cuối
ngày 7/5, quân ta giải phóng hoàn toàn Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống
toàn bộ quân địch gồm 16.200 tên, trong đó có tướng Đờ Cáttơri. Chiến dịch
Điện Biên Phủ toàn thắng.

18


×