Tải bản đầy đủ (.pdf) (295 trang)

Loại hình văn bản sách giáo khoa lịch sử cho hệ ấu học đầu thế kỷ XX qua nghiên cứu văn bản an nam sơ học sử lược

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.67 MB, 295 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------***---------

VŨ VĂN NGÂN

LOẠI HÌNH VĂN BẢN SÁCH GIÁO KHOA
LỊCH SỬ CHO HỆ ẤU HỌC ĐẦU THẾ KỶ XX

QUA NGHIÊN CỨU VĂN BẢN AN NAM
SƠ HỌC SỬ LƢỢC 安 南 初 學 史 略

LUẬN VĂN THẠC SĨ HÁN NÔM

Hà Nội – 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------***---------

VŨ VĂN NGÂN

LOẠI HÌNH VĂN BẢN SÁCH GIÁO KHOA
LỊCH SỬ CHO HỆ ẤU HỌC ĐẦU THẾ KỶ XX

QUA NGHIÊN CỨU VĂN BẢN AN NAM
SƠ HỌC SỬ LƢỢC 安 南 初 學 史 略
Chuyên ngành: Hán Nôm
Mã số: 60.22.40


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Phạm Văn Khoái

Hà Nội – 2010
2


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU…...………………………….…………………………………..5
1.

Lý do chọn đề tài …..………………………...………………..5

2.

Mục đích và ý nghĩa của đề tài...……………............................6

3.

Lịch sử vấn đề nghiên cứu...………...……………………........7

4.

Đối tƣợng nghiên cứu và giới hạn của đề tài…..…………........8

5.

Phƣơng pháp nghiên cứu...…………………………………….8


6.

Kết cấu của luận văn...……………………………....................8

CHƢƠNG 1:

SÁCH LỊCH SỬ VIỆT NAM VIẾT BẰNG CHỮ
HÁN CHO HỆ ẤU HỌC NHỮNG NĂM CUỐI
THẾ KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX….….……………...10

1.1

Cải lƣơng giáo dục chữ Hán (1906 – 1919)….........................10

1.1.1

Áp lực đối với cải lƣơng giáo dục từ xã hội…..........................10

1.1.2

Cải lƣơng giáo dục khoa cử chữ Hán giai đoạn
1906 – 1919..............................................................................19

1.2

Sách giáo khoa lịch sử Việt Nam viết bằng chữ Hán trong
chƣơng trình cải lƣơng giáo dục 1906 – 1919….………... ….24

1.2.1


Sách giáo khoa lịch sử viết bằng chữ Hán - Nôm của giai
đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ………...…………..........24

1.2.2

Phân loại sách giáo khoa lịch sử Việt Nam......………….........27

1.3

Giới thiệu sách An Nam sơ học sử lƣợc 安南初學史略
về mặt văn bản ..…………………………………..…….........30

Tiểu kết chƣơng 1……………...………….……………………........37

3


CHƢƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG

SÁCH AN NAM SƠ HỌC SỬ LƢỢC 安南初學史略…..........38
2.1

Các nguyên tắc biên soạn và nguồn tƣ liệu An Nam sơ học
sử lƣợc 安南初學史略 dựa vào......…………………………........38

2.2

Những trình bày về vị trí địa lý, nguồn gốc gống nòi con ngƣời
Việt Nam trong An Nam sơ học sử lƣợc 安南初學史略…….…..48


2.3

Tiến trình lịch sử Việt Nam thể hiện trong An Nam sơ học
sử lƣợc 安南初學史略…..………………….…………………...53

2.4

Đối chiếu cách viết của An Nam sơ học sử lƣợc 安南初學
史略 với sách lịch sử Việt Nam trƣớc đó………………………..66

2.4.1 Một cái nhìn sơ lƣợc về hệ thống sách lịch sử Việt Nam…..........66
2.5

An Nam sơ học sử lƣợc 安南初學史略 trong mối quan hệ
với hệ thống sách lịch sử Việt Nam……………….....……..........71

Tiểu kết chƣơng 2……….……………………………………….…….79
PHẦN KẾT LUẬN………………………………..……..…………………........80
THƢ MỤC TÀI LIỆU SÁCH THAM KHẢO………..……....………………..84
PHỤ LỤC
1.

Phiên âm:………………………………………………………...88

2.

Bản dịch ………………………………………………………..178

4



5


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau một loạt Hiệp ƣớc đầu hàng, chịu các điều kiện bất bình đẳng,
nhất là với các điều kiện của Hiệp ƣớc Patơnốt (1884), vua quan nhà
Nguyễn đã khuất phục hoàn toàn bọn xâm lƣợc Pháp. Thực dân Pháp đã
lập chế độ cai trị khác nhau trên cả 3 miền ở nƣớc ta: Nam Kỳ theo chế độ
thuộc địa; Bắc Kỳ theo chế độ bảo hộ; Trung Kỳ là đất của Nam triều. Điều
đó đã ảnh hƣởng đến mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, xã hội trong đó có
giáo dục, văn hóa, tƣ tƣởng... Thực dân Pháp với mục tiêu nhằm thực hiện
chính sách khai thác thuộc địa, chúng cần đến một đội ngũ viên chức thừa
hành và phục vụ cho cơng việc khai thác thuộc địa của chúng. Muốn có
đƣợc lớp ngƣời ấy, chúng phải cải lƣơng nền giáo dục cũ (bằng Hán văn),
để rồi theo thời gian, chính sự cải lƣơng giáo dục ấy đã tạo nên một bƣớc
quá độ cho sự Pháp hóa hồn tồn về mặt giáo dục trên lãnh thổ Việt Nam.
Cải lƣơng nền giáo dục khoa cử Hán học cũ đƣợc đánh dấu bằng
việc ra đời của đạo dụ ngày 31 tháng 5 năm 1906. Việc cải lƣơng nền giáo
dục mới này, tuy vẫn bằng chữ Hán nhƣng chƣơng trình học có thay đổi
lớn, cần đƣợc xem nhƣ một bƣớc quá độ từ khoa cử truyền thống sang giáo
dục Pháp – Việt bằng Pháp ngữ.
Trong những biểu hiện cho chính sách cải lƣơng giáo dục ấy, cần
phải kể đến sự phân chia cấp học, thiết lập chƣơng trình cũng nhƣ soạn lại
sách giáo khoa, xác định mơn thi, chƣơng trình thi….là những vấn đề có
tính trọng tâm nhất.
Về mặt xác lập cấp học, cải lƣơng giáo dục khoa cử 1906, quy định
có 3 cấp học: Ấu học, Tiểu học, Trung học. Tƣơng ứng với các cấp học ấy


6


là hệ thống sách giáo khoa đƣợc Hội đồng biên soạn sách duyệt. Trong số
các mơn học có hệ thống sách giáo khoa bằng chữ Hán, cần phải kể đến
môn lịch sử Việt Nam.
Tuy lịch sử Việt Nam đã đƣợc biên soạn từ khá sớm [Đại Việt sử ký
大越史記 của Lê Văn Hƣu đƣợc biên soạn dƣới thời Trần Thái Tơng (1225 1258), Đại Việt sử ký tồn thƣ 大越史記全書 đƣợc Ngô Sĩ Liên viết dƣới thời
Lê Thánh Tông (1460 - 1497), Đại Việt thông giám 大越通鋻 và Đại Việt thông
giám tổng luận 大越通鋻總論 đều đƣợc viết dƣới thời vua Lê Tƣơng Dực (1509
- 1516)… ], song vì sách giáo khoa lịch sử Việt Nam hầu nhƣ không đƣợc

giáo dục truyền thống để tâm đến. Do vậy, sự có mặt của những bộ sách
giáo khoa lịch sử Việt Nam cho các cấp học của chƣơng trình Hán học cải
lƣơng (1906 – 1919) có một ý nghĩa đối với việc tìm hiểu Hán văn, mà cụ
thể là Hán văn giáo dục.
Trong số các sách giáo khoa lịch sử Hán văn giáo dục ở giai đoạn
này, có bộ sách thuộc mơn lịch sử cho bậc Ấu học do ngƣời Pháp biên soạn,
với sự chuyển dịch của ngƣời Việt Nam, đó là bộ An Nam sơ học sử lƣợc
安南初學史略. Nhận thấy đây là bộ sách giáo khoa lịch sử chữ Hán có ý
nghĩa nghiên cứu Hán văn giáo dục trong hệ thống giáo dục cải lƣơng 1906
– 1919 nên chúng tôi đã chọn An Nam sơ học sử lƣợc 安南初學史略 nhƣ
là một minh chứng cho sự cải lƣơng giáo dục Hán văn, làm đề tài cho luận
văn Cao học Hán Nơm của mình.

7


Tất nhiên, việc nghiên cứu bộ sách lịch sử Việt Nam này đƣợc đặt ra

trong cái nền chung của sự nghiên cứu về loại hình sách giáo khoa lịch sử
Việt Nam của chƣơng trình cải lƣơng giáo dục Hán văn 1906 – 1919.
2. Mục đích và ý nghĩa của đề tài:
Đề tài trên đƣợc thực hiện nhằm có những mục đích sau đây:
- Hệ thống hóa các sự kiện liên quan đến chƣơng trình mơn lịch sử của
giáo dục Hán học cải lƣơng.
- Hệ thống hóa sách giáo khoa lịch sử Việt Nam cho hệ Ấu học và
giáo dục 3 cấp của giai đoạn nghiên cứu.
- Nghiên cứu văn bản An Nam sơ học sử lƣợc 安南初學史略.
- Phiên âm, dịch nghĩa văn bản.
- Phân tích văn bản từ góc nhìn tƣ liệu lịch sử và phê phán.
Từ những điểm nêu trên cho thấy, việc đề cập đến hệ thống sách giáo
khoa lịch sử Việt Nam cũng nhƣ việc phân tích văn bản An Nam sơ học sử
lƣợc 安南初學史略 có ý nghĩa trong việc tìm hiểu giáo dục chữ Hán cải
lƣơng, và tìm hiểu bƣớc quá độ từ giáo dục khoa cử chữ Hán sang giáo dục
Pháp – Việt những thập niên đầu thế kỷ XX trong một môn học cụ thể.
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Đã có nhiều cơng trình về lịch sử giáo dục Việt Nam đề cập đến
chƣơng trình giáo dục cải lƣơng, song do các yêu cầu của công tác viết lịch
sử giáo dục, các nhà viết lịch sử giáo dục ấy không thể đi sâu vào phân tích
tình hình giáo dục Hán văn cho mơn lịch sử Việt Nam. Hơn nữa, các cơng
trình nghiên cứu lịch sử ấy, do những khó khăn về tƣ liệu nên thƣờng mới

8


chỉ đề cập đến giáo dục Hán văn cho môn lịch sử Việt Nam dƣới góc nhìn
phê phán q nghiêm khắc. Do vậy, các cơng trình đó đã tự hạn chế mình,
chúng khơng thể đi sâu vào phân tích tình hình của mơn học lịch sử trong
bƣớc chuyển văn hóa.

Hơn nữa, hầu nhƣ chƣa có cơng trình nào đề cập đến góc độ Hán văn
của sách giáo khoa lịch sử Việt Nam bằng chữ Hán cho bậc Ấu học, Sơ học.
Đó là một trong những lý do thúc đẩy chúng tôi đi vào đề tài này.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và giới hạn của đề tài.
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là hệ thống sách giáo khoa lịch sử
dành cho hệ Ấu học và cho hệ thống giáo dục khoa cử cải lƣơng ở Việt
Nam, những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong đó trực tiếp đi vào
phân tích văn bản An Nam sơ học sử lƣợc 安南初學史略.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Do đề tài này liên quan đến giai đoạn lịch sử khá đặc biệt của lịch sử
Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nói chung, giáo dục chữ Hán cải
lƣơng nói riêng nên phải quán triệt các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử trong việc nhận thức và đánh giá các sự kiện,
cũng nhƣ các tình huống cụ thể.
Đồng thời, đề tài cũng yêu cầu vận dụng các phƣơng pháp trong
nghiên cứu Hán Nôm và văn bản học, phân tích văn bản Hán Nơm, nhằm
làm sáng tỏ một số vấn đề về văn bản học của văn bản An Nam sơ học sử
lƣợc 安南初學史略, bƣớc đầu nêu ra những nhận xét về bộ sách giáo khoa
lịch sử này trên một số phƣơng diện.

9


6. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và tƣ liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chƣơng và phần phụ lục kèm theo.
Chƣơng 1, với tiêu đề “SÁCH LỊCH SỬ VIỆT NAM VIẾT

BẰNG CHỮ HÁN CHO HỆ ẤU HỌC NHỮNG NĂM CUỐI THẾ
KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX”, nhằm nêu lên một cái nhìn chung về

sách giáo khoa lịch sử Việt Nam cho hệ thống trƣờng 3 cấp của nền cải
lƣơng giáo dục chữ Hán 1906, đồng thời bƣớc đầu giới thiệu An Nam sơ
học sử lƣợc 安南初學史略 về mặt văn bản học.
Chƣơng 2, với tiêu đề “MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƢƠNG DIỆN
NỘI DUNG CỦA SÁCH AN NAM SƠ HỌC SỬ LƢỢC 安南初學史略”,
nhằm phân tích về các vấn đề thuộc bình diện nội dung của An Nam sơ học
sử lƣợc 安南初學史略.
Phụ lục kèm theo luận văn này là bản dịch An Nam sơ học sử lƣợc 安
南初學史略 dày 144 trang, do chúng tôi thực hiện, trực tiếp dịch từ văn
bản An Nam sơ học sử lƣợc 安南初學史略 mang ký hiệu A.935 của thƣ
viện Viện nghiên cứu Hán Nôm.

10


11


CHƢƠNG 1

SÁCH LỊCH SỬ VIỆT NAM VIẾT BẰNG
CHỮ HÁN CHO HỆ ẤU HỌC NHỮNG NĂM
CUỐI THẾ KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX.
Chƣơng này nhằm trình bày những nét khái quát nhất về tình hình
giáo dục chữ Hán 1906 – 1919 cũng nhƣ hệ thống sách giáo khoa lịch sử
Việt Nam viết bằng chữ Hán trong hệ thống nhà trƣờng 3 cấp của hệ thống
giáo dục cải lƣơng trên, nơi mà bộ sách An Nam sơ học sử lƣợc 安南初學
史略 đƣợc sử dụng với tƣ cách là sách học chính thức.
Do vậy, chƣơng này bao gồm các nội dung sau:
- Cải lƣơng giáo dục chữ Hán 1906 – 1919.

- Sách giáo khoa lịch sử Việt Nam bằng chữ Hán trong chƣơng trình
cải lƣơng giáo dục đầu thế kỷ XX (1906 – 1919).
- Những vấn đề văn bản học An Nam sơ học sử lƣợc 安南初學史略 –
bộ sách giáo khoa lịch sử Việt Nam cho hệ Ấu học trong chƣơng
trình cải lƣơng giáo dục chữ Hán đầu thế kỷ XX.

1.4

CẢI LƢƠNG GIÁO DỤC CHỮ HÁN (1906 – 1919).

1.1.1 Áp lực đối với cải lƣơng giáo dục từ xã hội.
Sau Hiệp ƣớc 1884, tuy đã hoàn chỉnh bộ máy cai trị song thực dân
Pháp vẫn duy trì chƣơng trình giáo dục khoa cử đầy cặn bã, đầy nọc độc để
đánh lừa, ru ngủ nhân dân ta, nhất là với tầng lớp “thức tự - biết chữ”.
Chính sách thâm độc đó đã bị các sĩ phu yêu nƣớc đƣơng thời tố cáo, lên án,

10


trong đó ngƣời đã tố cáo mạnh mẽ, quyết liệt nhất là Phan Bội Châu. Cụ đã
viết trong Hòa lệ cống ngôn năm 1906, nội dung bức thƣ này nhƣ sau:
“Kính gửi 6500 thí sĩ đồng bào túc hạ !
Nƣớc mất 30 năm rồi ! Giống nòi ta 10 phần bị tiêu diệt đến 6,7 phần
rồi. Lũ giặc dị chủng lợi dụng những ngƣời biết chữ, đọc sách chúng ta diệt
giống nòi ta. Thế nào là nƣớc mất ? Từ khi bọn giặc dị chủng đến phá kinh
thành nƣớc ta, đoạt quốc quyền của chúng ta, vua hãm trong cung sâu,
không khác tù đày; quan lại nhân dân bị đánh roi địn, khác gì trâu ngựa.
Hết thảy chính quyền, khơng kể lớn bé, nằm trong tay giặc. Các anh em
hãy nhìn lá cờ cắm trong trƣờng thi là lá cờ ta chăng ? hay là cờ ba sắc của
giặc nhỉ ? Lúc này là lúc nào nếu không phải là lúc đồng bào chúng, ta

phàm là ngƣời có huyết khí đều vật vã khóc lóc, dấn thân vì nạn nƣớc, gối
đất ngủ sƣơng để chịu tang nƣớc, nếm mật nằm gai báo quốc đó sao ? Các
anh em cịn mặt mũi nào mà tham gia ứng thí nữa ? Thế nào là giống nòi bị
diệt ? Dã tâm của giặc nhƣ hổ ngoạm, tằm ăn, thực không sao kể xiết,
nhƣng âm mƣu đoạt lấy mệnh mạch của chúng ta, đó là cái chính. Chính
phủ giặc thu thuế chúng ta đến mn hình vạn trạng, thƣơng nhân giặc
cƣớp đoạt lợi quyền của chúng ta đến muôn ức vạn, ngay cả cứt đái dơ bẩn
cũng vơ vét hết, nên dân ta, kẻ nghèo chết trƣớc, ngƣời giàu chết sau, đói
rét đến thân, tinh khí hao tổn, giống nịi chẳng sinh, dẫu có sinh nhƣng
chẳng có dƣỡng. Các anh em hãy xem của cải trong nhà, trai gái sinh nở, so
với 10 năm trƣớc đây thế nào ? Đã không binh hỏa, lại khơng thiên tai, mà
tình cảnh lại đến mức nhƣ thế là do ai nhỉ ? Lúc này là lúc nào, nếu khơng
phải là lúc mà những ngƣời có huyết khí trong số đồng bào chúng ta chau
mày, nhăn trán, đêm ngày dằn vặt, mƣu tính gìn giống giữ nịi, vì liệt tổ liệt
tông của chúng ta đang yên nghỉ nơi chín suối, vì cha mẹ hiền từ mang
nặng đẻ đau mà rửa mối nhục mất nƣớc hay sao ? Các anh em cịn mặt mũi
nào mà tham gia ứng thí với giặc ?”.

11


Trên cơ sở lƣu ý anh em thức tự biết về thân trạng của đất nƣớc
giống nòi, Phan Bội Châu đi vào phân tích âm mƣu của bọn giặc diệt chủng
mà anh em thức tự hoặc vơ tình hoặc hữu ý vì đam mê cử nghiệp đã bị giặc
lợi dụng để đi đến một luận điểm có tính chất mấu chốt rằng, giặc đã lợi
dụng những ngƣời thức tự cho âm mƣu diệt chủng của chúng: “Sao lại nói
giặc lợi dụng những ngƣời biết chữ chúng ta diệt giống nòi ta ? Nƣớc ta
gần đây, ngƣời có thể nắm quyền bính ở trên dân chúng, ấy là kẻ sĩ; ngƣời
có thể hút máu liếm mủ cũng là kẻ sĩ; ngƣời có thể làm mọt nƣớc hại dân
để ni béo mình cũng là kẻ sĩ. Ơi kẻ sĩ, tự cho mình nhiệm vụ “lấy đạo

giác ngộ dân, thác không dời dối, đạo may vẹn tồn”, đó là điều mn dân
trơng mong ở nơi kẻ sĩ. Há lại có thể muối mặt theo giặc, táng tận lƣơng
tâm, điên khùng mất trí, khơng điều xấu nào không làm, để đến nỗi nhƣ bây
giờ ƣ ? Thế mà chính phủ giặc đối xử với kẻ sĩ, bóc tƣớc tất cả những gì là
quốc túy, chỉ lƣu lại thứ khoa cử cặn bã này, dụ để rồi hãm hại anh em, dỗ
anh em bằng hƣ hàm, lấy lộc mỏng nhử anh em, biến anh em thành chó săn,
bắt anh em làm kẻ thu thuế vơ vét, tróc thuế thu địi, bày đặt móc moi, gây
bao oan ngục, cắn chết cả chú bác, cậu mợ, cha mẹ anh em để bồi dày túi
tham cho giặc. Đem cả đời làm chó săn, nịnh bợ lũ sài lang dị chủng để rồi
cái mình thu đƣợc chẳng qua cũng chỉ là những cục xƣơng thừa, thịt thối
mà thôi. Sao anh em chẳng nghĩ “thỏ đã hết chó săn phải chết” vốn là lẽ
thƣờng có xƣa nay. Nhƣ thế là nƣớc mất, giống nòi bị diệt ấy là do thế cục
tạo nên. Các anh em còn mặt mũi nào mà tham gia ứng thí của giặc nữa.
“Gái điếm hay đâu hờn mất nƣớc. Cách sơng cịn hát Hậu đình hoa” thật là
câu đáng đƣợc ngâm vì anh em đấy. Này Tiến sĩ, này Cử nhân, này Tú tài,
quả là những mồi nhử độc ác khiến giống nòi ta bị tiêu diệt, nƣớc ta bị mất.
Sau đây chục năm nữa, cháu con tuyệt diệt, phần mộ hoang vu, lúc ấy hƣ
danh Tiến sĩ, Cử nhân, Tú tài gửi cho ai nhỉ ? cho ai nhỉ ? Liệt tổ liệt tông
ngậm hờn dƣới suối hoàn toàn chẳng muốn nhận hƣ danh do chính phủ

12


giặc phong tặng, hơn nữa các cụ lại còn sụt sùi nhỏ lệ đến mức khạc nhổ cả
ra”.
Nƣớc mất giống nòi bị diệt là do cục thế tạo nên. Trong cái cục thể
nƣớc mất khiến chủng diệt, vậy mà sĩ tử - những ngƣời tự nhiệm “lấy đạo
giác dân” mà chính mình lại chƣa giác ngộ. Vì vậy, Phan Bội Châu nhiều
câu nhằm cho họ tỉnh ngộ lại. “Các anh em cịn mặt mũi nào mà tham gia
ứng thí nữa…Tiến sĩ cử nhân để làm gì khi mà nƣớc mất chủng diệt, mồ

mả cha ông bị giày xéo…”. “Sau đây chục năm nữa, con cháu tuyệt diệt,
phần mộ hoang vu, lúc ấy hƣ danh Tiến sĩ, Cử nhân, Tú tài giữ cho ai
nhỉ…”.
Từ sự giác ngộ sĩ tử về hình thế đất nƣớc chủng tộc, vạch trần các âm
mƣu thâm độc của giặc, Phan Bội Châu kêu gọi và cổ động họ hãy gánh
vác trách nhiệm của kẻ sĩ trong hồn cảnh thời thế bấy giờ. “Ơi ! đọc sách,
làm sáng tỏ nghĩa lý chỉ là kẻ sĩ mà thôi, có tƣ tƣởng vĩ đại cũng là kẻ sĩ,
gánh nặng đƣờng xa cũng là kẻ sĩ. Các anh em hãy xem rộng các sách Âu
Á tân thƣ, tiểu sử các anh hùng vĩ đại, nhƣ Cát Tô Sĩ, nhƣ Lƣ Thoa, nhƣ
Cát Điền Tùng Âm, Đại Ơi Trọng Tín. Đổi mới để tạo thời thế, không nhờ
sức của kẻ sĩ thì nhờ ai ? Anh em ơi ! Anh em ơi ! Nếu anh em làm thì cũng
đƣợc nhƣ thế đấy ! Lấy nhiệt thành làm chủ, lấy đạo đức phụ trợ, tự chính
mình để khiến ngƣời khác cũng chính theo, tự lo cho mình để rồi lo cho
ngƣời khác, tẩy rửa tập quán nô lệ xấu xa, gây tiếng vang độc lập trƣớc, ấy
là trách nhiệm của ngƣời đức sĩ. Lấy nhiệt thành làm chủ, lấy hùng biện
phụ trợ, tìm nơi diễn thuyết, khiến ngƣời yếu trở nên mạnh, kẻ ngu thành trí,
khơi dậy nhân tâm đã chết, hơ hào tinh thần yêu nƣớc, ấy là trách nhiệm
của những ngƣời chí sĩ. Lấy nhiệt thành làm chủ, lấy dũng khí phụ trợ, vẫy
áo đứng dậy, bơn tẩu khắp hồn cầu, chọn lựa văn minh, mƣu đồ khôi phục,
ấy là trách nhiệm của những ngƣời nghị sĩ. Lấy nhiệt thành làm chủ, lấy ý
tƣởng phụ trợ, trƣớc thƣ, lập ngôn, theo bệnh bốc thuốc, cố gắng, khuyến

13


học, chung đúc anh hùng, ấy là trách nhiệm của kẻ triết sĩ đó. Lấy nhiệt
thành làm chủ, lấy mƣu lƣợc hỗ trợ, xét muốn biến còn trong mầm non, thu
núi sông trong tàn cục, làm cho kẻ mạo hiểm không nhầm phƣơng châm, ấy
là trách nhiệm của kẻ sách sĩ đó. Lấy nhiệt thành làm chủ, lấy sảng khối
hỗ trợ, theo Kinh Kha, theo Sĩ Nhiếp, vì ngƣời dân nƣớc rửa sạch bất bình,

khiến thù trong giặc ngồi chạy đâu cũng khơng thốt khỏi búa rìu, ấy là
trách nhiệm của hiệp sĩ đó. Lấy nhiệt thành làm chủ, lấy khoa học phụ trợ,
sƣu tập máy móc, chấn hƣng cơng nghiệp, vì đồng bào mà chẹn đƣờng
chảy của, vì tổ quốc đổi lợi quyền, ấy là trách nhiệm của kẻ mỹ thuật sĩ đó.
Lấy nhiệt thành làm chủ, lấy thao lƣợc phụ trợ, gạn lọc tinh thần, tập binh
nghiệp cho đại thành, kích thích tinh thần thƣợng võ, dạy dỗ quân sự cho
quốc dân, ấy là trách nhiệm của tƣớng sĩ mƣu lƣợc. Lấy nhiệt thành làm
chủ, lấy ái quốc làm mục đích, liên kết đồn thể, trao đổi trí thức, phục tịng
cơng lý, tu cơng dân đức, giữ cơng dân nghĩa, lập công dân ƣớc, xƣớng
công dân quyền, cùng làm thầy, cùng bảo vệ nhau, cùng giúp đỡ, thƣơng
xót nhau, không ghen ghét kiêu ngạo với nhau, không lừa dối, khinh nhờn
nhau, không nghi kỵ nhau. Chia nhau trách nhiệm thì ai ai cũng đều tự lập,
gộp nhau vào thì khối hợp quần. Đó là trách nhiệm chung của 50 triệu đồng
bào cả nƣớc chúng ta. Đó cũng là điều mà anh em nên là những ngƣời gánh
vác và đề xƣớng đầu tiên. Thời thế tạo anh hùng, anh hùng cũng tạo nên
thời thế. Các anh em, nếu nhƣ cúi đầu cam tâm làm chó săn cho giặc sao
bằng ngẩng cao đầu, hiên ngang làm thiên dân của Tổ quốc”.
Đoạn trích trên cho thấy, Phan Bội Châu đã kêu gọi tầng lớp sĩ để họ
xa rời cử nghiệp, xa rời cái bùa mê thuốc lú mà giặc đã gieo rắc để ra gánh
vác cơng việc quốc gia của mình. Sĩ tử thức tự đƣợc chia thành 8 loại mà
mỗi loại lại có trách nhiệm của mình nhƣ: đức sĩ, chí sĩ, nghị sĩ, triết sĩ,
sách sĩ, hiệp sĩ, mỹ thuật sĩ, tƣớng sĩ.

14


Bằng lời lẽ thống thiết của một bầu máu nóng, Phan Bội Châu kêu
gọi sĩ tử hãy nghĩ đến truyền thống vinh quang của tổ quốc, dân tộc trong
sự diễn đạt các đối lập giữa xƣa và nay để thức tỉnh tinh thần yêu nƣớc
trong họ theo lối lập luận bằng logíc :“Ơ hơ! Thảm trạng mất nƣớc, cịn nỡ

nói chăng ? cịn nỡ nói chăng ! Từ thời Tự Đức trở về trƣớc, nếu có kẻ con
bn ngƣời Thanh, giáo sĩ phƣơng Tây nào dám giày xéo dẫm đạp đất
nƣớc ta, ta có thể hạ chúng xuống. Từ năm Kiến Phúc lại đây, đến lũ ngƣời
da đen nô lệ châu Phi cũng dẫm đạp đất ta mà chẳng còn có ai dám cất lời.
Tổng đốc của chúng ta chẳng dám tranh, sĩ dân của chúng ta chẳng dám
bàn. Xƣa sao vinh quang đến thế, nay sao nhục đến thế. Đó là xƣa thì quốc
quyền cịn, nay thì quốc quyền đã mất. Xót thay quốc quyền mất, đau thay
quốc quyền mất ! Đấng quân chủ tội gì mà bị nhục, nhân dân tội gì mà mắc
họa. Phàm là đồng bào ta, kẻ nào mà khơng có lịng đam mê cứu nƣớc,
khơng ơm nỗi đau mất nƣớc, khơng có lịng trung báo nƣớc thì kẻ ấy là tội
phạm lớn nhất, là kẻ thù chung của cả nƣớc đó. Nƣớc là gì vậy ? Hợp mọi
ngƣời mà nên, hợp ức triệu nhân dân mà thành vậy. Yêu nƣớc là tình cảm
gì vậy ? Kết lịng u mình với lịng u nhà mà thành lịng u nƣớc.
Nƣớc cịn thì nhà cịn, nƣớc mất thì nhà mất. Nƣớc vốn là đầu não của thân
ta, là cơ sở của nhà ta. Gà trong một lồng, một con bị giết, cả lồng đều hãi,
ấy là sợ vạ chết lan đến thân mình. Ong trong một tổ, chọc một con thì
mn con cùng hống, ấy là chúng cứu đồng loại khi bị giết đấy. Tô thuế
này, sƣu dịch này, đồn điền này, hỏa xa này, bảo hiểm này, giấy bạc này,
giặc ngầm phô bày đặt, mƣu mô thâm độc, đều là dao sắc để giết gà, là tay
độc chọc tổ ong. Đƣờng phu dịch nặng nề, buôn bán đình đốn, dân xóm
làng phải lƣu ly, tù nhân đói rét, oan trái mn ngàn vạn trạng, đau lịng
nhức mắt, khác gì giống gà khi cái chết đang phơi trƣớc mặt, đàn ong bị
chọc tổ. Ngƣời dẫu chí ngu nhƣng lại là giống linh trong môn vạn vật, sao
mà cam chịu, khơng tỉnh ngộ, im lìm thản nhiên khơng một chút nghi ngờ.

15


Suy xét nguyên nhân, rút lại là do không yêu nƣớc. Ngƣời ta ai cũng biết
đến mình, chắc họ sẽ u mình. u nƣớc ấy chính là hình ảnh ta u chính

ta phóng ra cho to hơn nữa. Ngƣời ta ai cũng có thân, có mình, điều ấy,
nghĩa rằng ai cũng có trách nhiệm u nƣớc. Khơng kể sang, hèn, giàu,
nghèo, không kể trẻ, già, không kể hèn, ngu, không có chỗ nào trốn tránh,
khơng có nơi nào vứt bỏ, phó mặc đƣợc. Thƣơng đau thay ! Đau thay !
Hồng đế Thành Thái chỉ là hƣ vị, các quan bộ, sảnh chỉ là hƣ danh, chỉ là
tƣợng gỗ của giặc, chỉ là ảo ảnh hão huyền chẳng thà chết mà vinh. Ngƣời
phƣơng Tây có câu: Khơng có tự do, chẳng thà chết. Bỉ nhân xin các anh
em xét kỹ lại. Giấy ngắn, lời dài, kể sao cho xiết nỗi lòng, cúi đầu khóc đến
chảy máu mắt, trƣớc gió lạy chào các anh em. Tháng Sáu năm Bính Ngọ
sau ngày đã mất nƣớc ngƣời mặc áo chịu tang nƣớc xin kính cáo”.
Biết bao ngƣời đã từng qua vòng cử nghiệp, khi họ giác ngộ, nhận
thấy trong cuộc “tân vận hội” cần phải: “Đúc gan sắt để dời non lấp bể”,
“Lấy máu nóng rửa vết dơ nơ lệ”, “Ghé vai vào xốc vác cựu giang sơn” đã
xả thân vì nghĩa lớn, tạo nên một làn sóng duy tân sơi nổi, bồng bột khắp
các miền đất nƣớc, khiến cho bè lũ thực dân phong kiến phải hoảng sợ. Một
mặt, chúng đã khủng bố, bắt bớ tù đày. Nhà tù đầy những tiến sĩ, cử nhân,
tú tài, những ngƣời thức tự… Mặt khác, để đối phó với tình hình, chúng tìm
cách lơi kéo, mua chuộc những ngƣời thức tự, chúng lại điều chỉnh chính
sách cai trị, trong đó có các chính sách liên quan đến khoa cử, tạo nên sự
cải lƣơng khoa cử, cải lƣơng giáo dục Hán học.
Qua đó giúp chúng ta thấy rằng, động lực cho phong trào đòi phế bỏ
khoa cử hủ bại nằm chính trong phong trào yêu nƣớc của nhân dân ta.
Những phong trào thế giới đã ảnh hƣởng lớn đối với Việt Nam lúc bấy giờ
phải nhắc đến: cuộc vận động Duy tân ở Trung Quốc vào những năm 1895
- 1898, nƣớc Nhật Bản Duy tân những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ

16


XX và chiến thắng quân đội Nga hoàng của Nhật Bản vào năm 1905, Tân

thƣ, Tân văn, Tân báo…
Phong trào Duy tân ở Việt Nam diễn ra từ 1902 – 1908. Thủ lĩnh
của phong trào này là các cụ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan
Thúc Duyện, Trần Quý Cáp… Phạm vi và nội dung chƣơng trình hoạt động
của phong trào này phong phú, rộng rãi. Phong trào kêu gọi đấu tranh bằng
phƣơng pháp hịa bình, hành động cải lƣơng ôn hòa, chủ trƣơng nhấn mạnh
vào hai vấn đề lớn là dân quyền và dân trí. Trong cơng tác giáo dục, văn
hóa văn nghệ, phong trào khuyến khích cho nền tân học, bỏ chữ Hán dạy
chữ Quốc ngữ, thay đổi lối khoa cử phong kiến trƣớc đây để thay bằng lối
khoa cử thực học, tuyên truyền tinh thần yêu nƣớc thƣơng nòi, đề cao tự
trọng và ý thức cá nhân, học theo lối sống văn minh nhƣ cắt tóc ngắn, để
răng trắng…
Phong trào tổ chức các cuộc diễn thuyết công cộng để thức tỉnh ý
thức về dân tộc cho quần chúng nhân dân, các bài ca, bài vè đƣợc phổ biến
rộng rãi trong quần chúng, nhất là vùng sâu xa, đối tƣợng là những vùng ít
đƣợc học hành. Ngồi việc mở các lớp truyền bá chữ Quốc ngữ, chữ Pháp
họ cịn thành lập các hội nghề nghiệp, nhƣ: hội nơng, hội thƣơng…“ Những
cơ sở văn hóa, giáo dục đƣợc tổ chức rải rác ở các miền quê Quảng Nam có
qui củ. Chƣơng trình giáo dục về phƣơng diện văn hóa là một điểm son
đáng đƣợc chú ý nhằm đào tạo một mẫu ngƣời tồn vẹn, với một bộ óc
sáng suốt trong một thân thể tráng kiện”(Nguyễn Q. Thắng, Khoa cử và
giáo dục Việt Nam, 2005, trang 153).
Từ đây, phong trào cổ xúy tân học dấy lên một cách mạnh mẽ, họ
đề xƣớng lối học mới, trực tiếp chống lại lối giáo dục nô dịch của thực dân
và lối giáo dục phong kiến lạc hậu. Các nhà Duy tân là những ngƣời thầy
uyên thâm về học vấn và phẩm chất đạo đức, là những chiến sĩ trên mặt

17



trận văn hóa giáo dục với lịng nhiệt huyết u thƣơng đồng loại và lòng
yêu nƣớc sâu sắc.
Trƣớc sự lớn mạnh của phong trào mà chủ trƣơng giáo dục lại đi
ngƣợc lại với lợi ích của mình, thực dân Pháp đã ra lệnh bắt giam và lƣu
đầy những ngƣời sáng lập ra phong trào, đồng thời đóng cửa các nghĩa thục
của phong trào Duy tân, phong trào bị dập tắt vào năm 1908. Mặc dù phong
trào đã bị thực dân Pháp khủng bố trắng nhƣng ảnh hƣởng và dƣ ba của
phong trào tác động vô cùng to lớn đối với vấn đề văn hóa giáo dục của
nƣớc ta lúc bấy giờ, là động lực khiến Pháp phải có những chƣơng trình cải
lƣơng giáo dục của chúng trong hành trình chinh phục và đô hộ nƣớc Nam.
Trong khi các trƣờng học của phong trào Duy Tân đƣợc mở ra ở
miền Trung và miền Nam thì Đơng Kinh nghĩa thục đƣợc thành lập ở Hà
Nội và phát triển ở các tỉnh miền Bắc. Trƣờng Đông Kinh nghĩa thục đƣợc
thành lập vào tháng 3 năm 1907, tại số 4 phố Hàng Đào, thành viên là các
sĩ phu tiêu biểu nhƣ: Lƣơng Văn Can, Nguyễn Quyền, Đào Ngun Phổ,
Dƣơng Bá Trạc, Hồng Tăng Bí, Lƣơng Trúc Đàm…trong đó cụ cử Lƣơng
Văn Can làm thục trƣởng, Nguyễn Quyền giữ vai trị là Giám học. Trƣờng
Đơng Kinh nghĩa thục của Lƣơng Văn Can đƣợc xây dựng theo mơ hình
của trƣờng Khánh Ứng nghĩa thục tại Đơng Kinh (ToKyo - Nhật Bản) do
Phúc Trạch Dụ Cát sáng lập, cũng là trƣờng học có nhiều ảnh hƣởng đến
Minh trị Nhật Bản. Vào năm 1906, hai chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Chu
Trinh đã đi tham quan trƣờng này, họ thấy đây là một cơ sở đào tạo giáo
dục vững chãi, đáng tin cậy và độc đáo. “ Thế rồi, trên cơ sở những hiểu
biết về một trƣờng học đào tạo nhân tài dựng xây đất nƣớc kiểu Khánh Ứng
ấy, các vị sĩ phu nho học yêu nƣớc Việt Nam đã quyết định thành lập ở Hà
Nội một Nghĩa Thục và rồi từ cái “Nghĩa Thục” này đã phát triển thành
một “phong trào”. Nghĩa Thục hoạt động ở nhiều địa điểm của đất nƣớc từ

18



năm 1907 trở đi”.(Chƣơng Thâu, Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào cải
cách văn hóa đầu thế kỷ XX, 1997, trang 40).
Với tinh thần cổ xúy tân học, truyền bá và kêu gọi mọi ngƣời học
tập văn minh tiến bộ, tìm đƣờng cứu nƣớc, phổ biến các tri thức phổ thơng
về lịch sử, địa lí và đả kích đƣờng lối giáo dục nơ dịch, đắm chìm trong văn
chƣơng cử nghiệp, chữ Hán đƣợc nhà trƣờng Đông Kinh nghĩa thục sử
dụng nhƣ một công cụ tuyên truyền tƣ tƣởng canh tân hữu hiệu, các tài liệu,
sách vở đƣợc nhà trƣờng biên soạn và sử dụng trở thành những quyển sách
có giá trị về mặt truyền bá tƣ tƣởng hiện đại cho nhân dân ta.
Những đóng góp của Đơng Kinh Nghĩa Thục trên lĩnh vực văn hóa
giáo dục chính là nội dung giảng dạy ở trong nhà trƣờng. Đó là các vấn đề:
đề cao tinh thần dân tộc và lòng yêu nƣớc; học tập và tiếp cận khoa học
theo phƣơng pháp mới; đề cao ý thức cá nhân, phát huy óc sáng tạo; cơng
kích chế độ khoa cử từ chƣơng; chống chữ Hán và chống bọn hủ Nho;
chống nền cựu học; đặc biệt nhà trƣờng còn quan tâm đến vấn đề giáo dục
sơ đẳng và giáo dục chuyên môn cho ngƣời học.
Tuy chỉ tồn tại chƣa đầy một năm nhƣng nhà trƣờng Đơng Kinh
nghĩa thục đã có một đóng góp khơng nhỏ cho việc cải cách tƣ tƣởng, văn
hóa cho nhân dân ta, gieo đƣợc những hạt giống tốt về một nền dân tộc dân
chủ tiến bộ ở đầu thế kỷ XX. Đó là “cuộc vận động của buổi giao thời,
chuyển tiếp giữa hai phạm trù cách mạng cũ và mới…chứa đựng những
sinh khí của thời đại mới. Những hoạt động mở đầu cho phong trào dân chủ
tƣ sản của Đông Kinh nghĩa thục sau này sẽ đƣợc phát triển mạnh mẽ trong
các cuộc vận động chính trị của thập kỷ tiếp theo”.(Chƣơng Thâu, 1997,
trang 107).
1.1.2 Cải lƣơng giáo dục khoa cử chữ Hán của chính quyền thực
dân giai đoạn 1906 – 1919.

19



Khi các phong trào của các sĩ phu yêu nƣớc liên tiếp nổ ra, thực dân
Pháp ngồi việc tìm mọi cách để đàn áp và khủng bố phong trào, mặt khác
chúng cũng tìm cách để cải lƣơng giáo dục, nhằm nâng cao hơn nữa lĩnh
vực này theo mục đích của họ.
Ở thời kỳ này, Paul Bert - Tổng trú sứ Bắc Kỳ và Trung Kỳ đã có
những chính sách mềm dẻo, nhẹ nhàng và tinh vi. Chúng tìm cách lơi kéo,
mua chuộc, hoặc gắn vào đó bằng những ý thức đạo đức, dân tộc vốn có
trong con ngƣời Việt thơng qua cơng tác giáo dục, đào tạo.
Bề ngồi thì thể hiện sự tôn trọng giá trị tinh thần, những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam bằng những chủ trƣơng “khai hóa”,
“bảo hộ”, “chấn hƣng đạo học” nên chữ Hán vẫn đƣợc đƣa vào dạy ở các
nhà trƣờng trong tồn xứ nhƣng có sự giám sát, theo dõi chặt chẽ của nhà
cầm quyền. “ P.Bert vẫn chủ trƣơng làm từ từ sao cho ảnh hƣởng của nƣớc
Pháp ngấm dần nhƣng liên tục vào nhân dân ta. Ơng ta khơng tán thành
việc bắt ngƣời Việt Nam bỏ chữ Hán để học chữ Pháp và chữ Quốc ngữ
nhƣ các đô đốc làm ở Nam Kỳ, vì nhƣ vậy là “ trái với khoa học ” (Phan
Trọng Báu, Giáo dục Việt Nam thời cận đại, 2006, trang 57). Nghĩa là chữ
Hán không bị xóa bỏ hồn tồn, cũng khơng chiếm số nhiều nhƣ ở thời kỳ
trƣớc nữa, chƣơng trình dạy phải theo tùy từng loại trƣờng, tùy từng ban,
từng lớp.
Những trƣờng học mới đƣợc mở ra trên Bắc Kỳ, chữ Hán vẫn phải
đƣợc duy trì ở một mức độ nhất định, nhằm mục đích “ trƣớc mắt, cần làm
cho các nho sĩ nhận thức đƣợc rằng họ phải biết tiếng Pháp, hiểu ngƣời
Pháp, còn ngƣời Pháp cũng phải học tiếng ngƣời “bản xứ” để hiểu biết
ngƣời dân mình cai trị ”.(Phan Trọng Báu, 2006, trang 57).
P.Bert cho thành lập nhiều trƣờng học ở các trung tâm hành chính để
cho cơng chức, thơng ngôn, hạ sĩ quan, giáo viên ngƣời Pháp theo học. Tổ
chức thành lập các trƣờng dạy nghề để đào tạo ra các cơng nhân có tay


20


nghề cao, có thể làm đƣợc các ngành nghề mới mẻ nhƣ mộc, mỹ nghệ,
rèn…Tuy nhiên kết quả giáo dục của ngƣời Pháp chƣa tiến triển đƣợc bao
nhiêu thì P.Bert chết, mọi kế hoạch phát triển giáo dục trên đất Bắc Kỳ mới
chỉ đƣợc hoạch định thì phải dừng lại giữa chừng.
Đến năm 1889, ngƣời Pháp đã tổ chức đƣợc những trƣờng học ở
vùng biên giới Việt – Trung nhƣ Cao Bằng, Lạng Sơn, Đồng Đăng… Mãi
đến năm 1894, khi De Lanessan làm Tồn quyền thì kế hoạch giáo dục của
Paul Bert đề ra trƣớc đây tiếp tục đƣợc thực hiện, các công việc nhƣ mở
nhà in chữ Hán, mở các lớp học chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho quan lại,
binh sĩ ngƣời Pháp, ra tờ Công báo bằng chữ Hán…Sau đó ở Trung Kỳ,
Tồn quyền Rousseau đã cho mở trƣờng Quốc học Huế do Khâm sứ Trung
Kỳ kiểm sốt, với mục đích là đào tạo con em tầng lớp trên của triều đình
phong kiến thành những quan cai trị, bao gồm có cả cựu học và tân học.
Năm 1897, Doumer thay Rousseau làm Toàn quyền đã cho thành lập
trƣờng Viễn Đông Bác Cổ vào năm 1898, với nhiệm vụ chuyên nghiên cứu
các vấn đề khoa học, trong đó nhiệm vụ hàng đầu là đề xuất các chƣơng
trình cải lƣơng giáo dục. Nhƣ vậy, kết quả là giáo dục Việt Nam song tồn
hai loại giáo dục: Giáo dục Pháp – Việt và giáo dục khoa cử.
Cuối cùng, đến 1906, thực dân Pháp cũng phải cải lƣơng giáo dục
khoa cử tạo nên hệ thống giáo dục chữ Hán cải lƣơng, bao gồm có 3 cấp
học là: bậc Ấu học, bậc Tiểu học và bậc Trung học.
Bậc ẤU HỌC
Do các xã thôn tự trù thiết lập để dạy những trẻ em nam và nữ, từ 6
đến 12 tuổi. Còn những ai đứng ra mời thầy, lập trƣờng tƣ cũng cho phép.
Các sĩ tử trƣờng tƣ cũng đều đƣợc tham dự sát hạch ứng thí cũng nhƣ sĩ tử
trƣờng cơng.


21


-

Các xã thôn đƣợc tự tuyển lựa giáo sƣ nhƣng cần phải có chính

quyền chuẩn nhận.
-

Các viên giáo huấn của các phủ huyện có chức vụ trong việc kiểm

sát trƣờng Ấu học ở hƣơng thôn.
-

Các tỉnh lỵ cũng thiết lập các trƣờng Ấu học, theo quy thức của

trƣờng Ấu học. Kinh phí của các trƣờng ấy do các tỉnh chi cấp.
-

Giáo quy của trƣờng Ấu học có 2 loại. Một là giáo quy Hán tự. Hai

là giáo quy Nam âm. Giáo quy Hán tự nhằm dạy những chữ Hán thƣờng
dùng và những chữ Hán thiết dụng về cái lĩnh vực chính trị, địa lý, ln lý.
Giáo quy Nam âm thì dạy chữ quốc ngữ và các độc bản (đọc bài) chữ quốc
ngữ thiết yếu về các lĩnh vực chính trị, phong tục, luân lý, lễ phép, thiên
văn, địa lý và vệ sinh.
-


Tốt nghiệp Ấu học thì đƣợc cấp bằng TUYỂN SINH.

-

Còn nhƣ phép đào tạo các giáo sƣ cho hệ Ấu học thì ở tỉnh lỵ của các

tỉnh có thiết lập một trƣờng quốc ngữ để dạy cho các hƣơng sƣ không biết
chữ quốc ngữ.

Bậc TIỂU HỌC
-

Các phủ huyện đều thiết lập trƣờng Tiểu học (tức trƣờng giáo thụ,

huấn đạo).
-

Tiểu học thu nhận những ngƣời dƣới 27 tuổi.

-

Giáo quy của trƣờng Tiểu học có 2 loại. Một là giáo quy Hán tự. Hai

là giáo quy Nam âm. Giáo quy chữ Hán để dạy các môn luân lý, văn
chƣơng, Bắc sử, Nam sử. Các môn này do giáo thụ, huấn đạo giảng giáo.
Giáo quy Nam âm để dạy các thƣ tịch về lịch sử thế giới, địa lý và cách trí,
tốn học cho đƣợc tiện. Hoặc dạy cả thêm chữ Pháp. Giáo quy Nam âm ấy
nếu nhƣ các viên giáo thụ huấn đạo khơng có thể dạy cả đƣợc thì có sự trợ
giúp của các giáo sƣ các trƣờng Pháp – Việt.


22


-

Quan Đốc học của các tỉnh có trách nhiệm kiểm sát các trƣờng Tiểu

học. Học xong chƣơng trình Tiểu học thì quan Đốc học làm quan chủ khảo
tổ chức thi cho các học sinh Tiểu học. Ai trúng tuyển sẽ đƣợc nhận văn
bằng KHÓA SINH.

Bậc TRUNG HỌC
-

Trung học thiết lập ở tỉnh lỵ (tức trƣờng của quan Đốc học).

-

Trung học thu nhận những ngƣời dƣới 30 tuổi.

-

Giáo quy của trƣờng có 2 loại. Một là giáo quy chữ Hán. Hai là giáo

quy Nam âm và giáo quy chữ Pháp. Chữ Hán thì dạy theo các văn bản thƣ
tịch chữ Hán tƣơng đối cao và thể thức các hạng công văn. Nam âm thì dạy
cho các mơn lịch sử liệt quốc, địa lý và cách trí tân thời, tốn pháp và tập
làm văn chƣơng chữ quốc ngữ. Chữ Pháp thì dạy Pháp văn tự thoại sơ đẳng.
-


Sau khi hoàn thành chƣơng trình, do tỉnh tổ chức thi tốt nghiệp lấy

văn bằng THÍ SINH. (Phạm Văn Khối, KHOA THI TIẾN SĨ CUỖI CÙNG
TRONG LỊCH SỬ KHOA CỬ VIỆT NAM ( Kỷ Mùi, Khải Định năm thứ tƣ,
1919 ), 2010, trang 60 - 62).
Chƣơng trình giáo dục Hán học cải lƣơng khơng chỉ đƣợc đề đến
chƣơng trình nội dung mà cịn đƣợc cụ thể hóa bằng các mơn học và việc
biên soạn sách giáo khoa cho từng mơn học. Đã có rất nhiều mơn học mới
xuất hiện trong chƣơng trình giáo dục khoa cử cải lƣơng so với khoa cử
truyền thống, chẳng hạn các mơn thuộc phạm trù khoa học nhƣ: tốn, cách
trí... Cịn các mơn thuộc phạm trù khoa học xã hội nhân văn cũng xuất hiện
những môn mới, nhƣ: lịch sử Việt Nam, lịch sử Thái tây, địa lý các nƣớc...
Ngay trong các môn trực tiếp kế thừa từ truyền thống, nhƣ kinh điển nho
học, chƣ sử cũng đều đƣợc rút gọn lại...

23


×