Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Vận dụng mô hình trường học mới VNEN vào thiết kế dạy học bài “nghĩa của câu” (ngữ văn 11) (2016)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622 KB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===o0o===

VŨ THỊ HẢI YẾN

VẬN DỤNG MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC
MỚI VNEN VÀO THIẾT KẾ DẠY HỌC
BÀI “NGHĨA CỦA CÂU” (NGỮ VĂN 11)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

HÀ NỘI, 2016

LỜI CẢM ƠN


Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngữ văn, các thầy cô
trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn đã quan tâm, giúp đỡ và kiện cho tôi
trong quá trình làm khóa luận. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
TS.Phạm Kiều Anh - người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình chu đáo
để tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 22 tháng 04 năm 2016
Sinh viên

Vũ Thị Hải Yến


LỜI CAM ĐOAN
Để hoàn thành khóa luận này, ngoài sự nỗi lực của bản thân, tôi đã nhận


được sự hướng dẫn của các thầy cô trong khoa Ngữ văn và sự hướng dẫn trực
tiếp của cô giáo – TS.Phạm Kiều Anh.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Kết quả nghiên
cứu là trung thực và không trùng khớp với kết quả của các tác giả khác.
Hà Nội, ngày 22 tháng 04 năm 2016
Tác giả

Vũ Thị Hải Yến


BẢNG DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CH:

Câu hỏi

GV :

Giáo viên

HS :

Học sinh

MH:

Mô hình

NXB :

Nhà xuất bản


PPDH :

Phương pháp dạy học

SGK :

Sách giáo khoa

SGV :

Sách giáo viên

THCS :

Trung học cơ sở

THPT :

Trung học phổ thông


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu........................................................................................ 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 7
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 7
6. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 8

NỘI DUNG....................................................................................................... 9
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC VNEN VÀO DẠY HỌC BÀI NGHĨA CỦA
CÂU................................................................................................................... 9
1.1. Giới thiệu chung về Mô hình trường học VNEN ...................................... 9
1.1.1. Khái niệm mô hình trường học VNEN ................................................... 9
1.1.2. Nguyên tắc tổ chức các hoạt động trong mô hình trường học VNEN.... 9
1.1.3. Tổ chức và quản lí lớp học của mô hình trường học VNEN ................ 12
1.1.4. Mục đích của việc sử dụng mô hình trường học VNEN trong giáo dục
......................................................................................................................... 16
1.2. Những vấn đề chung về “Nghĩa của câu”................................................ 17
1.2.1. Khái niệm nghĩa của câu ....................................................................... 17
1.2.2. Các thành phần ý nghĩa trong câu ......................................................... 19
1.3. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 21
1.3.1. Điều tra, khảo sát thực trạng dạy học bài “Nghĩa của câu” ở trường
THPT Tây Tiền Hải ........................................................................................ 21
1.3.2. Đánh giá chung ..................................................................................... 26


Chương 2. THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC BÀI “NGHĨA CỦA
CÂU” SỬ DỤNG MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC VNEN.............................. 27
2.1. Mục đích của việc dạy học bài “Nghĩa của câu”..................................... 27
2.2. Các nguyên tắc thiết kế hoạt động dạy học bài “Nghĩa của câu” theo mô
hình trường học VNEN ................................................................................... 27
2.2.1. Nguyên tắc phù hợp với đặc điểm nhận thức của HS........................... 27
2.2.2. Nguyên tắc dạy học gắn liền với thực tiễn............................................ 29
2.2.3. Nguyên tắc trực quan ............................................................................ 31
2.3. Bài “Nghĩa của câu” trong SGK Ngữ văn 11 .......................................... 32
2.4. Những hoạt động dạy học bài “Nghĩa của câu” theo mô hình trường học
VNEN.............................................................................................................. 34

2.4.1. Hoạt động khởi động............................................................................. 34
2.4.2. Hoạt động hình thành kiến thức ............................................................ 35
2.4.3. Hoạt động luyện tập .............................................................................. 38
2.4.4. Hoạt động vận dụng .............................................................................. 39
2.4.5. Hoạt động mở rộng ............................................................................... 39
Chương 3. THỬ NGHIỆM SƯ PHẠM ...................................................... 40
3.1. Mục đích và yêu cầu thử nghiệm ............................................................. 40
3.1.1. Mục đích................................................................................................ 40
3.1.2. Yêu cầu thử nghiệm .............................................................................. 40
3.2. Đối tượng thử nghiệm .............................................................................. 40
3.3. Kế hoạch thử nghiệm ............................................................................... 41
3.4. Nội dung thử nghiệm ............................................................................... 41
KẾT LUẬN .................................................................................................... 48
CÔNG TRÌ NH ĐÃ CÔNG B Ố
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban
hành Nghị quyết về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Với quan điểm chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước ta, thời gian gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trực tiếp
chỉ đạo việc thực hiện đổi mới PPDH, đổi mới kiểm tra, đánh giá và yêu cầu
GV tăng cường tổ chức các hoạt động nhận thức cho HS, hướng dẫn phương
pháp tự học cho các em. Đổi mới PPDH luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu
trong giáo dục. Nhưng trên thực tế, vấn đề này chưa được quan tâm đúng
mức. GV tuy được tham dự các lớp tập huấn về phương pháp song khi áp

dụng trong quá trình dạy học chỉ mang tính "hình thức", chưa đạt hiệu quả
cao, do GV chưa nắm chắc lí thuyết và điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế
và thiếu thốn.
Bên cạnh đó, mặc dù đã có nhiều cải tiến trong nhiều hoạt động của quá
trình giáo dục nhưng nhìn chung PPDH của GV và đổi mới hình thức học của
học sinh (HS) vẫn chưa có bước đột phá lớn, chủ yếu vẫn là những đổi mới
nhỏ lẻ, mang tính thao tác. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng
trên là thiếu một mô hình (MH) dạy học mới, có thể hiện thực hóa một cách
hiệu quả tư tưởng đổi mới DH. Để giải quyết vấn đề này, một hướng đi mới
đã và đang được nghiên cứu, vận dụng là cách thức tổ chức hoạt động dạy học
theo MH trường học mới VNEN.
Việc đổi mới PPDH nói chung và PPDH môn Ngữ văn nói riêng là việc
vô cùng cần thiết. Bởi lẽ Ngữ văn là một môn học có vị trí quan trọng. Nó vừa
là môn học mang tính công cụ, vừa là môn học mang tính nghệ thuật, lại là
môn học mang tính nhân văn cao.Tuy nhiên, một thực trạng đáng lưu ý ở đây,

1


đó là HS đang ngày càng quay lưng lại với môn Ngữ văn, không còn coi trọng
và hứng thú với môn học này. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng
này, trong đó bao gồm cả những nguyên nhân khách quan về thực trạng của
xã hội và những nguyên nhân chủ quan nảy sinh trong thực tế dạy học môn
học này ở nhà trường phổ thông. Lối dạy học truyền thống; cách tạo không
khí học tập và cả cách kiểm tra đánh giá theo lối áp đặt, không xác định HS là
chủ thể của hoạt động dạy học nên nhiều giờ học trở nên nhàm chán, căng
thẳng; không có ấn tượng với các em. Bởi vậy, để HS học tốt môn Ngữ văn
cần áp dụng những hình thức, biện pháp dạy học mới, hiện đại nhằm kích
thích hứng thú học tập cho HS.
"Nghĩa của câu" là một bài học tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn

THPT. Đây là một nội dung kiến thức hoàn toàn mới so với các chương trình
trước đây. Các nội dung kiến thức của bài "Nghĩa của câu" cũng chưa được
trình bày ở lớp dưới. Muốn đạt được hiệu quả cao trong việc bài "Nghĩa của
câu" nói riêng và dạy học tiếng Việt nói chung cần có PPDH phù hợp kích
thích được hứng thú, sự say mê tìm tòi của HS.
Nhận thấy MH trường học mới VNEN đã áp dụng thử nghiệm và đạt
được thành công đáng ghi nhận ở cấp học Tiểu học và THCS ở nhiều môn
học trong đó có Ngữ văn. Hơn nữa, gần đây ở bậc THPT cũng đã có nhiều
nghiên cứu đưa vào ứng dụng thử nghiệm mô hình trường học VNEN ở nhiều
phân môn. Với Ngữ văn, cũng đã có nhiều bài nghiên cứu thử nghiệm trong
dạy đọc hiểu văn học, nhưng nghiên cứu về giờ dạy tiếng Việt ở chương trình
THPT vẫn còn là hướng đi khá mới.
Xuất phát từ lí do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: Vận dụng
mô hình trường học mới VNEN vào thiết kế dạy học bài “Nghĩa của câu”
(Ngữ văn 11).


2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Lịch sử nghiên cứu về Nghĩa của câu
Nghĩa của câu là một bình diện khá quan trọng của câu. Tuy nhiên,
nghĩa của câu không phải là đối tượng được chú trọng nghiên cứu ngay từ
đầu, các công trình nghiên cứu về nó còn hạn chế và còn tồn tại nhiều ý kiền
khác nhau.
Trong ngữ pháp truyền thống, câu được coi là đơn vị cấu trúc lớn nhất
trong tổ chức nội bộ của một ngôn ngữ. Quan niệm này xuất pháp từ nhận
thức câu là một đơn vị ngôn ngữ lớn, có nội dung thông báo và có cấu trúc cụ
thể. Việc nghiên cứu câu theo quan niệm này quan tâm nhiều đến cấu trúc mà
xem nhẹ và chưa đi sâu vào mặt nghĩa và mặt sử dụng của câu. Theo quan
niệm trên, các tác giả trong cuốn "Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt" tập
trung xem xét câu chủ yếu ở cấu trúc ngữ pháp. Do đó, câu được phân loại

dựa trên ba căn cứ: phân loại theo mục đích nói (câu tường thuật, câu nghi
vấn, câu mệnh lệnh, câu cảm thán); căn cứ vào mối quan hệ với hiện thực
(câu khẳng định, câu phủ định); phân loại câu theo cấu tạo (câu đơn, câu
ghép) [11].
Ngày nay, cùng với sự phát triển của hàng loạt lí thuyết mới, câu được
xem xét trên nhiều phương diện. Chẳng hạn, một học giả người Nga cho rằng
câu có ba phạm trù cú pháp hiện thực hóa bản chất ngữ pháp. Đó là tính thông
báo, tính tình thái và tính ngữ vị. Trong đó, phạm trù tính thông báo truyền
đạt ý đồ thông báo của người nói về một cái gì đó cho người khác biết để cho
người đó có thể phản ứng lại. Tiêu chí tình thái là phạm trù ngữ điệu, nhờ ngữ
điệu này mà chúng ta biết được câu được cấu thành không và ý đồ thông báo
của người nói có được thực hiện không. Còn phạm trù tính vị ngữ truyền đạt
mối liên hệ giữa vị ngữ với chủ ngữ của câu. Như vậy, mỗi phạm trù này đều


có các mặt bên trong (ý nghĩa) và mặt bên ngoài (các tiêu chí hình thức) [3,
Tr.44]
Trong ngôn ngữ học hiện đại, câu được khảo sát ở ba bình diện mà
Ch.Moriss đã khởi xướng. Trong lí thuyết kí hiệu học, ba lĩnh vực cần được
xem xét là:
Nghĩa học (Semantics): đó là lĩnh vực của các mối quan hệ giữa kí hiệu
với các sự vật ở bên ngoài hệ thống kí hiệu.
Kết học (Syntatics): là lĩnh vực nghiên cứu kí hiệu các mối quan hệ kết
hợp với các kí hiệu khác.
Dụng học (Pragnatic): là lĩnh vực của mối quan hệ giữa các kí hiệu và
người sử dụng nó.
Vận dụng vào đơn vị câu, ngôn ngữ hiện đại đã phân biệt ba bình diện
khác nhau: nghĩa học (nghĩa của câu), kết học (cú pháp) và ngữ dụng. Đây là
sự khác biệt lớn so với quan niệm ngữ pháp truyền thống vốn chỉ xem xét câu
ở bình diện cú pháp mà không coi trọng bình diện nghĩa và bình diện sử dụng

của câu.
Theo tác giả Diệp Quang Ban trong sách "Ngữ pháp tiếng Việt"
[1, tr.105], ông cho rằng câu ngày nay người ta thường nêu ra các yếu tố sau
đây:
Yếu tố hình thức: Câu có cấu tạo ngữ pháp bên trong và bên ngoài có
tính chất tự lập và có một ngữ điệu kết thúc.
Yếu tố nội dung: Câu có nội dung là một sự tưởng tượng đối trọn vẹn và
có thể kèm thái độ của người nói hay nội dung làm thái độ, tình cảm của
người nói.
Yếu tố chức năng: Câu có chức năng hình thành và biểu hiện truyền đạt
tư tưởng, tình cảm. Nó là đơn vị thông báo nhỏ nhất.
Lĩnh vực nghiên cứu: Câu là đơn vị của nghiên cứu ngôn ngữ.


Như vậy, một định nghĩa về câu sẽ như sau: "Câu là đơn vị của nghiên
cứu có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc,
mang một ý nghĩ tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của người nó
hoặc có kèm theo thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp hình thành và biểu
hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ
nhất bằng ngôn ngữ". [1, tr.106]
Định nghĩa trên tương đối đầy đủ. Nó đề cập đến hai thành phần nghĩa
cơ bản của câu là sự việc và nghĩa tình thái. Đây cũng là hai thành phần nghĩa
được giảng dạy trong bài "Nghĩa của câu" trong SGK Ngữ văn 11 (tập 2).
Trong khi đó, tác giả Cao Xuân Hạo khi bàn về nghĩa của câu lại cho
rằng: "Nghĩa của câu là cấu trúc nhiều tầng. Các tầng nghĩa trong câu phối
hợp với nhau tạo ra cái nghĩa hành chức ấy và được như vậy thì mới là hiểu
nhau... Nghĩa của câu nhiều khi ở trên bề mặt của nó nhưng nhiều khi chỉ
thấy được trong bề sâu của nó." [6, tr.103].
“Nghĩa của câu” là một nội dung kiến thức quan trọng trong chương
trình Ngữ văn THPT. Cho đến nay, việc dạy học nội dung này đã được nhiều

nhà nghiên cứu và cả GV phổ thông quan tâm nhằm tìm ra những hình thức tổ
chức hướng dẫn HS tiếp cận những tri thức này đạt kết quả cao. Tuy nhiên,
trong khóa luận này, chúng tôi tập trung vào tìm hiểu và bước đầu vận dụng
một hình thức tổ chức hướng dẫn HS tiếp cận với “Nghĩa của câu” trong
SGK Ngữ văn 11 - THPT. Đó là sử dụng mô hình (MH) trường học VNEN
hướng tới mục đích tạo ra hiệu quả cho việc tổ chức dạy học bài học và tạo
hứng thú, và sự say mê học Tiếng Việt cho chủ thể học tập - HS.
2.2. Lịch sử nghiên cứu về mô hình trường học mới VNEN
Ở Việt Nam, MH trường học mới VNEN đã và đang được chú trọng
nghiên cứu cũng như đưa vào thử nghiệm tại một số cấp học ở nhiều trường
trên phạm vi cả nước. Có thể kể đến một số công trình bàn luận và đánh giá


về MH như:
1. Đặng Tự Ân - Mô hình trường học mới Việt Nam. Hỏi - Đáp. NXB
Giáo dục Việt Nam, 2014.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Vụ Giáo dục Tiểu học - Dự án Mô hình
trường học mới Việt Nam, Hướng dẫn tổ chức sinh hoạt chuyên môn tại các
trường thực hiện mô hình trường học mới Việt Nam, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2013.
Từ năm 2011-2012, MH trường học mới VNEN được tiến hành thử
nghiệm ở cấp Tiểu học. Qua ba năm triển khai ở cấp Tiểu học đã khẳng định
mô hình trường học mới VNEN là mô hình trường học hiện đại, tiên tiến, phù
hợp với mục tiêu đổi mới và đặc điểm của giáo dục của Việt Nam. Do vậy,
mô hình tiếp tục được nhân rộng quy mô, năm 2014-2015 trên cả nước có
1447 trường Tiểu học có HS học hết lớp 5 theo MH trường học VNEN, Bộ
cũng chỉ đạo 6 tỉnh triển khai thử nghiệm MH trường học mới này tại bậc
THCS. Đã có 46 lớp 6, trong 24 trường THCS triển khai và thực nghiệm
thành công. Tiếp đó, năm 2015-2016, trên cả nước đã có 3700 trường tiểu học
và 1600 trường THCS tham gia triển khai MH trường học mới.

Từ những thành công và khả năng ứng dụng của MH này đem lại hiệu
quả cao trong học tập của HS, nên hướng nghiên cứu về việc thiết kế và tổ
chức dạy học theo MH VNEN ở bậc THPT đang hứa hẹn sẽ đem lại bước tiến
toàn diện hơn cho PPDH ở nhà trường Việt Nam. Đối với chương trình Ngữ
văn ở bậc THPT, nghiên cứu áp dụng MH trường học mới VNEN vào dạy
học giờ tiếng Việt còn là một hướng mới, hứa hẹn sẽ đem lại nhiều kì vọng
đem vào ứng dụng trong thời gian gần nhất. Nhận thấy rõ tính tích cực và khả
năng có thể ứng dụng cao đó của MH trường học mới VNEN, cùng với nội
dung bài Nghĩa của câu có nhiều điểm thích hợp đưa vào ứng dụng thử
nghiệm MH trường học mới, chúng tôi tiến hành bài nghiên cứu với đề tài:


Vận dụng mô hình trường học mới VNEN vào thiết kế dạy học bài
“Nghĩa của câu” (Ngữ văn 11).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra một phương hướng dạy học bài "Nghĩa
của câu", tạo ra sự sáng tạo và kích thích nhu cầu học tập cho HS trong dạy
học tiếng Việt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng hợp các vấn đề lý thuyết về MH trường học mới VNEN và nghĩa
của câu.
- Đề xuất cách vận dụng MH trường học mới VNEN khi dạy học bài
"Nghĩa của câu" trong SGK Ngữ văn 11 (bộ chuẩn).
- Thử nghiệm nhằm bước đầu đánh giá kết quả đề xuất.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- MH trường học mới VNEN trong giáo dục.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Bài "Nghĩa của câu" trong SGK Ngữ văn 11 (bộ chuẩn).

5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp chính sau:
5.1. Phương pháp phân tích ngôn ngữ
Phương pháp này sử dụng khi đi phân tích các ngữ liệu trong bài học và
phần luyện tập.
5.2. Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp này sử dụng khi tiến hành so sánh các ngữ liệu trong bài
học nhằm làm nổi bật vấn đề nghiên cứu trong đề tài.


5.3. Phương pháp quan sát
Phương pháp này sử dụng khi GV bao quát toàn bộ lớp học, bao quát
hoạt động các nhóm, hoạt động cá nhân trong giờ học ứng dụng MH VNEN
để kịp thời giải quyết các thắc mắc của HS. Đối với MH này, GV và HS đều
thực hiện quan sát mọi hoạt động lớp học.
5.4. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp này được sử dụng khi tổ chức thực nghiệm để chứng
minh tính khả thi của thiết kế, từ đó rút ra kết luận chung, cần thiết cho những
đề xuất được giới thiệu.
6. Bố cục khóa luận
Khóa luận được triển khai làm 3 phần: mở đầu, nội dung, kết luận.
Phần nội dung được bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng mô hình trường
học mới VNEN vào dạy học bài “Nghĩa của câu”.
Chương 2: Thiết kế hoạt động dạy học bài "Nghĩa của câu" trong SGK
Ngữ văn 11 (bộ chuẩn) theo mô hình trường học mới VNEN.
Chương 3: Thử nghiệm sư phạm.


NỘI DUNG

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC VNEN VÀO DẠY HỌC
BÀI NGHĨA CỦA CÂU
1.1. Giới thiệu chung về Mô hình trường học VNEN
1.1.1. Khái niệm mô hình trường học VNEN
MH trường học mới tại Việt Nam - VNEN (Việt Nam Escuela Nueva VNEN) là một kiểu MH nhà trường hiện đại, tiên tiến, phù hợp với mục tiêu
đổi mới và đặc điểm của giáo dục Việt Nam. VNEN là cụm từ viết tắt của
Việt Nam Escuela Nueva tức là MH trường học mới tại Việt Nam. Đó là sự
vận dụng MH nhà trường đã được thí điểm thành công ở Cô-lôm-bi-a và một
số nước Châu Mĩ la tinh (Escuela Nueva). MH này được đề xuất từ MH EN
(đó là MH nhà trường kiểu mới được thực hiện tại nước Cộng hòa Côlômbia).
MH EN đã đưa ra được một giải pháp giáo dục cụ thể để thay đổi nhà trường,
phù hợp với xu thế phát triển của giáo dục hiện đại.
Ở Việt Nam, theo báo cáo nhanh của Dự án MH trường học mới, tính
từ năm 2011, VNEN đã được triển khai thí điểm và nhân rộng ở bậc Tiểu học
tại 63 tỉnh, thành phố, với gần 2000 trườngvà gần 70.000 HS tham gia. Đây là
MH dạy học không những đổi mới về tổ chức lớp học, về trang trí lớp mà quá
trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy - học cả lớp sang dạy học theo nhóm.
1.1.2. Nguyên tắc tổ chức các hoạt động trong mô hình trường học VNEN
Mô hình trường học mới VNEN được triển khai dựa trên nguyên tắc
phối hợp các hoạt động học tập cá thể với sự tương tác của HS - HS và HS GV; hướng HS đến sự phát triển toàn diện, không chỉ hoạt động lĩnh hội kiến
thức mà còn rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức vào thực tế sinh động,
năng lực tự học, kỹ năng sống, tự phục vụ bản thân, tự quản tập thể, bồi
dưỡng hứng thú học tập để học tập suốt đời. MH trường học mới chú trọng


phát huy năng lực riêng của từng HS, không ứng xử một cách đồng loạt bằng
cách quan tâm đến từng học sinh ngay trong quá trình học tập, kịp thời động
viên kết quả đạt được, phát hiện những điểm mạnh để khuyến khích, những
khó khăn để hướng dẫn; đánh giá tiến bộ của HS theo yêu cầu giáo dục,

không so sánh HS này với HS khác. Để đạt được những mục tiêu giáo dục
như trên, MH trường học mới xác định nguyên tắc hoạt động như sau:
Quan điểm chỉ đạo các hoạt động của MH trường học mới được xây
dựng dựa trên hai trụ cột lý thuyết giáo dục là Thuyết kiến tạo và Thuyết hoạt
động, trong đó:
Thuyết kiến tạo có vai trò là tiền đề xây dựng những định hướng cho
việc triển khai các nhiệm vụ giáo dục cụ thể. Quan điểm chỉ đạo của thuyết
này là: Mỗi người học là một chủ thể kiến tạo tích cực, tự phản ánh, khám
phá, cải tạo thế giới từ kinh nghiệm, hiểu biết riêng của mình. Người ta không
thể dạy một người nào đó, mà chỉ có thể giúp đỡ, hỗ trợ để người đó tự mình
khám phá, phát triển. Gắn với chủ trương trên, người ta xác định rõ mọi khâu,
mọi hoạt động của quá trình giáo dục đều phải xuất phát từ chủ thể HS. Và
chính chủ thể HS cũng là một nhân tố quan trọng của hoạt động giáo dục.
Còn thuyết hoạt động nhấn mạnh: Con người tự sinh ra bản thân mình
bằng hoạt động của chính mình. Mỗi cá nhân bằng hoạt động của mình hình
thành nên nhân cách và tạo ra sự phát triển của bản thân. Theo Vưgôtxki, yếu
tố quyết định sự hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách con người “là hoạt
động của chính con người”. Với quan điểm chỉ đạo của thuyết này, MH
trường học mới xác định mọi khâu của quá trình giáo dục đều lấy hoạt động
làm căn cứ. Hoạt động ở đây là những hành động cụ thể của chủ thể học tập –
HS. Và thông qua quá trình hoạt động của các em, người ta đánh giá chất
lượng giáo dục. Trên nền tảng của các lý thuyết nêu trên, VNEN xác định các
nguyên tắc vận hành của mô hình dạy học theo bốn định hướng lớn:
- Định hướng về người học: HS là trung tâm của quá trình dạy học. HS


được hướng dẫn để tự thực hiện quá trình học tập với một chương trình tự học
theo từng bước. HS được phát huy tính tích cực để tìm tòi, khám phá tri thức
và vận dụng kiến thức, kĩ năng vào cuộc sống. HS được giao quyền tự quản
và tăng cường hợp tác trong quá trình học tập.

- Định hướng về người dạy: GV là người tổ chức, hướng dẫn HS học
theo từng bước dựa trên tài liệu học. GV phải góp phần kiến tạo, duy trì và
thúc đẩy một môi trường học tập tích cực, cởi mở, chú trọng tính hợp tác và
cạnh tranh giữa các cá nhân HS.
- Định hướng cho nhà trường: Nhà trường thiết lập mối liên hệ chặt chẽ
với cha mẹ HS và cộng đồng để cùng tham gia vào quá trình giáo dục và các
dự án giáo dục tại cộng đồng.
-Định hướng về chương trình, nội dung và hoạt động dạy học:
Chương trình, nội dung và hoạt động dạy học phải gắn bó chặt chẽ với thực
tiễn cuộc sống.
Đi sâu vào việc tổ chức các họat động dạy học trong mỗi giờ học,
VNEN xác định có 5 hoạt động:
Khởi động: Tổ chức HS huy động vốn kiến thức, kĩ năng của bản thân
để chuẩn bị tiếp nhận kiến thức, kĩ năng mới, để giải quyết những vấn đề liên
quan đến bài học, tạo hứng thú, động cơ học tập, từ đó bước đầu đánh giá khả
năng, nhu cầu của HS.
Hình thành kiến thức mới: HS tự chiếm lĩnh kiến thức, hình thành kĩ
năng mới thông qua việc trực tiếp tiến hành hệ thống các bài tập/ nhiệm vụ
dưới sự hướng dẫn của GV.
Luyện tập: HS vận dụng kiến thức, kĩ năng vừa học để giải quyết nhiệm
vụ cụ thể, tương tự do sách giáo khoa hoặc GV đưa ra.
Vận dụng: HS sử dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết các vấn
đề, nhiệm vụ thực tiễn trong cuộc sống. GV định hướng, gợi ý HS tự đặt ra


trên cơ sở bài học, đây là hoạt động ở nhà, cộng đồng, giúp HS gắn với gia
đình, địa phương.
Mở rộng (tìm tòi mở rộng): Khuyến khích HS tiếp tục tìm hiểu, mở
rộng kiến thức, kĩ năng từ các nguồn/kênh thông tin khác như sách, báo, mạng
Internet…; tự đặt ra các tình huống có vấn đề nảy sinh từ nội dung bài học, từ

thực tiễn cuộc sống, vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết
bằng những cách khác nhau. Hoạt động này được chủ yếu giao cho HS thực
hiện ở nhà nhằm mục đích hình thành thói quen tự học cho các em.
1.1.3. Tổ chức và quản lí lớp học của mô hình trường học VNEN
1.1.3.1. Sắp xếp bàn ghế học tập
Thay vì bàn ghế được sắp xếp theo hàng ngang như trước đây, các lớp
học của mô hình VNEN yêu cầu sắp xếp lại bàn ghế theo nhóm HS: nhóm 4
hoặc nhóm 6. Vị trí chỗ ngồi của HS có sự thay đổi về tâm thế học tập và
quan hệ tương tác giữa các HS. Với cách ngồi theo hàng ngang, HS không
cần tương tác với nhau, chỉ có quan hệ tương tác: GV và HS trong lớp học.
Do đó, nảy sinh tâm lí lấy GV làm trung tâm của quá trình học tập; hoạt động
học tập chủ yếu từ nghe giảng - ghi nhớ - vận dụng và tái hiện. Cách học này
chỉ tạo nên những bộ óc biết ghi nhớ và tái hiện mà không tạo nên được con
người có các năng lực mà xã hội đang cần - năng lực tự chủ, năng lực phối
hợp nhóm, năng lực tư duy, năng lực sáng tạo, …
Với vị trí ngồi học theo nhóm, cùng với cách tổ chức dạy học mới của
GV, bên cạnh việc được tiếp nhận, mở rộng kiến thức các môn học, HS còn
có điều kiện hình thành nhiều năng lực cần thiết của con người phù hợp với
xã hội đang phát triển. Nhờ quan hệ tương tác được mở rộng, đa chiều: tương
tác giữa HS (với tư cách là chủ thể của quá trình học tập) với tài liệu (với tư
cách là đối tượng của quá trình học tập, được viết lại chủ yếu dành cho người
học với các hướng dẫn sư phạm) dưới sự điều hành của nhóm trưởng và vai


trò cố vấn của GV; tương tác giữa HS với dụng cụ học tập (tranh ảnh, đồ
dung, vật thật,…); tương tác giữa HS với HS (hai chủ thể với nhau) thông qua
vai trò của nhóm trưởng, của GV; tương tác giữa HS và GV và ngược lại.
Trong các quan hệ tương tác trên, HS thực sự được sống với tư cách là chủ
thể của quá trình học tập. Với vị thế của mình trong quá trình học tập như
vậy, các hoạt động tương có tác dụng kích thích các hoạt động của bộ não

nhằm bồi dưỡng cho các em những năng lực cần thiết. Không chỉ có vậy, các
em còn từng bước hình thành và phát triển tác phong tự tin, tự chủ và độc lập
trước những thử thách của cuộc sống.
Tuy nhiên, muốn làm được điều đó, GV phải tạo được bầu không khí
thân thiện trong các hoạt động của mỗi giờ học. Tránh rủi ro do không quán
xuyến được các hoạt động của mỗi HS trong giờ học. Muốn vậy, GV phải có
khả năng quan sát, khả năng điều chỉnh hành vi tốt hơn là khả năng quan sát,
khả năng thuyết trình tốt như các giờ dạy trước đây.
1.1.3.2. Xây dựng hội đồng tự quản học sinh
Hội đồng tự quản HS là một biện pháp giáo dục nhằm thúc đẩy sự giáo
dục về đạo đức, tình cảm xã hội của HS thông qua những kinh nghiệm hoạt
động thực tế của các em trong nhà trường và mối quan hệ với những người
xung quanh. Hội đồng tự quản của HS được thành lập vì chủ thể học tập và
bởi chính các em nhằm đảm bảo cho các em tham gia một cách toàn diện vào
các hoạt động của nhà trường và phát triển lòng khoan dung, sự tôn trọng,
bình đẳng, tinh thần hợp tác đoàn kết cho HS. Hội đồng tự quản của HS phát
triển kĩ năng ra quyết định, kĩ năng hợp tác và kĩ năng lãnh đạo. Đồng thời
cũng chuẩn bị cho các em ý thức trách nhiệm khi thực hiện những quyền và
bổn phận của mình. Với sự hướng dẫn của GV, HS sẽ tổ chức Hội đồng tự
quản và thành lập các ban để lập kế hoạch và thực thi các hoạt động, các dự
án. Nhà trường nên khuyến khích sự tham gia của phụ huynh HS và các hoạt


động, dự án của HS.

Hội đồng tựu quản học sinh

Chủ tịch hội đồng

Phó chủ

tịch hội

Ban họcBa
tập n
thư
v
i

Phó chủ tịch hội đồng

Ban đối
ngoại

Ban
quyền lợi
của hs
trong học
tập

Ban sức
khỏe, vệ
sinh

Ban thể
dục thể
thao

Sơ đồ: xây dựng hội đồng tự quản học sinh của mô hình VNEN
Xây dựng mô hình tự quản có ý nghĩa rất lớn trong việc bồi dưỡng, phát
triển kĩ năng tự ý thức, lòng tự trọng, tính tự tin và cách hành xử bình đẳng,

tôn trọng lẫn nhau của HS. Điều được quan tâm nhất ở Hội đồng tự quản đó là
ý nghĩa của việc thúc đẩy quá trình tự học của mô hình này. Thực tế thử
nghiệm ở bậc học dưới cho thấy, trong lớp học của VNEN, Hội đồng tự quản
hỗ trợ GV rất nhiều trong quá trình tổ chức các hoạt động học. Hội đồng tự
quản có các ban với các vai trò cụ thể thúc đẩy hoạt động học diễn ra hiệu quả
hơn như: Ban học tập - thường xuyên giúp GV tổ chức hoạt động kiểm tra bài
tập và khởi động cho giờ học; Hội đồng tự quản điều khiển các nhóm trong
lớp thực hiện các hoạt động cơ bản của tiết học; ghi tiến độ, nhắc thời gian;
điều khiển các trao đổi giữa HS với HS, hỗ trợ các bạn yếu trong các tiết học


và bằng cả các kế hoạch dài hơi được xây dựng môt cách bài bản. Như vậy,
Hội đồng tự quản trong VNEN khi được tập huấn rèn luyện có khả năng tổ
chức hoạt động tự học của lớp rất tốt và hiệu quả.
1.1.3.3. Xây dựng góc học tập
Trong MH VNEN, mỗi lớp học đều có góc học tập. Góc học tập do GV,
HS và cộng đồng cùng xây dựng. Góc học tập chia theo các môn học và có
các vật liệu phục vụ cuộc sống, các dụng cụ hỗ trợ học tập,… Góc học tập có
ý nghĩa rất lớn và không thể thiết trong quá trình học tập của HS, nhất là quá
trình tự học. Việc quan sát và sử dụng các đồ vật ở góc đồ vật ở góc học tập
giúp các em tăng cường khả năng thực hành thao tác và phát triển kiến thức
của chính bản thân mình. HS có thể tự nghiên cứu và sử dụng thời gian rảnh
rỗi của mình vào những chủ đề mà các em yêu thích ở góc học tập. Chính
điều này tạo nên khả năng tự tìm tòi, khám phá và nghiên cứu cho các em
ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Thông qua quan sát cách HS làm việc,
quá trình HS làm việc ở góc học tập GV có thể phát hiện tính cách, thiên
hướng nghề nghiệp cho mỗi em để giúp các em phát triển tốt hơn. Góc học
tập với nhiều đồ dùng, tài liệu học tập giúp các em có đủ phương tiện phục vụ
cho việc giúp các em cập nhật, củng cố hoặc mở rộng hiểu biết cho bản thân.
Từ đó, các em sẽ có hứng thú học tập hơn.

1.1.3.4. Xây dựng góc thư viện
Thư viện là một công cụ quan trọng tạo cơ hội cho HS học tập một cách
tích cực, chủ động, đồng thời cũng cấp các nguồn tài liệu khác nhau để HS
học tập và nghiên cứu.
Thư viện đóng vai trò là nguồn tài liệu phong phú cho một môn học, một
chủ đề mà sách hướng dẫn không thể đáp ứng nổi. Chính vì vậy, sách thư viện
là công cụ hữu ích giúp HS tự học. Không những vậy, thư viện còn là nhân tố
đóng góp vào công việc khơi dậy sự tò mò muốn tìm hiểu về thế giới xung


quang, về các chủ đề học tập cho HS. Ngoài việc cung cấp thông tin cho HS,
thư viện còn góp phần hình thành thói quen đọc sách và tìm hiểu cho các em
từ những năm học còn ngồi trên ghế nhà trường góp phần dần hoàn thiện tri
thức và nhân cách sống cho các em. Trong VNEN, HS và GV cùng xây dựng
thư viện lớp mình, cùng nhau xây dựng nội quy thư viện và cùng nhau quản lí
thư viện.
Từ những đặc điểm này, có thể thấy VNEN đã thể hiện được những tư
tưởng giáo dục tiến tiến của thời đại.
1.1.4. Mục đích của việc sử dụng mô hình trường học VNEN trong
giáo dục
Mô hình trường học VNEN tạo ra sự tương tác giữa HS với HS, giữa HS
với GV, tăng thêm nhu cầu và yêu cầu HS cần tự học, giúp các em chủ động,
sáng tạo hơn trong quá trình học tập. Mô hình VNEN thúc đẩy sự phối hợp,
tạo ra sự gắn kết và tăng cường sự tham gia, tương tác giữa các đối tượng
chính của nhà trường. Do đó, góp phần làm thay đổi PPDH, tiến tới đổi mới
giáo dục một cách toàn diện đáp ứng được nhu cầu của xã hội hiện nay. Mục
đích của mô hình trường học mới VNEN sẽ tác động tích cực tới các nhân tố
tham gia trực tiếp quá trình dạy - học và các nhân tố khác chi phối quá trình
dạy - học.
Mục đích hướng tới của mô hình trường học mới VNEN là:

 Giúp cho HS:
- Tự tin, biết cách suy nghĩ;
- Biết cộng tác, hợp tác với mọi người;
- Có kĩ năng làm việc nhóm;
- Biết quan tâm, có trách nhiệm trong các hoạt động;
- Biết phấn đấu làm chủ quá trình học tập của mình;
- Có nhiều kĩ năng trong giao tiếp và kĩ năng sống;


- Hiểu biết nhiều hơn.
 Giúp cho GV có cơ hội để:
- Nghiệp vụ sư phạm được nâng cao;
- Có kĩ năng điều hành các hoạt động dạy học;
- Biết cộng tác theo xu hướng tích cực trong giáo dục;
- Biết quan tâm và hỗ trợ cho đồng nghiệp;
- Có cơ hội lãnh đạo trong phạm vị nhà trường và cộng đồng.
 Đối với cha mẹ HS và cộng đồng:
- Có trách nhiệm và tham gia với nhà trường nhiều hơn;
- Hỗ trợ các hoạt động cụ thể của nhà trường;
- Được tiếp nhận, bổ sung tri thức từ nhà trường thông qua HS;
- Có liên quan trực tiếp và tích cực tới các hoạt động của nhà trường.
Như vậy, nội dung dạy học tuy không thay đổi nhưng đưa vào MH dạy
học mới VNEN thì hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học và đánh
giá HS được thay đổi cơ bản để phù hợp với xu thế đổi mới sư phạm chung
của nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới.
1.2. Những vấn đề chung về “Nghĩa của câu”
1.2.1. Khái niệm nghĩa của câu
Trong thời gian gần đây, việc nghiên cứu nghĩa của câu được quan tâm
thích
đáng trong ngôn ngữ học hiện đại, đặc biệt là trong ngữ pháp học chức năng.

Ngôn ngữ được xem là một dạng tín hiệu với hai mặt cái biểu hiện và
cái được biểu hiện. Cái biểu hiện là hình thức của tín hiệu, là hình thức của
các biểu thức ngôn ngữ. Cái được biểu hiện là nghĩa của hình thức tín hiệu,
nghĩa của các biểu thức ngôn ngữ.Trong ngôn ngữ, cái biểu hiện tồn tại ở
nhiều cấp độ khác nhau và ứng với mỗi cấp độ đó ta có một dạng ngữ nghĩa.
Ngữ nghĩa của câu chính là lĩnh vực ngữ nghĩa nghiên cứu nghĩa ở cấp độ câu.
Khi bàn về câu, trong ngữ pháp truyền thống, có hai cách hiểu khác


nhau về đơn vị ngôn ngữ này. Cách hiểu thứ nhất cho rằng câu là loại đơn vị
lớn nhất của ngôn ngữ và là giới hạn cuối cùng của đối tượng ngữ pháp. Với
cách hiểu này, câu thuộc bình diện ngôn ngữ, tách ra khỏi ngữ cảnh. Khi
nghiên cứu câu trong quan điểm này người ta chỉ chú ý đến cấu trúc của câu
chưa chú ý tới nghĩa của câu.
Còn cách hiểu thứ hai cho câu là đơn vị nhỏ nhất có chức năng mang nội
dung thông báo. Cách hiểu này gắn với chức năng, phù hợp với việc xem xét
nghĩa. Hiểu câu theo cách thứ hai, trong ngôn ngữ học truyền thống và hiện
đại, có rất nhiều quan điểm về nghĩa khác nhau:
 Ngữ pháp học truyền thống chịu ảnh hưởng nhiều của logic cho rằng
nghĩa của câu biểu thị 1 phán đoán (như từ biểu thị một khái niệm)
 Ngữ pháp phân đoạn thực tại cho nghĩa của câu là phần báo,
phần thuyết (phân biệt với phần nêu, phần đề)
 Ngữ pháp tạo sinh - cải biến của trường phái N. Chomsky cho nghĩa
của câu là nội dung cấu trúc sâu, cấu trúc chìm của câu phân biệt với cấu trúc
nổi, cấu trúc bề mặt của câu
 Ngữ pháp chức năng, M.A.K. Halliday cho câu phân biệt với cú và cú
thì có 3 nét nghĩa “cú như là 1 thông điệp”, “cú như là một sự trao đổi”, “cú
như là sự thể hiện”. Những kiểu loại nghĩa cụ thể này nằm trong khung hệ
thống nghĩa bao trùm hơn mà Halliday gọi là các siêu chức năng, các nguồn
lực tạo nghĩa của ngôn ngữ. Đó là: (1) siêu chức năng tư tưởng hay biểu ý hay

còn gọi là siêu chức năng phản ánh; (2) siêu chức năng liên nhân; (3) siêu
chức năng ngôn bản. Như vậy cũng có thể hiểu nghĩa của câu, nghĩa của cú
(theo Halliday) bao hàm những phạm vi và kiểu loại vừa dẫn trên. Đó cũng là
cách hiểu nghĩa của câu nói chung, câu không phân biệt với lời.
Nhưng nói đến nghĩa của câu thì không thể không nói đến các thành
phần cấu tạo nghĩa cho câu. Trong ngữ nghĩa học hiện đại, nghĩa của câu


được quan niệm không chỉ được cấu tạo từ thành phần chức năng mà từ thành
tố nghĩa với các tên gọi: vị tố, chủ tố, tham tố, diễn tố... Như vậy việc đi sâu
vào thành tố nghĩa là 1 bước tiến. Nó cụ thể hóa thêm một bước nội dung
nghĩa của thành phần chức năng của câu.
1.2.2. Các thành phần ý nghĩa trong câu
Nghĩa của câu thường được quan niệm gồm hai thành phần cơ bản là
nghĩa sự việc và nghĩa tình thái.
1.2.2.1. Nghĩa sự việc
Nghĩa sự việc hay còn gọi là nghĩa biểu hiện, nghĩa miêu tả, nghĩa mệnh
đề, nghĩa hạt nhân,...
Nghĩa sự việc là thành phần nghĩa của câu phản ánh một sự tình nào đó
của hiện thực. Sự phản ánh này thông qua sự nhận thức của con người, chịu
sự chi phối của kinh nghiệm, hiểu biết và cả sự logic khách quan. Nói cách
khác nghĩa sự việc là thành phần nghĩa ứng với sự việc mà câu đề cập đến.
Sự việc ấy trong thực tế khách quan được câu đề cập qua lăng kính chủ quan
của người nói.Ví dụ:
Bộ quần áo này vừa mới mua xong.
Ví dụ trên thông báo cho người ta biết bộ quần áo này (sự vật trong đời
sống khác quan) vừa mới mua xong (chứ không phải đã mặc lâu rồi hay là
quần áo cũ).
Sự việc trong hiện thực là vô cùng phong phú và đa dạng. Bởi vậy nghĩa
sự việc được biểu hiện trong câu cũng khá đa dạng và phong phú tùy thuộc

vào mục đính phản ánh của người sử dụng. Các yếu tố ngôn ngữ diễn đạt
nghĩa biểu hiện trong câu kết hợp với nhau làm thành cấu trúc biểu hiện. Cấu
trúc ấy là vị tố - tham thế và tham thể - cảnh huống (tham thể mở rộng). Vị tố
(VT) là cái lõi của mệnh đề, đóng vai trò trung tâm của vị ngữ. Tham thể (TT)
là cái thực thể xung quanh vị tố. Mỗi tham thể sẽ đảm nhiệm những vai nghĩa


×