Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

Luận văn thạc sĩ Tổ chức dạy học câu ghép cho học sinh theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 143 trang )

Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

TỔ CHỨC DẠY HỌC CÂU GHÉP CHO HỌC SINH LỚP 5
Ở MỘT SỐ TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẬN KIẾN AN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG THEO ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC TIỂU HỌC
MÃ SỐ: 60.14.01.01

Người hướng dẫn khoa học:

HẢI PHÒNG - 2017


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor

i

To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung luận văn là kết quả nghiên cứu của
bản thân dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo của TS Nguyễn Thị Hiên. Kết quả
nghiên cứu luận văn không trùng với bất kì công trình nào đã công bố trước
đây. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hải Phòng, ngày 20 tháng 4 năm 2017
Tác giả


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor

ii

To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tác giả đã
nhận được sự động viên, giúp đỡ tận tình của các cấp lãnh đạo, nhiều thầy
giáo, cô giáo, các bạn đồng nghiệp và gia đình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS Nguyễn Thị Hiên, người đã
trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo ở Phòng Sau Đại học
Trường Đại học Hải Phòng; các thầy giáo, cô giáo trực tiếp giảng dạy lớp Cao
học Giáo dục Tiểu học khóa 1 – Trường Đại học Hải Phòng đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn Phòng Giáo dục và Đào tạo quận Kiến An, cảm ơn các

thầy giáo, cô giáo và đội ngũ cán bộ quản lý, cùng đông đảo các bạn đồng
nghiệp ở quận Kiến An, thành phố Hải Phòng đã cung cấp tài liệu, tạo mọi
điều kiện thuận lợi về cơ sở thực tế, tổ chức thực nghiệm và đóng góp nhiều ý
kiến quý báu cho luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong nhận được những lời chỉ
dẫn của các thầy giáo, cô giáo; ý kiến đóng góp trao đổi của các bạn đồng
nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hải Phòng, ngày 20 tháng 4 năm 2017
Tác giả


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor

iii

To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

MỤC LỤC
Trang

LỜI CAM ĐOAN . .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN . ................................................................................................... ii
MỤC LỤC . ........................................................................................................ iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT. ............................................................................ v
DANH MỤC BẢNG . ........................................................................................ vi
DANH MỤC BIỂU ĐỒ . ................................................................................... vi

MỞ ĐẦU . ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI . ............. …10
1.1. Một số vấn đề về phát triển năng lực giao tiếp trong dạy học môn Tiếng
Việt ở tiểu học . ................................................................................................. 10
1.1.1. Khái quát chung . .................................................................................... 10
1.1.2. Dạy học tiếng Việt ở tiểu học với việc phát triển năng lực giao tiếp . ... 14
1.2. Câu ghép và việc dạy học về câu ghép trong phân môn Luyện từ và câu
lớp 5 . ............................................................................................................... 221
1.2.1. Khái quát chung về câu ghép . ................................................................ 21
1.2.2. Dạy học về câu ghép trong trong phân môn Luyện từ và câu, chương
trình tiếng Việt tiểu học. ................................................................................... 27
1. 3. Một số vấn đề về đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh lớp 5 . ................ 332
1.3.1. Ngôn ngữ và sự phát triển ngôn ngữ của học sinh lớp 5 . ..................... 32
1.3.2. Sự chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 5 . ....................... 32
1.3.3. Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 5 . .......................... 33
1.3.4. Ý chí và sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 5 . ............................. 33
1.4. Thực trạng dạy học câu ghép tiếng Việt cho học sinh lớp 5. .................... 34
1.4.1. Khái quát chung về khảo sát thực trạng . ................................................ 34
1.4.2. Kết quả khảo sát thực trạng. ................................................................... 35
1.4.5. Nguyên nhân của thực trạng dạy và học câu ghép ở lớp 5 . ................... 43


iv

CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC CÂU GHÉP THEO ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP ......................................... 45
2.1. Nguyên tắc xây dựng biện pháp ................................................................. 45
2.1.1.Dạy học câu ghép phải bám sát mục tiêu, nội dung chương trình dạy học
tiếng Việt ở tiểu học .......................................................................................... 45
2.1.2. Dạy học câu ghép phải đảm bảo phát huy tính tích cực trong hoạt động

giao tiếp của học sinh ........................................................................................ 45
2.1.3. Dạy học câu ghép phải đặt trong ngữ cảnh, gắn với các tình huống giao
tiếp cụ thể .......................................................................................................... 46
2.2.Một số biện pháp tổ chức dạy học câu ghép ............................................... 47
2.2.1. Vận dụng các phương pháp dạy học tiếng Việt đặc thù để tổ chức dạy
học về câu ghép. ................................................................................................ 47
2.2.2. Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập trong dạy học về câu ghép cho
học sinh lớp 5 theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp ........................... 61
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ..................................................... 84
3.1. Mục đích thực nghiệm ............................................................................... 84
3.2. Nội dung thực nghiệm................................................................................ 84
3.3. Đối tượng thực nghiệm .............................................................................. 85
3.4. Tiêu chí đánh giá kết quả thực nghiệm ...................................................... 86
3.4.1. Đánh giá về mặt định lượng .................................................................. 86
3.4.2. Đánh giá về mặt định tính ....................................................................... 86
3.5. Tổ chức thực nghiệm................................................................................. 87
3.6. Phân tích kết quả thực nghiệm ................................................................... 87
3.6.1. Kết quả học tập........................................................................................ 87
3.6.2. Về mức độ rèn luyện kĩ năng .................................................................. 88
3.6.3.Về mặt hứng thú học tập của học sinh ..................................................... 89
3.7. Nhận xét chung .......................................................................................... 92
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 97


v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt


Giải thích

CN

chủ ngữ

ĐC

đối chứng

GV

giáo viên

HS

học sinh

PP

phương pháp

PPDH

phương pháp dạy học

QHT

quan hệ từ


SGK

sách giáo khoa

SGV

sách giáo viên

TN

thực nghiệm

VN

vị ngữ


vi

DANH MỤC BẢNG
Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

1.1

Nội dung chương trình dạy học về câu ghép lớp 5


28

1.2

Kế hoạch dạy học câu ghép lớp 5

30

1.3

Danh sách các trường tiểu học được khảo sát

35

1.4

Khảo sát nhận thức và thực trạng dạy câu ghép của GV

35

1.5

Phương pháp, hình thức, quy trình dạy câu ghép của GV

37

3.1

Mô tả khái quát đối tượng thực nghiệm


85

3.2.

Kết quả kiểm tra sau khi thực nghiệm

87

3.3.

Mức độ hứng thú của HS đối với các bài học TN

90

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

3.1.

So sánh kết quả học tập sau TN của HS lớp TN và lớp ĐC

887

3.2


So sánh mức độ hứng thú của học sinh lớp TN và ĐC

90

biểu đồ


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Dạy học phát triển năng lực trong đó có phát triển năng lực giao
tiếp là một xu hướng của dạy học hiện đại góp phần vào việc thực hiện Nghị
quyết 29 của BCH TW Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng
hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ
năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy
móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực.
Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý
các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Để thực hiện tốt mục
tiêu trên, cần có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy
học (PPDH) theo định hướng phát triển năng lực người học và một số biện
pháp đổi mới PPDH theo hướng này. Trong số 9 năng lực học sinh (HS) cần
có thì năng lực giao tiếp là một trong những năng lực cốt lõi, quan trọng cần
hình thành và phát triển, đặc biệt năng lực giao tiếp cần phải đi trước một
bước so với các năng lực khác, vì nó là tiền đề, là cơ sở cho việc phát triển
các năng lực khác. Đồng thời, đây cũng là một năng lực cốt lõi cần phát triển
ở HS, giúp các em làm chủ bản thân, làm chủ các tình huống đặt ra trong cuộc

sống, giải quyết các vấn đề một cách nhanh nhất bằng con đường tư duy và
ngôn ngữ.
1.2. Như chúng ta đã biết, mục tiêu quan trọng nhất của dạy học tiếng
Việt ở bậc tiểu học là trang bị cho HS cách thức sử dụng tiếng Việt như một
công cụ giao tiếp, hình thành và phát triển các kĩ năng tiếng Việt (nghe, nói,
đọc, viết) cho HS học tập và hoạt động trong các môi trường của HS. Từ đó
bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội


2

chủ nghĩa. Phân môn Luyện từ và câu có nhiệm vụ làm giàu vốn từ và phát
triển năng lực dùng từ, đặt câu cho HS: Dạy nghĩa của từ; hệ thống hóa vốn
từ; tích cực hóa vốn từ; dạy HS biết cách đặt câu, sử dụng các kiểu câu đúng
mẫu phù hợp với hoàn cảnh, mục đích giao tiếp. Trên cơ sở vốn ngôn ngữ
trước khi đến trường, từ những hiện tượng cụ thể của tiếng mẹ đẻ, phân môn
Luyện từ và câu cung cấp cho HS một số kiến thức về từ và câu cơ bản, sơ
giản, cần thiết và vừa sức với các em. Luyện từ và câu còn trang bị cho HS
những hiểu biết về cấu trúc của từ, câu, quy luật hành chức của chúng. Cụ thể
đó là những kiến thức về cấu tạo từ, nghĩa của từ, các lớp, từ loại, các kiến
thức về câu như cấu tạo câu, các kiểu câu, dấu câu, các quy tắc dùng từ đặt
câu và tạo văn bản để sử dụng trong giao tiếp. Từ đó, nó đòi hỏi việc xây
dựng mục tiêu dạy câu ghép theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp
phải thiết thực nhằm rèn luyện và phát triển kỹ năng giao tiếp cho HS Tiểu
học thông qua việc rèn luyện kỹ năng tạo lập câu ghép và sử dụng câu ghép
phù hợp với tình huống giao tiếp, văn hóa giao tiếp của người Việt.
Vậy việc tổ chức dạy học câu đặc biệt là tổ chức dạy học câu ghép nếu
được thực hiện tốt HS sẽ chủ động trong học tập, thấy được sự đa dạng,
phong phú của câu trong giao tiếp và phát huy được năng lực của HS khi sử

dụng; thấy được mục đích của môn Luyện từ và câu. Điều này làm cho môn
học thật sự có ý nghĩa với các em, góp phần trong việc hoàn thành các nhiệm
vụ của phân môn Luyện từ và câu.
1.3. Tuy nhiên, thực tế các tài liệu dạy học hiện nay như Sách giáo khoa
(SGK) của HS, Sách giáo viên (SGV) và các tài liệu tham khảo khác chủ yếu
đưa ra đáp án các bài tập, chưa nêu được cách thức tổ chức dạy học câu ghép
(hình thức tổ chức, hướng tổ chức theo các dạng, các kiểu bài tập,…). Bên
cạnh đó giáo viên (GV) chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc tổ
chức dạy học câu, các bài tập theo hướng phát triển năng lực giao tiếp; chưa
quan tâm đến hình thức tổ chức dạy học câu phù hợp với các dạng, các kiểu
bài tập; việc gắn bài tập với thực tiễn giao tiếp của HS. Điều này khiến việc


3

lựa chọn nội dung, hình thức và PPDH chưa phù hợp, hiệu quả dạy học chưa
cao và chưa nắm vững mục đích dạy cho HS kỹ năng để giao tiếp. Chính vì
vậy việc học tập của HS còn thụ động, chú ý vào đáp án bài tập mà chưa thấy
được mục đích của việc giải bài tập (chưa thấy được lỗi thường mắc; chưa
thấy được tác dụng của từng kiểu câu, sự đa dạng, phong phú của từng kiểu
câu trong giao tiếp,…). Môn học chưa thu hút được sự chú ý của HS, việc học
của các em còn mang tính máy móc, hiệu quả học tập cũng chưa cao nên
không chú trọng đến việc sử dụng câu ghép đúng mục đích giao tiếp.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Tổ chức
dạy học câu ghép cho học sinh lớp 5 ở một số trường tiểu học quận Kiến
An, thành phố Hải Phòng theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp.”
để nghiên cứu. Hy vọng rằng đề tài này sẽ góp phần cụ thể hóa việc vận dụng
các phương pháp (PP), biện pháp và hình thức tổ chức dạy học vào một nội
dung cụ thể về tiếng Việt đó là dạy học về câu ghép nhằm phát huy và phát
triển được năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ cho các em HS lớp 5 mà rộng

hơn là HS tiểu học nói chung.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Những nghiên cứu về giao tiếp ngôn ngữ và dạy học phát triển năng
lực giao tiếp
Như chúng ta đều biết, ngôn ngữ phục vụ con người và xã hội loài
người với nhiều chức năng khác nhau, trong đó chức năng giao tiếp là chức
năng quan trọng nhất, chức năng trung tâm của ngôn ngữ. Ra đời nhằm phục
vụ xã hội, ngôn ngữ giúp con người giao tiếp với nhau qua nhiều không gian
và thời gian. Nhờ ngôn ngữ, con người có thể lưu giữ và truyền đạt cho nhau
những hiểu biết, tư tưởng, những kinh nghiệm sống, lao động, học tập từ thế
hệ này sang thế hệ khác; có thể bộc lộ mọi cảm xúc, tình cảm với nhau; có
xác lập, tổ chức và duy trì các mối quan hệ giữa các thành viên trong xã hội…
Dạy học ngôn ngữ không chỉ là trau dồi, phát triển cho người học năng lực
ngôn ngữ mà quan trọng hơn là giúp họ có được năng lực hoạt động giao tiếp


4

bằng chính ngôn ngữ mà họ được học và sử dụng. Tiếp thu xu hướng dạy học
chung này các nhà ngôn ngữ học cũng có khá nhiều những nghiên cứu về
giao tiếp nhằm hình thành cho HS những kĩ năng sử dụng ngôn ngữ như: Tác
giả Đỗ Hữu Châu, Đỗ Việt Hùng kiến giải: “Giao tiếp là quá trình trao đổi
thông tin (hiểu theo nghĩa rất rộng bao gồm cả tri thức miêu tả, tình cảm, thái
độ, ước muốn, hành động...) giữa ít nhất hai chủ thể giao tiếp (kể cả trường
hợp một người giao tiếp với chính mình) diễn ra trong một ngữ cảnh và tình
huống nhất định, bằng một hệ thống tín hiệu nhất định”. Quan niệm giao tiếp
được tác giả Bùi Minh Toán nêu lên trong công trình nghiên cứu Từ trong
hoạt động giao tiếp: “giao tiếp chính là sự tiếp xúc, giao lưu giữa người và
người trong xã hội, qua đó con người bộc lộ và truyền đạt cho nhau những
nhận thức, tư tưởng và cả những tình cảm, thái độ đối với nhau và đối với

điều được diễn đạt”. Có thể thấy, điểm gặp gỡ giữa các khái niệm giao tiếp
nêu trên chính là ý kiến giải thích về một dạng hoạt động trao đổi thông tin
mà thông qua đó, con người tri nhận về thế giới, hiểu biết lẫn nhau và bộc lộ
chính mình.
Dạy học ngôn ngữ theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp đã trở
thành định hướng trung tâm trong nhà trường phổ thông. Việc dạy học tiếng
Việt theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp cũng được rất nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu. Là một trong số những người đầu tiên đặt nền
móng cho PPDH tiếng Việt ở tiểu học, từ những năm 80, 90 của thế kỉ trước,
các tác giả Phan Thiều, Lê Phương Nga, Lê Hữu Tỉnh đã có những phát biểu
quan trọng về lí luận và ứng dụng quan điểm giao tiếp vào dạy học TV. Trong
các công trình, bài viết như Dạy tiếng Việt là dạy một hoạt động và bằng hoạt
động của tác giả Lê A, Phương pháp dạy học tiếng Việt của các tác giả Lê A,
Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán, Phương pháp dạy học tiếng Việt nhìn
từ tiểu học của các tác giả Hoàng Hòa Bình, Nguyễn Minh Thuyết, Phương
pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học của các tác giả Lê Phương Nga, Đặng Kim
Nga, Về quan điểm giao tiếp trong giảng dạy tiếng Việt của tác giả Bùi Minh


5

Toán, Dạy học Luyện từ và câu ở tiểu học của tác giả Chu Thị Thủy An, vấn
đề dạy học tiếng Việt theo định hướng giao tiếp được đề cập và phân tích khá
đầy đủ. Gắn bó thân thiết với việc dạy học tiếng Việt ở tiểu học theo quan
điểm giao tiếp, các công trình Hoạt động giao tiếp với dạy học tiếng Việt ở
tiểu học của các tác giả Phan Phương Dung, Đặng Kim Nga và Một số vấn đề
dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp ở tiểu học của tác giả Nguyễn Trí
thực sự là những chỉ dẫn cần thiết đối với người nghiên cứu. Bàn về dạy học
ngôn ngữ theo quan điểm giao tiếp không thể không nhắc đến đóng góp của
các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ học nói chung, ngôn ngữ học ứng

dụng nói riêng. Tiêu biểu là công trình nghiên cứu của tác giả Lý Toàn Thắng
về Lí thuyết trật tự từ trong cú pháp; Từ trong hoạt động giao tiếp và Câu
trong hoạt động giao tiếp của tác giả Bùi Minh Toán; Từ vựng học tiếng Việt,
Đại cương ngôn ngữ học của tác giả Đỗ Hữu Châu.
Như vậy đối với riêng tiếng Việt, dạy học phát triển năng lực giao tiếp
bằng tiếng mẹ đẻ cho HS có thể xem như một nguyên tắc, PPDH quan trọng
hàng đầu. Nó chẳng những thể hiện được đúng bản chất của tiếng Việt với tư
cách là một ngôn ngữ mà còn giúp cho chức năng làm công cụ giao tiếp của
tiếng Việt được hiện thực hóa một cách hoàn chỉnh và đầy đủ nhất.
2.2. Một số nghiên cứu về câu ghép và dạy học câu ghép
Về mặt lý luận, một số công trình khoa học của các tác giả khi nghiên
cứu về câu ghép như: tác giả Đỗ Thị Kim Liên [26] đã đề cập đến các khái
niệm về câu đơn, câu ghép; việc phân loại câu ghép: câu ghép có quan hệ từ
liên kết, câu ghép không có quan hệ từ liên kết, tác giả Nguyễn Kim Thản
[40] ở chương II về cách đặt câu ghép đã đề cập về câu ghép có phần rộng
hơn ngoài định nghĩa câu ghép, tác giả còn nêu các quy tắc đặt câu ghép. Tất
cả các tài liệu trên cũng chỉ mới đề cập đến vấn đề lý thuyết về câu ghép chưa
nhắc đến việc dạy câu ghép như thế nào?
Về mặt dạy học câu ghép, có tác giả Nguyễn Quý Thành [42 ] trong chủ
đề hai – Luyện câu cho HS tiểu học theo hướng giao tiếp, tác giả nói đến các


6

định nghĩa giao tiếp, chức năng của giao tiếp, các nhân tố giao tiếp,… tác giả
cũng đã nêu lên các PP luyện câu cho HS Tiểu học theo hướng giao tiếp.
Từ năm 1970, nhiều quốc gia trên thế giới đã xác định mục tiêu của
việc dạy tiếng là dạy trẻ em sử dụng tiếng mẹ đẻ làm công cụ tư duy và giao
tiếp: “sự thành thạo ngôn ngữ”, “biết sử dụng ngôn ngữ”, “khả năng dùng
ngôn ngữ”, “làm chủ ngôn ngữ…”, “công cụ đầu tiên của tự do”, cùng nhiều

cách diễn đạt khác đã chỉ rõ mục tiêu của môn học này. Từ đó, cho thấy, dạy
tiếng theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp là mục tiêu trọng tâm của
việc dạy học tiếng Việt hiện nay.
Ở Việt Nam, cách đây hơn hai mươi năm, dạy tiếng Việt theo định
hướng phát triển năng lực giao tiếp đã được đặt ra và được nhiều nhà nghiên
cứu PPDH tiếng Việt quan tâm cùng đông đảo GV ủng hộ. Từ những năm
1994 - 1995, hàng loạt các cuộc Hội thảo đánh giá chương trình Tiểu học
đang được thực hiện lúc đó như Chương trình cải cách giáo dục, Chương
trình thực nghiệm của công nghệ giáo dục,… cùng với sự xuất hiện của nhiều
giáo trình PPDH tiếng Việt như “Phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học I,
II”, “Dạy ngữ pháp ở tiểu học” của tác giả Lê Phương Nga hay “Phương
pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học I, II” của tác giả Nguyễn Quang Ninh,…
Những thành tựu đó đã đặt cơ sở lý thuyết và tổng kết kinh nghiệm cho các
hoạt động nghiên cứu, biên soạn SGK, đổi mới PPDH tiếng Việt.
Từ năm học 2002 - 2003, Chương trình tiếng Việt tiểu học 2000 được
đưa vào giảng dạy ở bậc tiểu học trên cả nước. Chương trình đã khẳng định:
dạy tiếng Việt ở tiểu học nhằm mục tiêu dạy kỹ năng tiếng Việt và rèn luyện
năng lực sử dụng tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt
động của lứa tuổi. Đồng thời, các tác giả Nguyễn Trí [48], Lê Thị Thanh
Bình, Chu Thị Hà Thanh [10], tác giả Nguyễn Thị Xuân Yến [50] … đã cụ
thể hóa quan điểm dạy học theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp vào
quá trình dạy học ở tiểu học.


7

Như vậy, có thể thấy đã có khá nhiều các công trình, bài viết đề cập đến
vấn đề dạy tiếng Việt cho HS theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp.
Nhưng vấn đề “dạy câu ghép theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp”
chưa được nghiên cứu thành đề tài chuyên sâu và có tính hệ thống. Vì vậy,

vấn đề luận văn đưa ra là một vấn đề mới, cần được nghiên cứu và thực
nghiệm nhằm góp phần cải tiến việc tổ chức dạy và học câu ghép ở lớp 5 theo
định hướng phát triển năng lực giao tiếp một cách thích hợp và hình thành,
rèn luyện năng lực giao tiếp cho HS ở tiểu học nói chung và HS lớp 5 nói
riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu các PP, biện pháp, hình thức tổ chức dạy học câu ghép cho
HS lớp 5 trong phân môn Luyện từ và câu theo hướng phát triển các kĩ năng
giao tiếp của các em nhằm đáp ứng yêu cầu dạy học phát triển năng lực của
giáo dục phổ thông hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ
sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến việc dạy học về câu ghép
cho HS lớp 5 theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp.
- Tìm hiểu thực trạng tổ chức dạy học câu ghép cho HS lớp 5 trong
phân môn Luyện từ và câu hiện nay ở một số trường Tiểu học quận Kiến An,
thành phố Hải Phòng.
- Xác định và đề xuất các biện pháp, hình thức tổ chức dạy học câu
ghép cho HS lớp 5 ở một số trường Tiểu học quận Kiến An, thành phố Hải
Phòng theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp.
- Tổ chức thực nghiệm (TN) sư phạm để kiểm chứng tính khả thi của
các biện pháp, hình thức dạy học mà đề tài đề xuất.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


8

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình tổ chức dạy học câu
ghép trong phân môn Luyện từ và câu cho HS lớp 5.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện thời gian và khả năng nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên
cứu quá trình tổ chức dạy học câu ghép trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5
theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp cho HS ở một số trường Tiểu
học trên địa bàn quận Kiến An, thành phố Hải Phòng, cụ thể là: Trường Tiểu
học Thực hành, Trường Tiểu học Kim Đồng, Trường Tiểu học Lê Hồng
Phong, Trường Tiểu học Quang Trung.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành được nhiệm vụ nghiên cứu và đạt được mục đích đề ra
của đề tài, chúng tôi sử dụng một số PP chính như sau:
5.1. Phương pháp thống kê - phân loại
Phương pháp này được sử dụng để thu thập, hệ thống hóa các tài liệu,
sách báo và các công trình có liên quan đến đề tài nhằm xác lập cơ sở lý luận
ở chương 1và những định hướng cho việc tổ chức các biện pháp dạy học về
câu ghép theo định hướng phát triển năng lực ở chương 2 của luận văn.
5.2. Phương pháp điều tra - khảo sát
Phương pháp này sử dụng các phiếu điều tra để tìm hiểu:
- Thực trạng dạy học câu ghép cho HS lớp 5 ở một số trường tiểu học
quận Kiến An, thành phố Hải Phòng.
- Cách thức áp dụng các PP, biện pháp dạy học Luyện từ và câu nói
chung và dạy học câu ghép nói riêng của các GV lớp 5 ở một số trường tiểu
học quận Kiến An, thành phố Hải Phòng.
- Những thuận lợi, khó khăn của GV và HS ở một số trường tiểu học
quận Kiến An, thành phố Hải Phòng khi dạy và học về câu ghép trong chương
trình hiện hành.


9


5.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Phương pháp này được sử dụng để tiến hành dạy học TN tại bốn trường
Tiểu học của quận Kiến An, thành phố Hải Phòng nhằm kiểm nghiệm và đánh
giá tính khả thi cũng như hiệu quả của các biện pháp tổ chức dạy học về câu
ghép cho HS lớp 5 đã được đề xuất trong luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về lí luận
Thực hiện luận văn này, chúng tôi đã cố gắng tổng hợp và hệ thống hóa
những lý thuyết liên quan và quan điểm giao tiếp trong dạy học câu ghép; xây
dựng quy trình vận dụng các phương pháp dạy học tích cực cùng hệ thống bài
tập dạy học và luyện tập, thực hành về câu ghép theo định hướng phát triển
năng lực giao tiếp với mong muốn góp thêm tiếng nói để khẳng định một
quan điểm tích cực trong dạy học câu ghép – dạy học phát triển năng lực giao
tiếp.
6.2. Về thực tiễn
Qua đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn khơi gợi sự quan tâm của
các GV tiểu học đối với định hướng phát triển năng lực giao tiếp trong dạy
học môn Tiếng Việt nói chung để từ đó có sự tìm tòi, sáng tạo trong PP cũng
như hình thức tổ chức dạy học theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp
góp phần vào thực hiện mục tiêu trong giáo dục tiểu học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo cũng như các Phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Biện pháp tổ chức dạy học câu ghép cho học sinh lớp 5 ở
một số trường tiểu học quận Kiến An, thành phố Hải Phòng theo định hướng
phát triển năng lực giao tiếp
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm



10

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Một số vấn đề về phát triển năng lực giao tiếp trong dạy học môn
Tiếng Việt ở Tiểu học
1.1.1. Khái quát chung
1.1.1.1. Khái niệm năng lực
Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê (chủ biên) thì năng lực có thể
được hiểu theo hai nét nghĩa: (1) Chỉ một khả năng, điều kiện tự nhiên có sẵn
để thực hiện một hoạt động nào đó. (2) Là một phẩm chất tâm sinh lí tạo cho
con người có khả năng để hoàn thành một hoạt động nào đó có chất lượng
cao.
Hiểu theo nét nghĩa thứ nhất, năng lực là một khả năng có thực, được
bộc lộ ra thông qua việc thành thạo một hoặc một số kĩ năng nào đó của
người học. Hiểu theo nét nghĩa thứ hai, năng lực là một cái gì đó sẵn có ở
dạng tiềm năng của người học có thể giúp họ giải quyết những tình huống có
thực trong cuộc sống.
Như vậy, từ hai nét nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu năng lực là một cái
gì đó vừa tồn tại ở dạng tiềm năng vừa là một khả năng được bộc lộ thông qua
quá trình giải quyết những tình huống có thực trong cuộc sống. Khía cạnh
hiện thực của năng lực là cái mà nhà trường phổ thông có thể tổ chức hình
thành và đánh giá học sinh.
Tổ chức OECD (Tổ chức hợp tác Kinh tế và Phát triển) quan niệm
năng lực là khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp
trong một bối cảnh cụ thể. Cùng quan điểm này, F.E. Weinert nêu rõ ba yếu
tố cấu thành năng lực là khả năng, kĩ năng và thái độ sẵn sàng tham gia hoạt
động của cá nhân.Theo ông, năng lực là “tổng hợp các khả năng và kĩ năng
sẵn có hoặc học được cũng như sự sẵn sàng của học sinh nhằm giải quyết
những vấn đề nảy sinh và hành động một cách có trách nhiệm, có sự phê

phán để đi đến giải pháp”[11, tr.49].


11

Theo quan niệm của chương trình giáo dục trung học bang Quebec
(Canada) thì “Năng lực là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến
thức, kĩ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân… nhằm đáp ứng
hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định.”
[11, tr.49]. Với cách hiểu này thì việc HS chỉ có kiến thức, kĩ năng và thái độ
không được xem như là có năng lực mà cả ba yếu tố này phải được người học
vận dụng trong một tình huống nhất định thì mới phát triển thành năng lực.
Có thể nhận thấy mặc dù cách trình bày về khái niệm năng lực có khác
nhau điểm chung cốt lõi của các tài liệu trên là đều hiểu “năng lực” là sự tích
hợp của nhiều thành tố như tri thức, kĩ năng, sự sẵn sàng hoạt động, khả năng
hợp tác, khả năng huy động những nguồn thông tin mới của HS để giải quyết
những vấn đề, tình huống xảy ra trong cuộc sống. Từ đây, chúng ta có thể
nhận định rằng năng lực của HS tiểu học chính là khả năng vận dụng kết hợp
kiến thức, kĩ năng và thái độ để thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập, giải quyết
có hiệu quả những vấn đề có thực trong cuộc sống phù hợp với những đặc
điểm tâm lí của lứa tuổi các em.
1.1.1.2. Năng lực giao tiếp ngôn ngữ
a) Khái niệm
“Năng lực giao tiếp ngôn ngữ” còn được các nhà nghiên cứu gọi là
“năng lực ngôn ngữ” hay “năng lực giao tiếp”. Hymes là người đầu tiên đưa
ra quan niệm tương đối rộng và rõ ràng về thuật ngữ “năng lực giao tiếp”.
Ông cho rằng năng lực giao tiếp không chỉ là năng lực ngữ pháp vốn có mà là
năng lực sử dụng ngôn ngữ trong những tình huống giao tiếp phong phú. Điều
đó có nghĩa là người có năng lực giao tiếp là người biết khi nào nên nói, khi
nào không, nói điều gì, nói với ai, nói ở đâu, nói theo cách nào... [23, tr.4].

Mặc dù năng lực giao tiếp luôn là mục tiêu cơ bản của các chương trình dạy
học ngôn ngữ hiện nay, song nó vẫn chưa được hiểu và lý giải một cách thống
nhất. Widdowson có cùng quan điểm với Hymes về năng lực giao tiếp. Theo
ông, “năng lực giao tiếp của người nói bao gồm cả sự hiểu biết về những quy


12

tắc mà tạo cho người nói có khả năng sử dụng chúng một cách phù hợp để
thực hiện những hành vi tu từ phong cách trong những tình huống giao tiếp xã
hội nhất định. Do những quy tắc sử dụng này mang đặc trưng văn hóa và
không thể thụ đắc một cách tự nhiên, nên chúng cần được mô tả cặn kẽ và dạy
cẩn thận” [23, tr.4], khái niệm “năng lực giao tiếp” phải bao hàm khái niệm
“năng lực ngữ pháp”. Nếu không đưa khái niệm “năng lực ngữ pháp” vào
khái niệm “năng lực giao tiếp” thì rất dễ làm cho người ta đi đến kết luận
rằng: Năng lực ngữ pháp và năng lực giao tiếp là hai loại năng lực phát triển
độc lập với nhau và thường ưu tiên phát triển năng lực ngữ pháp trước; hay
năng lực ngữ pháp không phải là một thành tố cơ bản của năng lực giao
tiếp"[23, tr.4].
Như vậy có thể định nghĩa như sau về năng lực giao tiếp: Năng lực
giao tiếp là khả năng vận dụng kiến thức, kinh nghiệm, thái độ, tình cảm liên
quan đến giao tiếp, đảm bảo hoạt động giao tiếp thu được hiệu quả.
b) Các thành tố của năng lực giao tiếp
Có nhiều quan điểm xung quanh vấn đề các thành tố của năng lực giao
tiếp. Một số nhà ngôn ngữ học thế giới cho rằng năng lực giao tiếp gồm có
năm khía cạnh: năng lực ngôn ngữ, năng lực diễn ngôn, năng lực hành động
lời nói, năng lực văn hóa xã hội, năng lực chiến lược.
Năng lực ngôn ngữ chính là các kiến thức về hệ thống ngôn ngữ (ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp, chính tả, từ ngữ, câu văn, đoạn văn, văn bản..), nó
chính là cơ sở để chúng ta thực hiện giao tiếp. Năng lực ngôn ngữ rất quan

trọng trong cách tiếp cận giao tiếp, hướng tới mục đích đạt được trình độ hiểu
và sử dụng chính xác các diễn đạt ngôn ngữ.
Năng lực diễn ngôn là khả năng sắp xếp, tổ chức từ ngữ cấu trúc có
tính liên kết và mạch lạc các ý tưởng một cách lôgic và thống nhất. Năng lực
diễn ngôn đặt ra những câu hỏi như: các từ, ngữ và câu kết hợp lại với nhau
như thế nào để tạo thành hội thoại, bài diễn thuyết, bức thư v v...


13

Năng lực hành động lời nói là khả năng biểu đạt các ý định bằng hình
thái ngôn ngữ thích hợp dựa trên kiến thức và kĩ năng về ngôn ngữ phù hợp
với các ngữ cảnh giao tiếp. Năng lực này đòi hỏi cần phải có khả năng diễn
đạt suy nghĩ, tình cảm của mình để tạo ra lời nói.
Năng lực văn hóa - xã hội là khả năng biểu đạt hành động lời nói một
cách phù hợp trong bối cảnh văn hóa - xã hội. Nó cũng là tri thức cần thiết
giúp cho việc sử dụng ngôn ngữ một cách phù hợp với khung cảnh, chủ đề và
các mối quan hệ xã hội. Năng lực văn hóa - xã hội đặt ra những câu hỏi như:
những từ ngữ nào phù hợp với cảnh huống giao tiếp và chủ đề này? Cần phải
diễn đạt một thái độ cụ thể (lịch sự, thân thiện, tôn trọng...) như thế nào khi
cần thiết? Làm sao biết được người đối thoại đang có thái độ như thế nào? v
v... Và cuối cùng, năng lực chiến lược thể hiện khả năng đàm phán về mặt
ngữ nghĩa, khả năng sử dụng các chiến lược giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn
ngữ để nhận diện và giải quyết những sự đụng độ giao tiếp, để lấp đầy những
khoảng trống tri thức về ngôn ngữ trong tình huống. Năng lực chiến lược đặt
ra những câu hỏi như: Làm thế nào để biết lời nói của mình đã bị hiểu sai và
khi đó cần phải nói gì? Cần phải làm gì để diễn đạt ý tưởng của mình nếu
không biết từ ngữ cụ thể dùng để diễn đạt nó là gì?...
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cho rằng việc phân chia các năng lực
thành tố trên của năng lực giao tiếp là quá phức tạp, khó triển khai trong dạy

học. Hơn nữa, cái gọi là “năng lực hành động lời nói” thực ra lại không đầy
đủ trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Trong giao tiếp, ngoài hành
động “biểu đạt các ý định bằng hình thái ngôn ngữ thích hợp dựa trên kiến
thức và kĩ năng về ngôn ngữ phù hợp với các ngữ cảnh giao tiếp” (tạo lập lời
nói) còn phải bao gồm hành động nghe và đọc (tiếp nhận lời nói). Còn năng
lực “chiến lược” thì chỉ cần thiết ở giai đoạn đầu khi chưa nắm vững ngôn
ngữ đối với người học ngoại ngữ hoặc học ngoại ngữ thứ hai (ví dụ người dân
tộc ít người học tiếng Việt). Bởi vậy, các nhà nghiên cứu về cơ bản đã thống
nhất quan niệm năng lực giao tiếp bao gồm: Năng lực ngôn ngữ (tương đương


14

với năng lực ngôn ngữ và năng lực diễn ngôn trình bày trên đây) năng lực
hoạt động lời nói (đọc, nghe, nói, viết) phù hợp với ngữ cảnh, đạt hiệu quả và
năng lực văn hóa xã hội.
1.1.2. Dạy học tiếng Việt ở tiểu học với việc phát triển năng lực giao tiếp
1.1.2.1. Vị trí, vai trò của môn Tiếng Việt ở trường tiểu học
“Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người”
(V.I. Lênin), “Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng” (C. Mác). Ngôn
ngữ là phương tiện biểu hiện tâm trạng, tình cảm. Chức năng quan trọng của
ngôn ngữ đã quy định sự cần thiết phải nghiên cứu sâu sắc về tiếng mẹ đẻ và
dạy học tiếng mẹ đẻ trong nhà trường. “Trẻ em đi vào trong đời sống tinh
thần của mọi người xung quanh nó, duy nhất thông qua phương tiện tiếng mẹ
đẻ và ngược lại, thế giới bao quanh đứa trẻ được phản ánh trong nó chỉ thông
qua chính công cụ này” (K.A.Usinxki). Tiếng mẹ đẻ đóng vai trò to lớn trong
việc hình thành những phẩm chất quan trọng nhất của con người và trong việc
thực hiện những nhiệm vụ của hệ thống giáo dục quốc dân. Nắm ngôn ngữ,
lời nói là điều kiện thiết yếu của việc hình thành tính tích cực xã hội của nhân
cách. Không có một khoa học nào mà người học sẽ nghiên cứu trong tương

lai, không có một phạm vi hoạt động xã hội nào mà không đòi hỏi một sự
hiểu biết sâu sắc về tiếng mẹ đẻ. Trình độ trau dồi ngôn ngữ của một người
nào đó là tấm gương phản chiếu trình độ nuôi dưỡng của tâm hồn anh ta.
Chính vì vậy, tiếng mẹ đẻ là môn học trung tâm ở trường tiểu học.
Đặc trưng cơ bản của tiếng mẹ đẻ với tư cách là một môn học ở trường
phổ thông là ở chỗ nó vừa là đối tượng nghiên cứu vừa là công cụ để học tập
tất cả các môn học khác. Kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là điều kiện và phương
tiện cần thiết của lao động học tập của học sinh. Nói cách khác trẻ em muốn
nắm kĩ năng học tập, trước hết cần nghiên cứu tiếng mẹ đẻ của mình, chìa
khóa của nhận thức, của học vấn, của sự phát triển trí tuệ đúng đắn. Thiếu
ngôn ngữ, con người không thể tham gia vào cuộc sống xã hội hiện đại, vào
sự phát triển, văn hóa nghệ thuật.


15

Như vậy sở dĩ môn Tiếng Việt giữ vai trò đặc biệt giữa các môn học
khác trong trường học là vì, một mặt do ý nghĩa của nhưng kiến thức phổ
thông mà môn học này đưa lại cho HS – về ngôn ngữ như là một phương tiện
thông báo, về những đặc điểm của tiếng mẹ đẻ - hệ thống âm thanh, cấu tạo
từ, cấu trúc ngữ pháp, khả năng biểu cảm của ngôn ngữ... Mặt khác, những kĩ
năng, kĩ xảo mà nó hình thành trong giờ học của tiếng mẹ đẻ là những kĩ năng
cần thiết trong cuộc sống của người HS, không phụ thuộc vào nghề nghiệp
tương lai của họ.
Ở tiểu học, hầu như các nước đều coi trọng việc dạy học tiếng mẹ đẻ
và dành cho nó vị trí ưu tiên xứng đáng. “Có thể nhận thấy điều này qua tỉ lệ
số giờ học cho tiếng mẹ đẻ (tổng số tiết học tiếng mẹ đẻ trong tuần của cả cấp
học và tổng số tiết học của cả tuần, của cả cấp học) như ở Pháp: 45 /135 tiết
trong 5 lớp (33%); Cộng hòa dân chủ Đức: 33,5/72 tiết trong 3 lớp (46%);
Nhật Bản: 44 tiết / 163 tiết trong 6 lớp (27%); Liên Xô (cũ): 38/93 tiết trong 4

lớp (40%) và ở Việt Nam: Chương trình Cải cách giáo dục (ban hành từ năm
1981) là 49 tiết / 140 tiết trong 5 lớp (39%), chương trình 2000: 46/118 tiết
(39%). Như vậy, Tiếng Việt thể hiện rõ tư cách là một môn học chính ở
trường tiểu học nước ta” [33,tr 31 – 32].
1.1.2.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của dạy học tiếng Việt ở trường tiểu học
Vấn đề mục tiêu dạy – học tiếng mẹ đẻ là vấn đề được bàn cãi nhiều, kể
cả ở những nước mà tiếng mẹ đẻ đã có vị trí xứng đáng trong nhà trường phổ
thông từ rất lâu như Đức, Liên Xô cũ. Có xác định được dạy để làm gì mới
xác định nội dung dạy cái gì. Xác định mục tiêu sai thì dạy học sẽ không có
kết quả. Khi bàn về mục tiêu môn học người ta thường nêu ba mặt: Giáo
dưỡng (mặt nhận thức là xác định những kiến thức, kĩ năng , kĩ xảo mà môn
học trang bị), phát triển (phát triển tư duy) và giáo dục (tư tưởng tình cảm).
Ba mặt này gắn bó với nhau. Nói đến mục tiêu đặc thù của môn học Tiếng
Việt, trước đây người ta thường nói đến vấn đề thứ nhất là học để nắm kiến
thức tiếng Việt (cấu tạo tiếng Việt, hệ thống tiếng Việt gồm các kiểu đơn vị


16

và quan hệ giữa chúng), thứ hai là học để giao tiếp – giao tiếp bằng bản ngữ.
Chương trình tiếng Việt cải cách giáo dục xác định mục tiêu là cung cấp cho
HS những kiến thức cơ bản, hiện đại về tiếng Việt, trên cơ sở đó hình thành
cho HS kĩ năng hoạt động lời nói bằng tiếng Việt. Quyết định số 16/2006/QĐ BGDĐT ngày 5 tháng 5 năm 2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã khẳng định
môn Tiếng Việt cấp tiểu học có những mục tiêu cụ thể sau:
“Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt
(nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động
của lứa tuổi.
Thông qua việc dạy học tiếng Việt, góp phần luyện các thao tác tư duy.
Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt, về tự
nhiên, xã hội và con người, về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài.

Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa cho học sinh”.
“Chương trình tiếng Việt tiểu học mới đưa mục tiêu giao tiếp bằng
tiếng Việt - hình thành kĩ năng nghe, nói, đọc, viết lên hàng ưu tiên. Những
kiến thức về tiếng Việt cùng với các kiến thức về xã hội, tự nhiên và con
người, văn hóa, văn học cũng được cung cấp cho học sinh một cách sơ giản.
Trong chương trình mới, hoạt động giao tiếp vừa là mục đích số một vừa là
phương tiện dạy học tiếng Việt. Chú trọng hơn đến kĩ năng sử dụng tiếng
Việt.”
“Mục đích của việc dạy học tiếng Việt ở cấp tiểu học là hình thành và
phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (bao gồm cả bốn kỹ
năng: nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt
động lứa tuổi của các em.”
Như vậy, phát triển các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt hay nói
rộng hơn là phát triển năng lực giao tiếp bằng tiếng Việt – tiếng mẹ đẻ cho


17

học sinh người Việt là mục tiêu cơ bản và quan trọng hàng đầu của môn
Tiếng Việt ở bậc tiểu học, trong đó có phân môn Luyện từ và câu.
1.1.2.3. Nội dung dạy học phát triển năng lực giao tiếp trong chương trình
tiếng Việt tiểu học
Con người giao tiếp với nhau bằng công cụ quan trọng nhất là ngôn
ngữ. Vì thế, việc dạy tiếng thông qua hoạt động giao tiếp là một trong những
nguyên tắc chủ đạo của việc xây dựng chương trình môn học ở cấp tiểu học.
Đây là xu hướng phố biến trong dạy học ở các nước tiên tiến hiện nay. Khác
với xu hướng dạy học theo cấu trúc, xu hướng này có tác dụng rõ rệt trong
việc hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Dạy tiếng

Việt theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp giúp thực hiện một cách
nhanh nhất, vững chắc nhất mục tiêu của chương trình tiếng Việt ở tiểu học là
"Hình thành và phát triển ở học sinh kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói,
đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa
tuổi”[12].
Việc thay tên gọi hai phân môn "Từ ngữ", "Ngữ pháp" của chương
trình cũ bằng "Luyện từ và câu" ở chương trình tiếng Việt mới không chỉ đơn
thuần là việc đổi tên mà là sự phản ánh yêu cầu phát triển năng lực giao tiếp
trong dạy học Luyện từ và câu của chương trình tiếng Việt mới: dạy học tiếng
Việt là dạy thực hành sử dụng ngôn ngữ (HS biết dùng từ đặt câu và sử dụng
các kiểu câu vào giao tiếp một cách có hiệu quả).
Quan điểm phát triển năng lực giao tiếp chi phối nội dung chương
trình, PP và hình thức dạy học môn Tiếng Việt nói chung cũng như phân môn
Luyện từ và câu nói riêng. Cụ thể là:
* Chi phối về nội dung dạy học
“Dạy học tiếng Việt theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp cần
đáp ứng yêu cầu cung cấp kiến thức về ngôn ngữ và rèn luyện các kĩ năng, sử
dụng ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp” [19, tr 6].


18

Cách làm là xuất phát từ hệ thống kĩ năng để chọn kiến thức. Trục cơ
bản của chương trình là 4 kĩ năng đọc, nghe, nói, viết. Các kiến thức lí thuyết
được lựa chọn nhằm phục vụ cho việc hình thành và phát triển các kĩ năng đó
của học sinh. Kiến thức về tiếng Việt cung cấp cho HS ở dạng sơ giản nhưng
cần đảm bảo tính hiện đại. Các khái niệm lí thuyết được biến thành các quy
tắc chỉ dẫn HS hành động. Có như vậy quá trình chuyển hóa từ kiến thức
thành kĩ năng hoạt động lời nói của HS mới diễn ra dễ dàng; quá trình hình
thành kĩ năng và tiếp thu kiến thức mới đi đôi với nhau giúp HS hình thành

được năng lực giao tiếp.
Việc dạy HS tiểu học giao tiếp bằng tiếng Việt luôn hướng tới hai mục
đích:
Một là giúp HS hiểu được lời nói, bài viết có sẵn, diễn đạt bằng lời và
bằng chữ ý nghĩ của mình theo một yêu cầu đặt ra trước.
Hai là giúp HS tự hiểu được lời nói, bài viết trong hoàn cảnh giao tiếp
bằng ngôn ngữ (ngữ cảnh) tự nhiên và giúp các em tự diễn đạt bằng lời và
bằng chữ ý nghĩ của mình theo một yêu cầu đặt ra trước.
Ngữ liệu đưa vào giờ Luyện từ và câu đặc biệt là câu ghép phải là
những ngữ liệu sinh động, chân thực, thường được sử dụng trong hoạt động
giao tiếp thường ngày, phù hợp với hoạt động giao tiếp ở lứa tuổi tiểu học.
Không sử dụng những ngữ liệu khô cứng, rập khuôn, xa đời sống thực của
HS.
Ngữ liệu để dạy tiếng Việt không chỉ là những bài có sẵn trong tài liệu
học tập (SGK, vở bài tập, ...) mà còn bao gồm những lời nói, bài nói, bài viết
do HS tạo ra. Nghĩa là HS không chỉ học đọc, học viết, học nói, học nghe trên
các tài liệu học tập do nhà trường cung cấp mà còn thực hành các kĩ năng trên
trong khi các em giao tiếp ở nhà, ở trường. Thông qua các nội dung phong
phú của những ngữ liệu dạy giao tiếp bằng tiếng Việt sẽ giúp HS ngoài việc
đọc, viết, nghe, nói thông thạo, còn tích lũy được các tri thức thiết thực,
không bỡ ngỡ với thực tiễn cuộc sống.


×