Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn hóa học 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.11 KB, 36 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THCS&THPT THỐNG NHẤT

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“MỘT SỐ BIỆN PHÁP SƯ PHẠM
GIÚP HỌC SINH YẾU KÉM TIẾN BỘ
TRONG MÔN HOÁ HỌC LỚP 10”

Người thực hiện: Trần Thị Lan
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Hoá học

THANH HOÁ, NĂM 2017


MỤC LỤC
TIÊU ĐỀ
1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.1. Quan điểm của dạy học phân hoá
2.1.2. Quan điểm dạy học tích cực, một số phương pháp và kĩ thuật dạy
học tích cực
2.1.3. Quan điểm về kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG


KIẾN KINH NGHIỆM
2.3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP SƯ PHẠM GIÚP HỌC SINH YẾU KÉM
TIẾN BỘ TRONG MÔN HOÁ HỌC LỚP 10.
2.3.1. NHỮNG BIỆN PHÁP CHUNG
2.3.1.1. Tìm hiểu HS nhằm phân loại đối tượng HS yếu kém môn hoá
2.3.1.2. Xây dựng môi trường học tập thân thiện, cởi mở
2.3.1.3. Giáo dục ý thức học tập
2.3.2. NHỮNG BIỆN PHÁP CỤ THỂ
2.3.2.1. Những biện pháp giúp đỡ các đối tượng HS
2.3.2.2. Đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy học
2.3.2.3. Đổi mới việc kiểm tra đánh giá học sinh
2.3.2.4. Hướng dẫn cho học sinh phương pháp học tập trên lớp và tự học
ở nhà.
2.3.3. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
2.3.3.1. Chọn lớp thực nghiệm
2.3.3.2. Tiến hành thực nghiệm
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.4.1. Đánh giá định tính
2.4.2. Đánh giá định lượng
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN
3.2. KIẾN NGHỊ

Trang
1
1
2
2
2
2

2
2
3
3
4
4
4
5
7
7
7
8
11
14
15
15
16
16
18
18
19
19
19
20


1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Có thể nói chất lượng giáo dục nước ta đang là một vấn đề mang tính thời sự.
Hiện tượng học sinh “ngồi nhầm lớp”, tỷ lệ học sinh yếu kém ở các trường THPT

không phải là ít, trong đó phải kể đến tỷ lệ học sinh yếu kém môn Hoá học. Trong
khi đó, môn Hoá học có vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong giáo dục
phổ thông. Ngoài mục đích trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản, bao
gồm các kiến thức về cấu tạo chất, phân loại chất và tính chất của chúng còn rèn
cho các em các kỹ năng quan sát, tổng hợp, phân tích đánh giá, suy luận; kỹ năng
vận dụng kiến thức vào bài tập, kỹ năng tính toán. Học tốt môn hoá học giúp các
em giải thích được các hiện tượng trong cuộc sống. Việc nắm vững kiến thức cơ
bản góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc phổ thông, chuẩn bị cho học sinh
tham gia các hoạt động sản xuất và hoạt động sau này.
Mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, tất nhiên sẽ có sự khác nhau về năng
lực học tập. Có học sinh tiếp thu bài học nhanh, nhưng cũng có những em tiếp thu
bài rất chậm, thậm chí là không tiếp thu được gì thông qua các hoạt động trên lớp.
Đặc biệt, khái niệm hoá học luôn trừu tượng, khó hiểu ... hệ thống lí thuyết nhiều
mang tính lôgic rất cao. Nội dung phần bài học sau các em muốn hiểu được cần
phải nhớ, hiểu, vận dụng lại kiến thức đã học ở phần trước, lớp trước. Nếu học sinh
đã rỗng kiến thức cơ bản thì việc tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn, thiếu hụt
dẫn đến ghi nhớ máy móc không hiểu bản chất nên chán học và học yếu, kém bộ
môn.
Hiện nay việc dạy học môn Hoá học ở trường THPT nói chung và trường
THCS &THPT Thống Nhất nói riêng tuy đã áp dụng nhiều phương pháp dạy học
tích cực, song việc phân loại để cung cấp “những lỗ hổng kiến thức” cho các em
học sinh yếu kém vẫn chưa được thực hiện một cách thường xuyên, GV chưa có
biện pháp tác động đến tình cảm, chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh.
Được tiếp xúc hàng ngày với các em, đó là điều kiện thuận lợi giúp tôi tìm
hiểu rõ về đặc điểm tâm lí của lứa tuổi và đề ra các biện pháp giáo dục thích hợp
nhằm giúp những học sinh yếu kém có thể nắm được bài học và hoà nhập vào hoạt
động học trên lớp cùng các bạn.
Lớp 10 là lớp đầu cấp THPT nên việc lấp “lỗ hổng” kiến thức môn Hoá học để
các em có một nền tảng kiến thức vững chắc là cần thiết, tạo điều kiện cho các em
học tập tiếp lên các lớp trên và có được sự tự tin trong cuộc sống. Do đó, giáo viên

cần có biện pháp dạy học phù hợp giúp các em nắm chắc kiến thức cơ bản, có kĩ
năng làm bài tập, tích cực, hứng thú trong giờ học, từ đó thoát khỏi tình trạng yếu
kém môn Hoá học. Khi học tốt hơn môn hoá học thì việc định hướng nghề nghiệp
tương lai cho các em sẽ rộng mở hơn, các em sẽ lựa chọn được các trường đại học,
cao đẳng khối A, khối B để thi, hoặc các trường cao đẳng, trung cấp nghề phù hợp
với sở thích năng lực của mình.


Từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp sư phạm giúp học
sinh yếu kém tiến bộ trong môn Hoá học lớp 10”
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Qua đề tài này, tôi mong muốn tìm ra nguyên nhân học sinh học yếu kém
môn Hoá học, từ đó có những biện pháp giúp các em yêu thích, hứng thú hơn đối
với môn học này cũng như các môn học khác. Tạo cho các em học sinh yếu kém có
ý chí vượt qua khó khăn, rèn luyện tính kiên trì, cẩn thận và tự tin vươn lên trong
học tập.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề dạy
đối tượng HS yếu kém môn Hoá học.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn Hoá học
lớp 10.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Nghiên cứu lý luận dạy học.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1.1. Quan điểm của dạy học phân hoá.

Dạy học phân hoá là cách thức dạy học đòi hỏi phải tổ chức, tiến hành các
hoạt động dạy học dựa trên những khác biệt của người học về năng lực, nhu cầu
nhận thức, các điều kiện nhận thức, nhằm tạo ra những kết quả học tập và sự phát
triển tốt nhất cho từng người học, đảm bảo công bằng giáo dục, tức là đảm bảo
quyền bình đẳng về cơ hội học tập cho người học
Những cấp độ và hình thức dạy học phân hoá:
Dạy học phân hoá ở cấp độ vĩ mô: là tìm kiếm các phương pháp, kĩ thuật dạy
học để mỗi học sinh nhóm học sinh, với nhịp độ học tập khác nhau trong giờ
học đều đạt kết quả mong muốn.
Dạy học phân hoá ở cấp độ vi mô bao gồm dạy học phân hoá nội tại và dạy
học phân hoá về tổ chức.


Dạy học phân hoá ở cấp độ vĩ mô là sự tổ chức quá trình dạy học thông qua
cách tổ chức các loại trường lớp khác nhau cho các đối tượng học sinh khác nhau,
xây dựng các chương trình giáo dục khác nhau.
Một số hình thức dạy học phân hoá ở cấp độ vĩ mô: Phân ban, dạy tự chọn,
phân ban kết hợp với dạy học tự chọn, phân luồng. [8]
2.1.2. Quan điểm dạy học tích cực, một số phương pháp và kĩ thuật dạy học
tích cực.
Thuật ngữ “Phương pháp dạy hoc tích cực” được dùng để chỉ những phương
pháp giáo dục, dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người
học .
Trong dạy học tích cực hoạt động học tập được thực hiện trên cơ sở hợp tác và
giao tiếp ở mức độ cao. Phương pháp dạy học tích cực đem lại cho người học hứng
thú niềm vui trong học tập, nó phù hợp với đặc tính ưa thích hoạt động của trẻ em.
Việc học đối với học sinh khi đã trở thành niềm hạnh phúc sẽ giúp các em tự khẳng
định mình và nuôi dưỡng lòng khát khao sáng tạo. [1, trang 22]
Dạy và học tích cực tập trung trọng tâm vào hoạt động học, tạo ra sự chuyển
biến từ học tập thụ động sang học tập chủ động, phát huy khả năng tự học ngay từ

những lớp nhỏ ở trường phổ thông, tự học không chỉ trong giờ lên lớp dưới sự
hướng dẫn của giáo viên mà cả ở nhà, trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp,
không có sự hướng dẫn của giáo viên. [1, trang 23]
Một số phương pháp dạy học tích cực: Dạy học đặt và giải quyết vấn đề,dạy
học hợp tác (dạy học theo nhóm hoặc thảo luận nhóm), học theo hợp đồng, học
theo góc, học theo dự án, dạy học vĩ mô…
Một số kĩ thuật dạy học tích cực: kĩ thuật đặt câu hỏi, Kĩ thuật khăn phủ bàn, kĩ
thuật mãnh ghép, sơ đồ tư duy, kĩ thuât “KWL”, kĩ thuật hơp tác, kĩ thuật lắng nghe
và phản hồi tích cực…[1]
2.1.3. Quan điểm về kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Khi đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, sẽ đặt ra yêu cầu khách quan phải
đổi mới kiểm tra, đánh giá, bảo đảm đồng bộ cho quá trình hướng tới nâng cao chất
lượng dạy học. Khi đổi mới kiểm tra, đánh giá bảo đảm yêu cầu khách quan, chính
xác, công bằng sẽ tạo tiền đề xây dựng môi trường sư phạm thân thiện, tạo động
lực mới thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới công tác quản lí.
Kiểm tra, đánh giá có vai trò rất to lớn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo.
Kết quả của kiểm tra, đánh giá là cơ sở điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học và
quản lí giáo dục. Kiểm tra đánh giá đúng thực tế, chính xác và khách quan sẽ giúp
người học tự tin, hăng say, nâng cao năng lực sáng tạo trong học tập.
Đổi mới kiểm tra đánh giá chỉ có hiệu quả khi kết hợp đánh giá của GV với tự
đánh giá của HS. Sau mỗi kỳ kiểm tra, giáo viên cần bố trí thời gian trả bài, hướng


dẫn HS tự đánh giá kết quả bài làm, tự cho điểm bài làm của mình, nhận xét mức
độ chính xác trong chấm bài của GV. Trong quá trình dạy học và khi tiến hành kiểm
tra, đánh giá GV phải biết “ khai thác lỗi” để giúp HS tự nhận rõ sai sót nhằm rèn
luyện phương pháp học tập, phương pháp tư duy. [2].
Để có được một đề kiểm tra phù hợp thì GV phải nắm vững các quy trình ra
một đề kiểm tra.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

KINH NGHIỆM.
Học sinh Trường THCS &THPT Thống Nhất chủ yếu có hộ khẩu thường trú ở
4 huyện: Yên Định, Ngọc Lặc, Thọ Xuân, Cẩm Thuỷ. Đa số các em phải đi học xa,
hoàn cảnh kinh tế lại khó khăn, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập.
Đặc biệt chất lượng đầu vào rất thấp đã gây không ít khó khăn cho việc dạy học nói
chung và dạy học môn Hoá học nói riêng.
Sự thay đổi về môi trường học tập từ THCS lên THPT ảnh hưởng không nhỏ
tới việc tiếp thu kiến thức, đặc biệt đối với các HS yếu kém. Bởi thầy cô và bạn bè
mới khiến cho những em HS yếu kém vốn đã thiếu tự tin trong học tập càng trở nên
xa lạ với những bài học mới.
Khi dạy môn hoá học ở lớp 10 tôi nhận thấy vẫn còn tồn tại phổ biến tình trạng
HS nắm kiến thức cơ bản môn Hoá học ở lớp dưới còn mơ hồ thậm chí không nhớ
hoá trị, không nhớ kí hiệu nguyên tố, không biết phân loại chất, tính chất hoá học
của các chất, không nhớ các công thức biến đổi và không biết sử dụng các công
thức đó khi nào … Chính vì thế việc tiếp thu kiến thức mới của các em gặp rất
nhiều khó khăn. Một số em chán nản không muốn học vì thấy môn học quá khó, số
khác tích cực hơn thì ghi chép bài đầy đủ, chú ý nghe giảng thì có thể vẫn tiếp thu
kiến thức được ở chương I (Nguyên tử), chương II (Bảng tuần hoàn), chương III
( Liên kết hoá học), từ chương tiếp theo của hoá học lớp 10 các em không thể theo
kịp yêu cầu chung của bài học…Nhiều em điều kiện học tập thiếu thốn, thiếu:
SGK, sách bài tập, máy tính bỏ túi, vở nháp … nên ngại học hoặc muốn học nhưng
do điều kiện thiếu thốn đã cản trở việc học tập của các em. Một số em có tâm lí
trông chờ, lười suy nghĩ, ngại làm dù là những bài tập vận dụng tương tự chỉ thay
số liệu nên khi bắt tay vào làm thì lóng ngóng, kĩ năng tính toán chậm…
Trong một lớp có sự chênh lệch khá lớn về lực học giữa những em khá giỏi và
những em yếu kém. Điều này càng làm cho những HS yếu kém thiếu tự tin thường
không dám trình bày ý kiến cá nhân, cũng như không dám nêu thắc mắc của mình
trước những vấn đề của bài học.
2.3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP SƯ PHẠM GIÚP HỌC SINH YẾU KÉM TIẾN
BỘ TRONG MÔN HOÁ HỌC LỚP 10.

2.3.1. NHỮNG BIỆN PHÁP CHUNG


2.3.1.1. Tìm hiểu HS nhằm phân loại đối tượng HS yếu kém môn hoá.
Muốn đánh giá đúng đối tượng để từ đó có phương pháp dạy phù hợp và có
những biện pháp cụ thể với từng đối tượng HS yếu kém thì GV cần nắm được đặc
điểm HS yếu kém môn hoá học. GV có thể tìm hiểu thông qua học bạ THCS, qua
GV chủ nhiệm và nắm đối tượng ngay ở những tiết học đầu tiên, tìm hiểu nguyên
nhân và đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp.
* Đặc điểm của học sinh yếu kém môn hoá học.
Học sinh yếu kém môn hoá học là những học sinh có kết quả học tập thường
xuyên ở mức độ thấp, điểm kiểm tra thường xuyên dưới trung bình. Sự yếu kém
của học sinh trong quá trình học tập được thể hiện như sau:
- Các em không thể bắt kịp chương trình học hiện tại, không có khả năng tự
làm bài tập về nhà.
- Học sinh lĩnh hội kiến thức chậm, nắm khái niệm, tính chất học các
chất còn hời hợt, hay nhầm lẫn khái niệm này với khái niệm khác, tính chất hoá
học của chất này với tính chất hoá học của chất khác. Không biết vận dụng lí
thuyết vào giải quyết các bài toán cụ thể.
- Sau nhiều lần gặp khó khăn khi tiếp thu bài và làm bài tập, hứng thú học tập
đối với môn học giảm sút nghiêm trọng, khiến các em mất tự tin và rơi vào trạng
thái căng thẳng trong các giờ học.
- Học sinh không chịu suy nghĩ, không có hứng thú tham gia vào các hoạt
động học tập, hoạt động giao lưu giữa thầy và trò, thái độ học tập còn thụ động.
- Ít có cơ hội tham gia vào các hoạt động học tập trong lớp. Tính tình thì nhút
nhát, rụt rè không ít khi phát biểu ý kiến xây dựng bài.
- Ở HS có sức học yếu kém hoặc thiếu khả năng học tập thì vốn kiến thức
thường nghèo nàn và có thể chưa nắm được các kiến thức, kĩ năng một cách vững
chắc và sâu sắc như các bạn khác cùng lớp.
Sự yếu kém môn hoá học được biểu hiện ở nhiều hình nhiều vẻ nhưng nhìn

chung HS yếu kém môn hoá học thường có các đặc điểm sau:
- Có nhiều “lỗ hổng” về kiến thức, kĩ năng.
- Tiếp thu kiến thức chậm.
- Phương pháp học tập môn hoá chưa tốt.
- Thờ ơ với giờ học trên lớp, thường xuyên không làm bài tập ở nhà , bỏ tiết.
Giáo viên cần nắm vững những đặc điểm này để có thể giúp đỡ học sinh yếu
kém một cách có hiệu quả.
* Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém môn hoá học.


Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn đến học
sinh học yếu kém môn Hoá học đó là:
- Nguyên nhân từ học sinh
+ Học sinh không hứng thú học tập bộ môn: Khác với các môn khác, môn hoá
học có nhiều khái niệm trừu tượng, khó, học sinh rỗng kiến thức cơ bản do đó các
em tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn và thiếu hụt.
+ Một số em lười học, thiếu sự chuẩn bị chu đáo dụng cụ học tập dẫn tới
không nắm được các kĩ năng cần thiết trong việc học và vận dụng vào việc giải
quyết các dạng bài tập hoá học.
+ Một số em thiếu tìm tòi, sáng tạo trong học tập, có thói quen chờ đợi lười
suy nghĩ hay dựa vào giáo viên, bạn bè hay xem lời giải sẵn trong sách giải một
cách thụ động.
- Nguyên nhân từ giáo viên
Chưa thật sự quan tâm đến tất cả đối tượng học sinh trong cả lớp mà chỉ chú
trọng một số em học khá, giỏi; giáo viên chưa thật sự tâm lý, chưa động viên khéo
léo kịp thời đối với những những tiến bộ của học sinh dù rất nhỏ.
Chưa cân đối giữa việc truyền thụ kiến thức với rèn luyện kỹ năng thực hành
hoá học.
Không nắm chắc đối tượng HS dẫn tới chưa có phương pháp giáo dục phù hợp.
Phương pháp dạy học chậm đổi mới: Nhiều giáo viên chưa chú ý đến phương

pháp dạy học đặc trưng của bộ môn, không có thí nghiệm trên lớp, bỏ giờ thực
hành thí nghiệm, phương tiện dạy học nghèo nàn, lạc hậu.
Việc kiểm tra đánh giá học sinh chưa nghiêm túc, chưa có tác dụng khích lệ
học sinh trong học tập, thậm chí còn tạo điều kiện cho học sinh chây lười.
Chưa tạo được không khí học tập thân thiện, giáo viên chưa phối hợp tốt với
giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh…
- Nguyên nhân từ phụ huynh học sinh và xã hội
Do kinh tế gia đình khó khăn nên điều kiện cũng như thời gian dành cho việc
học còn thiếu nên kết quả học tập theo đó bị hạn chế.
Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của con em, thậm chí khoán
trắng việc học tập của con em họ cho nhà trường.
Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cùng với internet và các dịch vụ
vui chơi, giải trí hấp dẫn. Điều này cũng là một thuận lợi nếu phụ huynh hướng dẫn
con em sử dụng internet cho việc khai thác tài liệu và ôn lại kiến thức…Nhưng nó
cũng có mặt trái khi phụ huynh không quản được con em mình để cho các em
nghiện điện tử, nghiện fecebook…không dành thời gian cho việc học.


Sau khi nắm bắt đặc điểm HS học yếu, kém môn hoá học cũng như nắm bắt
nguyên nhân gây nên. GV phải đưa ra được các biện pháp phù hợp để giúp những
HS này.
2.3.1.2. Xây dựng môi trường học tập thân thiện, cởi mở
Đối với lứa tuổi HS nói chung và HS lớp 10 nói riêng, tình cảm, việc làm, hành
động của các em còn mang tính chất cảm tính. Các em có thể không thích học môn
Hoá học chỉ vì không thích thầy cô dạy môn hoá học đó. Chính vì vậy, muốn giúp
các HS yếu kém môn Hoá học tiến bộ trước hết phải làm cho các em yêu mến, tin
tưởng GV. Bởi vậy, sự thân thiện của GV nhằm tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn để
các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình là
yếu tố rất quan trọng. Sự khích lệ của thầy cô làm các em tự hào về mình, tự tin vào
bản thân và có hứng thú học tập thực sự. Để thực hiện được, GV cần:

- Tạo không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không mắng hoặc dùng lời
thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm
cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. Ví dụ: HS không ghi bài, đừng vội quát
mắng hay trách phạt mà hãy nhắc nhở nhẹ nhàng, hỏi rõ lý do, và sẵn sàng cho
mượn bút nếu lí do là: “Bút em hết mực”.
- Khen ngợi kịp thời, đúng lúc. Phải tìm ra ưu điểm để khen thành thật kẻo
các em bị tổn thương vì nghĩ thầy cô giễu cợt mình. Ví dụ: khen chữ đẹp, trình bày
rõ ràng, khen tính cẩn thận, khen tập trung nghe giảng, khen đã biết cách cân bằng
phương trình hoá học, khen đã nhớ hoá trị ...Không đợi HS làm xong cả bài rồi mới
khen tốt. Các em viết được một chút thì khen ngay “Đúng rồi, em làm tiếp đi!”.
Theo dõi bài làm của các em, nếu thấy HS bắt đầu làm sai thì phải nhắc ngay và đặt
câu hỏi gợi ý để các em không mất công làm hết bài, nếu không các em sẽ nản
không tự tin để tự làm lại.
- Chú ý lời phê ở bài kiểm tra, không nên tiết kiệm những lời phê như: “Có
tiến bộ nhiều, cần phát huy! “, “ Trình bày bài sạch sẽ, chữ viết đẹp”
2.3.1.3. Giáo dục ý thức học tập
GV cần giúp HS xác định đúng động cơ, thái độ học tập: học để có kiến thức,
để làm người, để chiếm lĩnh tri thức của loài người, biến kiến thức đó thành kiến
thức của mình. Học để lập thân lâp nghiệp cho cuộc sống tương lai sau này của
chính các em, cho gia đình các em sau đó là phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Tôi không quên kể cho các em nghe câu chuyện ngụ ngôn: “Ông nông dân mãi
nghèo khổ” Để các em thấy được muốn học tập tốt thì phải có kế hoạch, ý thức tự
giác và kiên trì thì mới thành công.
2.3.2. NHỮNG BIỆN PHÁP CỤ THỂ


2.3.2.1. Những biện pháp giúp đỡ các đối tượng HS
* Đối với những em do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn
Các em bị thiếu thốn sách vở đồ dùng học tập, ngoài các buổi đến lớp các em
phải đi làm thêm để phụ giúp kinh tế gia đình không có thời gian tập trung cho học

tập. GV cần:
- Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của các em qua hồ sơ, qua GV chủ nhiệm, qua
bạn bè của HS đó.
- Đề xuất lên ban lãnh đạo nhà trường có thể miễn giảm cho các em một phần
nào các khoản đóng góp có thể được.
- Phát động các em học sinh trong lớp quyên góp một phần nào đó để giúp bạn
có thể mua một số đồ dùng học tập như sách giáo khoa, bút, vở và nên chủ động
cho các em mượn một số sách vở đồ dùng học tập.
- Trao đổi với phụ huynh, động viên gia đình tạo điều kiện cho em học tập, để
các phụ huynh này nhận thức rõ quyền lợi của các em bây giờ là được học, có thể
các em sẽ không học tiếp cao đẳng, đại học nhưng các em cần được học tập để phát
triển toàn diện về tư duy, thể chất. Khi có có kiến thức bước vào cuộc sống các em
sẽ có khả năng tư duy linh hoạt trước thử thách của cuộc đời, việc học là việc cần
thực hiện ngay bây giờ, nếu bỏ lỡ sẽ khó hoặc không còn cơ hội để làm lại, còn “đi
làm kiếm tiền” thì sau này sẽ có cả cuộc đời phía trước để thực hiện.
* Với những HS bị tổn thương, mất cân bằng về mặt tình cảm.
Một số em có bố mẹ đi làm ăn xa, ở cùng ông bà hoặc anh em họ hàng nên
thiếu đi sự quan tâm, chăm sóc của bố mẹ. Hay có những em sống trong gia đình
bố mẹ bất hoà, thường xuyên cãi vã, hoặc đã li hôn. Điều này ảnh hưởng rất lớn
đến kết quả học tập của các em vì tâm lý chán nản và bản thân không có người
thường xuyên nhắc nhở, quan tâm. Với đối tượng này, GV nên tìm cách thường
xuyên trò chuyện gần gũi với các em (có thể nói chuyện giờ ra chơi, gọi điện thoại,
kết bạn trên mạng xã hội facebook ) nhằm động viên an ủi để các em có thể vượt
qua cơn khủng hoảng về tinh thần, giúp các em trở lại trạng thái cân bằng về tình
cảm và tập trung vào việc học tốt hơn.
Một số em nảy sinh tình yêu nam nữ quá sớm gây sa sút trong học tập. Với
đối tượng này, GV cần nói chuyện riêng với các em nhằm giúp các em hiểu được
việc cần làm bây giờ là học tập giúp các em có được một nền tảng kiến thức cơ bản
vững chắc, một công việc phù hợp. Đó chính là cơ sở vững chắc để các em có một
tình yêu chân chính.

Đồng thời cùng với GV chủ nhiệm kết hợp liên lạc với phụ huynh phối hợp
uốn nắn, động viên các em.
* Với đối tượng học sinh yếu kém do lười biếng, ham chơi.


Một số HS thường xuyên bỏ giờ ham mê trò chơi điện tử. Một số khác vẫn đến
lớp nhưng không ghi bài, thờ ơ, không chú ý vào bài học. Với đối tượng này, GV
cần:
- Trực tiếp trò chuyện riêng với các em, phân tích cho các em hiểu mặt tốt,
mặt xấu và sự liên quan đến tương lai của các em. Động viên những em học khá
trong lớp kết bạn thân để kéo những HS này khỏi sự “ham chơi”. Đồng thời, phối
hợp với phụ huynh để kiểm soát giờ giấc đi học và không cho các em tiền tiêu vặt.
- Yêu cầu các em ghi bài và chấm vở đột xuất để lấy điểm miệng. Trong các
giờ học nên khuyến khích cho các em phát biểu, gọi các em lên bảng và có lời khen
kịp thời, cho điểm khuyến khích, động viên các em, giúp các em tự tin và hứng thú
học tập hơn.
* Với đối tượng học sinh yếu kém do “hổng” kiến thức cơ bản
Tôi đã gặp rất nhiều khó khăn khi giảng dạy kiến thức mới trong khi các em
không nhớ ngay cả những kiến thức cơ bản tưởng chừng đơn giản ở lớp dưới. Bản
thân các em khi đã mất “gốc” ở lớp dưới rồi có chú ý học bài mới cũng không thể
hiểu mà chỉ có học vẹt sau đó thấy chán nản, thấy môn học quá khó …(hiện tượng
này còn kéo dài mãi ngay cả khi các em học lớp 12 muốn chọn khối A, khối B thi
cũng không theo được.. ). Chính vì thế ngay từ đầu năm lớp 10 GV cần tổ chức ôn
tập bổ sung kiến thức cho các em để HS yếu kém có đủ kiến thức để theo kịp yêu
cầu chung của những tiết học trên lớp, tiến tới có thể hoà nhập vào việc dạy học
đồng loạt.
Với kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy ở ngôi trường có nhiều HS yếu kém, để
giúp các em ôn lại kiến thức tôi đã thực hiện.
Ôn tập thường xuyên liên tục các kiến thức hoá THCS trọng tâm.
Không nắm chắc kiến thức cơ bản là một đặc điểm đặc trưng của HS yếu kém.

Ví dụ các em không nhớ hoá trị các nguyên tố dẫn đến việc viết sai công thức hoá
học của các chất .Không nhớ tính chất hoá học của các chất nên viết sai phương
trình hoá học dẫn đến việc giải các bài tập có liên quan sai như viết phương trình
thực hiện chuỗi biến hoá, nhận biết các chất…Không nhớ các công thức tính toán
như CM, C% ,tính số mol chất khí….Không nhớ tính tan của các chất …
Không nhớ các kiến thức cơ bản thì các em không thể học tốt chương trình môn
hoá THPT. Vì thế việc ôn tập lại các kiến thức cơ bản cho học sinh theo tôi là vấn
đề then chốt để các em học yếu, kém môn hoá học tiến bộ hơn trong môn học này.
Với 2 tiết ôn tập đầu năm, trong tiết dạy các câu hỏi đưa ra phải phù hợp với các
đối tượng HS trong lớp thì không thể ôn tập lại các kiến thức cơ bản cho HS học
yếu môn hoá một cách đầy đủ.
Không có nhiều thời gian luyện tập lại kiến thức cơ bản các em sễ không nhớ
được. Chương trình hoá học 10 đầu năm là chương nguyên tử; chương bảng tuần


hoàn các nguyên tố hoá học và định luật luần hoàn, chương liên kết hoá học là các
chương học sinh có thể không nhớ kiến thức cơ bản cũ của môn hoá vẫn có thể tiếp
thu bài và làm bài tập vận dụng được khiến GV và HS dễ chủ quan xem nhẹ ôn tập
các kiến thức cũ. Nhưng chính thời gian này ngoài dạy kiến thức chính theo phân
phối chương trình trên lớp. Tôi vẫn ôn lại kiến thức cũ cho HS thông qua các tiết tự
chọn và học nhóm của HS sau giờ học buổi chiều để ôn lại các kiến thức cơ bản
cho các em.
Bước 1: Ôn tập hoá trị của nguyên tố và nhóm các nguyên tố( gốc axit,
OH….), quy tăc hoá trị để HS viết đúng công thức hoá học.
Để nhớ hoá trị tôi cho các em học thuộc bài ca hoá trị bằng lời sau đó từ tên các
nguyên tố trong bài ca hoá trị yêu cầu các em viết kí hiệu của nguyên tố đó. Khi
các em đã thuộc, định kì tôi vẫn yêu cầu nhắc lại hay mỗi khi các em làm các bài
tập liên quan đến hoá trị mà quên nhắc các em nhớ lại bài ca hoá trị viết cho đúng.
Để nhớ hoá trị của các gốc axit HS phải nhớ được công thức của một số
axit.Nếu gốc axit so với phân tử axit ban đầu mất bao nhiêu nguyên tử H từ phân

tử thì gốc axit có hoá trị bấy nhiêu.
VD:

CTPT Axit

Gốc axit (Hoá trị )

Gốc axit (Hoá trị )

HCl

-Cl (I)

H2SO4

-HSO4 (I)

SO4 (II)

H3PO4

-H2PO4 (I)

=HPO4 (II)

H2CO3

- HCO3(I)

= CO3(II)


HNO3

- NO3 (I)

H2S

-HS (I)

H2SO3

- HSO3(I)

Gốc axit (Hoá trị )

PO4 (III)

= S (II)
= SO3 (II)

Nhớ quy tắc hoá trị
Trong công thức hóa học, tích của chỉ số và hóa trị của nguyên tố này(hay nhóm
nguyên tố này) bằng tích của chỉ số và hóa trị của nguyên tố kia(hoặc nhóm
nguyên tố kia).
a b
Ax By => a.x = b.y.
+ Khi biết hoá trị của nguyên tố A,B tương ứng là a,b tìm công thức hợp chất
a b
c d



AB 
AdBc  AdBc
Với c : d là tỉ lệ tối giản của a : b
Ví dụ:

IV

II

II

I

III

I

N O NO  NO2;
Al Cl AlCl3
Bước 2: phân loại và nêu được tính chất hoá học cơ bản của các hợp chất vô
cơ bằng lược đồ tư duy để HS nắm lại một cách tổng quát.
Ôn tập lại các tính chất hoá học của các chất : oxit axit, oxit bazơ, axit, bazơ,
muối… Viết các phản ứng thể hiện tính chất hoá học của các chất trên .(để viết
được phương trình HS ôn lại tính tan của một số muối, phân loại độ mạnh yếu của
các axit ,các bazơ… bằng sơ đồ tư duy sau đó viết các phản ứng hoá học minh hoạ.
Bước 3: Ôn tập lai các công thức tính toán trong hoá học sau đó áp dụng để
giải các bài tập đơn giản.
Việc đầu tiên HS phải xác định được phân tử khối của đơn chất và hợp chất
( xác định M ) từ đó các em mới có thể áp dụng công thức tính số mol các chất dựa

vào khối lượng và phân tử khối của chất một cách linh hoạt.
n = m /M  m = n.M …
Ôn lại các công thức tính C% ,C M, tính số mol chất khí ở đktc, tính % khối
lượng các chất trong hỗn hợp, % số mol chất trong hỗn hợp.
Lượng kiến thức ôn lại cho các em nhiều không thể nóng vội dạy cùng một
lúc thì các em HS đã học yếu sẽ nản thay vào đó tôi chia nhỏ kiến thức ra ôn tập và
luyện tập thường xuyên vừa sức. Khi giải bài toán bằng phương trình hoá học luyện
cho HS cách cân bằng phản ứng tính khối lượng chất tham gia hoặc chất tạo
thành từ một chất cho trước sau đó nâng dần lên tính lượng chất tạo ra hoặc còn dư
lại khi đề cho biết các số liệu của hai hoặc 3 chất tham gia…Khi bắt dầu ôn tập tôi
viết các công thức cần sử dụng lên góc bảng hướng dẫn bài mẫu sau đó thay số để
các em làm theo.
2.3.2.2. Đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy học
Điều 24.2 của Luật Giáo dục đã ghi: “Phương pháp giáo phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
của HS ”. [ 3, trang 56]
Mỗi tiết dạy GV có thể sử dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích
cực chính vì thế trong phạm vi của đề tài tôi chỉ giới thiệu một số phương pháp đã
sử dụng có hiệu quả đối với học sinh học yếu môn hoá học.


* Sử dụng tốt kĩ thuật đặt câu hỏi trong mỗi bài dạy .
Kĩ thuật đặt câu hỏi trong mỗi bài dạy đối với người GV rất quan trọng mức độ
câu hỏi đưa ra vừa làm nổi bật trọng tâm của bài dạy vừa phải bám sát đối tượng
HS trong một lớp để các em đều có thể tham gia xây dựng bài kể cả HS yếu kém.
Ví dụ: Khi dạy phần II –Số oxi hoá trong bài 15: Hoá trị và số oxi hoá. ( Tiết 25,
SGK -10 CTC) [9, 14]
Tôi cho những HS học còn yếu bộ môn tham gia nêu bốn quy tắc xác định số oxi

hoá :
Quy tắc 1: Trong các đơn chất, số oxi hoá của các nguyên tố bằng không.
Quy tắc 4: Trong hầu hết các hợp chất, số oxi hoá của hidro bằng +1, trừ một số
trường hợp như hidrua kim loại (NaH, CaH 2….) Số oxi hoá của oxi bằng -2, trừ
trường hợp OF2, peoxit( chẳng hạn H2O2)…
Quy tắc 2: Trong một phân tử, tổng số oxi hoá của các nguyên tố bằng bằng không.
Quy tắc 3: Trong ion đơn nguyên tử, số oxi hoá của nguyên tố bằng điện tích của
ion đó.
Trong ion đa nguyên tử, tổng số oxi hoá của các nguyên tố bằng điện tích của ion.
Sau đó cho HS cả lớp trả lời các câu hỏi :
+ Cho ví dụ về đơn chất suy ra số oxi hoá của nguyên tố trong đơn chất.
+ Cho ví dụ về hợp chất.
+ Cho ví dụ ion đơn nguyên tử, ion đa nguyên tử.
Thông qua ví dụ mẫu tôi cho học sinh xác định số oxi hoá của các hợp chất và
ion đơn giản tương tự SGK như tính số oxi hoá của nitơ trong NH 3, HNO2, NO3-,
NH4+, HNO3 .
+ Xác định số oxi hoá của Cr trong các hợp chất và ion K2Cr2O7, K2CrO4, Cr2O3…
+ Phân biệt cách viết số oxi hoá của các nguyên tố với hoá trị của nguyên tố đó …
* Sử dụng phương pháp làm việc nhóm kết hợp với kĩ thuật chia nhóm,
kĩ thuật “khăn phủ bàn”.
Tuỳ theo nhiệm vụ học tập, GV có thể sử dụng hình thức HS làm việc cá nhân
hoặc hoạt động nhóm cho phù hợp. Chỉ những hoạt động đòi hỏi sự phối hợp của
các cá nhân để nhiệm vụ hoàn thành nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn hoạt động cá
nhân mới nên sử dụng phương pháp làm viêc nhóm. [3]
- Kĩ thuật chia nhóm: năng lực HS giữa các nhóm là tương đương nhau, phân công
nhóm trưởng, thư ký…
- Kĩ thuật “khăn phủ bàn” ( tất cả các thành viên đều ghi ý kiến vào ô của mình sau
đó thống nhất ghi vào giữa) tránh trường hợp phát phiếu học tập cho các nhóm thì
chỉ có một số HS học tốt trả lời còn số còn lại thì không tham gia. Ngoài việc sử
dụng kĩ thuật “khăn phủ bàn” khi học sinh làm việc nhóm tôi yêu cầu mọi thành

viên trong nhóm phải tham gia để nắm được nhiệm vụ của nhóm và có thể gọi bất


kì HS nào trong nhóm đứng lên trả lời, GV phải quan sát HS ở các nhóm nếu thấy
HS nào không tham gia phải đến hỏi gợi ý, nhắc nhở các em kịp thời.
Ví dụ 1: khi dạy mục II. Cấu tạo của bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học
( bài 7: Bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học ) (Tiết 13- 14, Hoá 10 CTC) [9, 14]
GV chia lớp thành các nhóm sử dụng kĩ thuật “khăn phủ bàn” để tìm hiểu về ô
nguyên tố, chu kì, nhóm nguyên tố (Tìm hiểu về ô nguyên tố thì các thành viên
trong nhóm tìm hiểu về các ô nguyên tố khác nhau sau đó thống nhất ý nghĩa của
các thông số và kí hiệu ghi trong ô nguyên tố ); (Tìm hiểu về chu kì các thành viên
trong nhóm tìm hiểu về các chu kì khác nhau dựa trên các gợi ý về số lượng các
nguyên tố, đặc điểm nguyên tố bắt đầu chu kì và kết thúc chu kì, số lớp e của các
nguyên tố trong cùng chu kì là bao nhiêu?)…
Ví dụ 2: Khi dạy bài 18: Phân loại phản ứng trong hoá học vô cơ. (Tiết 31, Hoá 10
CTC) [9, 14]. GV chia lớp thành 4 nhóm và sử dụng kĩ thuật “khăn phủ bàn”, kĩ
thuật mãnh ghép. Mỗi nhóm tìm hiểu về một loại phản ứng dựa trên các gợi ý sau:
Mỗi HS cho một ví dụ về loại phản ứng mà nhóm mình tìm hiểu ( HS phải nhớ lại
cách phân loại đã được học, GV có thể gợi ý nếu nhóm nào quên), xác định số oxi
hoá của các nguyên tố trong phản ứng đó…
* Sử dụng có hiệu quả dạy học bằng sơ đồ tư duy.
Tôi đã sử dụng phương pháp này để hướng dẫn HS ôn tập lại kiến thức cơ bản
phân loại chất, tính chất của các chất ; kiến thức sau khi học hết một chương. Hoặc
phần củng cố sau một bài.
* Sử dụng phương pháp trực quan, gắn bài học với việc giải thích các hiện
tượng trong tự nhiên và cuộc sống. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin
vào soạn giảng.
- Chúng ta đã biết đặc điểm của bộ môn hoá học là mang tính thực nghiệm
cả về định tính và định lượng nếu GV thực hiện các thí nghiệm biễu diễn, cho HS
được làm các thí nghiệm trong tiết thực hành sẽ gây hứng thú cho học sinh và tăng

khả năng ghi nhớ và tiếp thu kiến thức được tốt hơn và chắc chắn những HS học
yếu bộ môn vẫn có thể trả lời tốt hiện tượng các em quan sát được trong thí nghiệm
là gì. Để thí nghiệm thực hành đạt kết quả tốt trước khi tiến hành thí nghiệm ở trên
lớp tôi nghiên cứu kĩ cách tiến hành các thí nghiệm từ SGK, sách giáo viên và đề
tài “ Hướng dẫn thiết kế thực hành – thí nghiệm hoá học lớp 10 ”của GV : Hoàng
Văn Hoan trường THPT Bán công Phan Bội Châu Gia Lai(viết năm 2008) [7]
thực hiện thí nghiệm trước khi lên lớp để đảm bảo các thí nghiệm thành công.Đồng
thời dự kiến trước các tình huống thí nghiệm thất bại xảy ra đối với HS để hướng
dẫn cho các em làm tốt.
- Khi dạy những bài cần vận dụng kiến thức hoá học vào giải thích các hiện
tương trong tự nhiên và cuộc sống GV hướng dẫn cho HS giải thích từ đó tạo hứng
thú và yêu thích bộ môn hoá.


Ví dụ 1: Khi dạy bài clo (Tiết 38, Hoá 10CTC) [6, 9, 14]
GV hướng dẫn cho HS giải thích hiện tượng:
+Tại sao nước máy ở các thành phố lại có mùi khí clo?
+ Vì sao trước khi luộc rau muống cần thêm một ít muối ăn NaCl?
Ví dụ 2: Khi dạy bài Flo-Brom- Iot (Tiết 43-44, Hoá 10CTC) [6, 9, 14]
GV hướng dẫn cho HS giải thích các hiện tượng:
+ Làm thế nào có thể khắc được thuỷ tinh? Hay tại sao không dùng bình thuỷ tinh
đựng dung dịch HF?
+ Vì sao “ chảo chống dính ’’ khi chiên rán thức ăn lại không bị dính chảo?
+ Tại sao phải ăn muối iot?
Ví dụ 3 : Khi dạy bài Oxi –Ozon (Tiết 49- 50, Hoá 10CTC) [6, 9, 14]
GV hướng dẫn cho HS giải thích hiện tượng:
+ Vì sao sau những cơn giông, không khí trở nên trong lành và mát mẻ hơn?
+ Vì sao khi sử dụng máy photocopy phải chú ý đến việc thông gió?
+ Vì sao ban đêm không nên để cây xanh trong nhà ?
Ví dụ 4: dạy bài Axit sunfuric muối sunfat (Tiết 56- 57, Hoá 10CTC) [6, 9, 14]

GV hướng dẫn cho HS giải thích hiện tượng:
+ Vì sao không nên đổ nước vào axit sunfuric đậm đặc mà phải rót từ từ axit
sunfuric đậm đặc vào nước rồi khuấy đều ?
+ “ Hiện tượng mưa axit” là gì ? Tác hại như thế nào ?
Ví dụ 5: dạy bài Cân bằng hoá học (Tiết 64- 65, Hoá 10CTC) [6, 9, 14]
GV hướng dẫn cho HS giải thích hiện tượng:
+ Tại sao sử dụng kem đánh răng có chứa flo hoặc ăn trầu lại tốt cho men răng?
+ Tại sao khi tôi vôi phải rất cẩn thận ?
+ Tại sao ta hoà tan đạm ure vào nước ta thấy lạnh.
Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin nhằm tạo hứng thú giúp học sinh dễ
tiếp thu kiến thức. Ví dụ như việc sử dụng máy chiếu đa năng và các phần mềm
trình chiếu một số thí nghiệm ảo, hình ảnh ứng dụng cũng như tác hại của các chất,
lược đồ tư duy, tóm tắt kiến thức trong tiết luyện tập, bài tập củng cố…
2.3.2.3. Đổi mới việc kiểm tra đánh giá học sinh.
GV phải nắm yêu cầu đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng của môn học.
- Nội dung các câu hỏi trong đề kiểm tra cũng rất quan trọng phải bám vào ma
trận nhận thức với 4 cấp độ: biết, hiểu, vận dụng thấp, vận dung cao. Trừ một số
câu ở vận dụng cao có tính mới đòi hỏi các em tổng hợp kiến thức thì các câu hỏi
còn lại chỉ nhớ lại công thức, khái niệm, tính chất có trong SGK và làm những bài
tập hiểu, vận dụng ở mức độ tương tự thay đổi số liệu…mà tôi đã dặn dò các em
về nhà ôn tập. Đối với HS học yếu bộ môn việc thường xuyên kiểm tra lại các kiến
thức trọng tâm của hoá 10 như việc xác định số oxi hoá, cân bằng các phản ứng oxi
hoá khử ở dạng đơn giản, tính chất hoá học của axit sunfuric… là rất quan trọng vì


các em có nắm được các kiến thức nêu trên các em mới có thể học tốt hơn ở những
bài học sau. Việc cố gắng học các quy tắc, công thức, tính chất của các chất và ghi
bài thường xuyên đầy đủ là một thành công bước đầu để các em tiến bộ. GV có thể
kiểm tra đột xuất vở ghi để lấy điểm miệng, cho các em lên bảng làm những bài tập

tương tự thay số liệu để lên lấy điểm miệng các em sẽ rất vui vì đấy là điểm của
các em chứ không phải do nhìn bạn hỏi bạn hoặc khoanh bừa. Phải thấy được sự cố
gắng đó để ghi nhận khen ngợi, động viên các em kịp thời dù có thể chỉ là những
lời nhận xét chữ viết rõ ràng, cẩn thận …
2.3.2.4. Hướng dẫn cho học sinh phương pháp học tập trên lớp và tự học
ở nhà
Cùng thầy cô giáo dạy nhưng có em kết quả học tập cao, có em kết kết quả
học tập chưa cao, thậm chí còn yếu, kém. Nhiều em vẫn đổ lỗi tại mình không
thông minh. Nhưng một trong những nguyên nhân mà các em chưa nhận thấy đó là
các em chưa có phương pháp học tập hiệu quả dẫn đến kết quả học tập còn yếu,
kém. Chính vì thế hướng dẫn HS cách học rất quan trọng. Trước hết, GV cần yêu
cầu HS:
Dù học ở lớp hay ở nhà khi vào bàn học phải tập trung, không làm việc riêng,
kiên trì .
- Ghi chép bài cẩn thận, đầy đủ kết hợp với việc nghe giảng trên lớp (Khuyến
khích bằng cách chấm vở lấy điểm miệng).
- GV yêu cầu học sinh phải có vở nháp, máy tính bỏ túi để tham gia học tập
trên lớp cũng như ở nhà không ngại làm sai. GV giải thích cho HS dù có làm sai
thì lần sau các em mới rút được kinh nghiệm, khắc sâu được kiến thức.
- Không hiểu phải hỏi thầy, hỏi bạn, không nhớ chắc chắn tính chất phần nào
thì tự mình phải xem lại sách vở bổ sung lai phần đó (yêu cầu các em giữ lại vở ghi
và SGK hoá học của các lớp, tham gia học nhóm ...)
- Làm ít nhất hai phần ba số bài trong SGK (Đối với các em HS yếu kém,
không nên đặt ra yêu cầu làm hết toàn bộ bài tập SGK).
- Nắm chắc lý thuyết trước khi làm bài tập.
- Sau khi học xong một chương cần giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức (tốt
nhất là bằng bảng hoặc bằng sơ đồ). Tóm tắt lý thuyết cơ bản và các công thức
quan trọng cũng như cách giải một số dạng toán cơ bản và dán vào góc học tập.
2.3.3. TỔ CHỨC THỰC HIỆN


2.3.3.1. Chọn lớp thực nghiệm


Đầu năm học 2016-2017, tôi được phân công dạy môn hoá học lớp 10A2 và
10A3 Trường THCS&THPT Thống Nhất. Qua tìm hiểu học bạ lớp 9 tôi nhận thấy
trình độ chung về môn hoá học của hai lớp 10A3 và 10A2 là tương đương nhau.
Bảng thống kê lực học môn Hoá học của lớp 10A2 và 10A3 đầu năm học
2016-2017
Lớp
Tổng số
Khá, giỏi
Trung bình
Yếu kém
HS
Số lượng
Tỷ lệ(%) Số
Tỷ lệ(%) Số
Tỷ
lượng
lượng
lệ(%)
10A3 43
6
14.0
21
48.8
16
37.2
10A2 44
6

13.6
22
50.0
16
36.4
Trên cơ sở đó, tôi tổ chức thực nghiệm tại lớp 10A3 và lấy lớp 10A2 làm đối
chứng. Việc dạy thực nghiệm và đối chứng thực hiện theo đúng kế hoạch giảng dạy
của nhà trường.
Thời gian thực nghiệm được tiến hành từ ngày 19/9/2016 đến ngày 15/5/2017.
- Lớp thực nghiệm: 10A3 với số lượng HS là 43 em.
- Lớp đối chứng: 10A2 với số lượng HS là 44 em.
2.3.3.2. Tiến hành thực nghiệm
*Phân loại các đối tượng HS yếu kém môn Hoá học
Nhóm 1 (gồm 4 em: Văn Tiến Dũng, Trần Văn Hậu, Lê Bá Hoàng, Khương
Văn Duy) với đặc điểm: hay bỏ tiết, vào muộn, ít nói, trong lớp thường không
nghe giảng, không ghi bài, tỏ thái độ bất cần, hỏi gì cũng không biết.
Nhóm 2( gồm 6 em: Lê Kim Chi, Trần Thị Huyền, Lê Thị Thu Huyền, Lê Hoài
Phương, An Viết Dương, Trương Thị Nhàn) với đặc điểm chung: không nhớ các
kiến thức cơ bản môn hoá ở lớp dưới, thường xuyên không thuộc bài và không làm
bài tập, rụt rè, sợ hãi mỗi khi GV kiểm tra bài cũ, không tham gia ý kiến vào bài
học.
Nhóm 3 (gồm 6 em: Trịnh Văn Đông, Lê Đình Hiệp,Nguyễn Thị Trang, Nguyễn
Thanh Thuý,Quach Văn Trình, Lê Đức Việt ) với đặc điểm: chăm chú nghe giảng,
thỉnh thoảng cũng tham gia xây dựng bài những kiến cơ bản môn hoá ở lớp dưới
có nhớ nhưng không được nhiều, ngại bắt tay vào làm các bài tập cho dù chỉ tương
tự chỉ thay số liệu , có tâm lí chông chờ vào thầy cô và bạn bè sau đó chép kết quả.
Chính vì thế khi bắt tay vào làm bài hay bị nhẫm lẫn, kĩ năng tính toán chậm kết
quả học tập của các em rất thấp.
* Thường xuyên gần gũi, động viên, quan tâm, khích lệ kịp thời những
tiến bộ dù nhỏ của HS học yếu môn hoá học.

Nhóm 1:Đối những HS này chê bai hoặc thường xuyên cho các em điểm thấp
mỗi khi không thuộc bài cũ không phải là biện pháp hiệu quả thậm chí ý thức học


còn kém hơn bởi các em không có điểm tựa. Tôi đã gặp gỡ riêng từng em cũng như
thông qua các bạn cùng lớp biết được nguyên nhân trốn học, bỏ tiết của ba HS
Văn Tiến Dũng, Lê Bá Hoàng thường xuyên chơi điện tử ở quán Internet gần
trường học. HS Trần Văn Hậu, HS Khương Văn Duy có hoàn cảnh kinh tế gia đình
khó khăn các em thường bỏ tiết để tham gia vận chuyển vật liệu xây dựng thuê cho
các quán bán hàng để lấy tiền chi tiêu. Trong khi nói chuyện với tôi các em đều
có tâm sự nhiều lúc vào lớp học nhưng vì “hổng” kiến thức cơ bản của bộ môn
như từ kí hiệu không gọi tên nguyên tố, hay hoá trị đều không nhớ …vì thế nên
nghĩ rằng mình chắc sẽ không học đươc…Gặp gỡ phụ huynh của em Hậu, em Duy
và được biết kinh tế gia đình khó khăn nhưng cũng không bắt các em phải nghĩ
học để đi làm. Do các em ngại học thích đi làm để có tiền tiêu pha cá nhân. Biết
được điều đó Tôi đã phân tích cho các em thấy cũng sức lao động các em bỏ ra
nhưng khi các em là một kĩ sư, các em là một công nhân kĩ thuật thì tiền lương mà
các em hưởng sẽ cao hơn gấp nhiều lần, công việc sễ ổn định hơn so với việc các
em đi làm thuê theo thời vụ thế này. Nếu các em quyết tâm thầy cô và các bạn sẽ
cùng em bổ sung lại kiến thức “hổng” cho các em. Chính vì thế tôi cho HS thành
lập các nhóm học sau giờ học phụ đạo buổi chiều để ôn lại kiến thức cơ bản cử mỗi
nhóm một đến hai em học tốt bộ môn tham gia kèm cặp, bản thân tôi cũng thường
xuyên ở lai trao đổi cùng các em … Mặt khác trong giờ học tôi không ngừng yêu
cầu các em thực hiện các hoạt động học tập dù là hoạt động dễ nhất như đọc nội
dung một quy tắc hay tính chất vật lí của các chất hay ứng dụng của các chất
trong SGK để các em không có cơ hội làm việc riêng trong lớp hay mơ màng trong
giờ học. Đối với bài học mới trên lớp tôi dặn dò rất tỉ mỉ những việc các em cần
làm như cần phải ôn lại kiến thức trọng tâm rồi mới tiến hành làm bài tập về nhà,
đọc trước nội dung bài mới, nhấn mạnh với 4 em HS cá biệt hay nghỉ học là hôm
sau cô sẽ kiểm tra bài cũ để lấy điểm miệng, các em nhớ đi học đầy đủ. Tôi thường

xuyên kiểm tra vở bài tập, sửa chữa những sai lầm về các kí hiệu hoá học hay công
thức hoá học….
Nhóm 2: Trong tiết học trên lớp, tôi nhấn mạnh những nội dung chính của bài,
đóng khung những công thức cần phải học thuộc và cho các em luyện tập vừa sức,
những bài tập cùng loại. Thường xuyên gọi các em phát biểu ý kiến xây dựng bài
có khi không cần hoàn chỉnh một bài tập ví dụ: Tính phân tử khối của một chất,
tính số mol khí khi đã biết thể tích đo đktc, viết và cân bằng phương trình… tôi
cũng không ngừng nhắc lại những kiến thức liên quan tới bài học, tốc độ giảng bài
vừa phải, tập trung vào những kiến thức trọng tâm của bài. Thường xuyên kiểm
tra vở bài tập và cho điểm nếu các em làm tốt. Động viên các em tham gia học
nhóm sau giờ học phụ đạo buổi chiều.
Nhóm 3: Tôi tiến hành cho các em luyện tập vừa sức, những bài tập cùng
dạng và mở rộng dần, mỗi khi các em trả lời sai, tôi đều chỉ ra lỗi và chỉnh sửa lại
cho đúng, không quên động viên các em “ không sao cả, sai thì mới nhớ lâu, lần
sau các em nhớ đừng phạm phải lỗi này nữa là được”. Lỗi sai chủ yếu là ngại làm
cứ nghĩ là mình làm được nhưng khi bắt tay vào làm thì lại nhầm lẫn, không cho


kết quả hoăc kết quả sai. Để khắc phục lỗi này các em phải chuẩn bị vở nháp,
MTBT, những bài tập tương tự thay số liệu phải tự mình làm, không hiểu phải hỏi
ngay ... Hướng dẫn các em cách học hiệu quả ở nhà, tự bổ sung những kiến thức cũ
mà các em đã quên. Động viên các em tham gia học nhóm cùng các bạn.
* Ôn tập thường xuyên những kiến thức cơ bản.
Để HS học yếu môn hoá học có thể học tốt lên việc đầu tiên là phải ôn tập lại
các kiến thức cơ bản tưởng chừng như rất đơn giản cho các em. Đó là xác định
hoá trị của các nguyên tố (nhóm nguyên tố), phân loại và viết các phương trình
phản ứng thể hiện tính chất hoá học của các chất, tính được phân tử khối của một
công thức phân tử, nhớ và sử dụng được các công thức tính CM, C%...
Hai tiết ôn tập đầu năm là chưa đủ với những HS học yếu môn hoá học chính vì
thế tôi khuyến khích các HS trong lớp tự học nhóm để trao đổi bài. Riêng đối với

các HS yếu, kém tôi chủ động sắp xếp thành các nhóm cho phù hợp, thường xuyên
hỏi nhóm trưởng sự tiến bộ của các em trong nhóm và chủ động ra thêm 1 số bài
tập vừa sức để các em luyện tập thêm. Tôi cho HS đăng ký lịch học nhóm và báo
cáo với nhà trường để HS được sử dụng phòng học tại trường. Khi học tại trường
HS sẽ tuân thủ thời gian và có ý thức tham gia tích cực, trách nhiệm hơn.
* Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá học sinh
Để tạo hứng thú cho các em trong các tiết học, yêu thích môn học tôi đã sử
dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như mục: 2.3.2.2.
Khi ra đề kiểm tra tôi bám vững các quy trình ra một đề kiểm tra, chấm trả bài
kịp thời thì việc coi thi nghiệm túc cũng rất quan trọng. Trước khi làm bài kiểm tra
tôi cho cán bộ lớp thu hết vở ghi, SGK để lên bàn GV. HS nhìn bài bạn và HS cho
bạn nhìn bài đều bị trừ điểm ( đã có nhiều HS bị trừ điểm vì nghĩ rằng cô chỉ doạ
nhưng những lần sau đó thì tự giác trong giờ kiểm tra)
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.4.1. Đánh giá định tính
Tôi đã áp dụng những biện pháp trên và theo dõi sự chuyển biến trong hoạt
động học tập của HS yếu kém, tôi nhận thấy:
- Ở lớp 10A2 (Lớp đối chứng): Không khí của giờ học rất trầm, các em HS yếu
kém hầu như không tự giác phát biểu xây dựng bài và không tự đưa ra các thắc
mắc hay ý kiến của cá nhân mình trước tập thể. Trong các giờ các em có ghi bài
nhưng vì không hiểu bản chất nên tốc độ còn chậm, kểm tra vở ghi vẫn còn viết sai
công thức hoá học, không cân bằng được phương trình nếu có chỉ thuộc hệ số trong
SGK để viết lại, các em tỏ ra không tự tin khi làm một bài tập, vẫn còn hiện tượng
bỏ tiết.


- Ở lớp 10A3(Lớp thực nghiệm): Tôi đã phối hợp một cách phù hợp, linh hoạt các
biện pháp nêu trên để giúp đỡ HS yếu kém. Vì vậy, các giờ học môn hoá học đối
với các em rất nhẹ nhàng, thoải mái, các em hào hứng tham gia vào bài học, các em
tích cực suy nghĩ trước sự định hướng của GV, không còn hiện tượng trốn học đi

chơi điện tử, làm việc riêng trong lớp. Mức độ tích cực của HS yếu kém ngày
càng được tăng từ giờ học trước đến giờ học sau, đặc biệt các em không còn quên
các kiến thức cơ bản ở lớp dưới, biết vận dụng kiến thức để viết đúng sản phẩm,
viết đúng công thức của các chất , biết cân bằng phương trình … Đặc biệt, các em
mạnh dạn trình bày ý kiến của mình trong nhóm cũng như trước tập thể lớp, hăng
hái thảo luận và đưa ra các nhận xét đánh giá khi GV yêu cầu.
2.4.2. Đánh giá định lượng
- Tôi đã cho HS lớp 10A2 và 10A3 làm bài kiểm tra theo đúng phân phối chương
trình, phù hợp với yêu cầu của môn học kết hợp với việc kiểm tra miệng đến thời
điểm cuối năm học kết quả trung bình cả năm môn hoá của hai lớp được thể hiện
trong bảng sau :
Lớp Tổng
Khá, giỏi
Trung bình
Yếu
Kém
số
Số
Tỷ
Số
Tỷ
Số
Tỷ
Số
Tỷ
lượng lệ(%) lượng lệ(%) lượng lệ(%) lượng lệ(%)
10A3 43
12
27.9
29

67.4
2
4.7
0
0
10A2 44
9
20.5
26
59.0
7
15.9
2
4.6

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài này, tôi thấy việc dạy học với đối tượng HS yếu kém
môn Hoá học là một công việc không hề đơn giản, đòi hỏi người dạy phải kiên trì,
nhẫn nại và thật sự tâm huyết với nghề. Để giúp những HS yếu kém có thể từng
bước tiến bộ đòi hỏi GV phải “vừa dạy, vừa dỗ”, phải nắm bắt và hiểu tâm lý của
các em để có những biện pháp phù hợp nhằm tác động đến tình cảm, khơi dậy sự
hứng thú đối với môn học, tạo cho các em niềm tin về khả năng tiến bộ của mình
nếu thật sự cố gắng. Từ đó, phần nào rèn luyện cho các em ý chí, nghị lực vượt qua
những khó khăn, thử thách trong cuộc sống.
Theo tôi, đề tài có thể ứng dụng để giảm tỷ lệ HS yếu kém môn Hoá học khối
10 ở Trường THCS&THPT Thống Nhất và cả những trường khác có tỷ lệ HS yếu
kém cao.
Trên đây là những suy nghĩ và các biện pháp đã được tôi áp dụng đạt hiệu quả
khá cao trong quá trình giảng dạy của bản thân. Trước tình hình học sinh “ngồi



nhầm lớp”, học sinh yếu kém còn nhiều, tôi mạnh dạn đưa ra để quí thầy cô cùng
thảo luận. Trong quá trình thực hiện, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót,
kính mong Hội đồng khoa học ngành cùng quý thầy cô góp ý để tôi hoàn thiện hơn
trong công tác giảng dạy của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
3.2. KIẾN NGHỊ
Đối với nhà trường: Nên tổ chức khảo sát chất lượng đầu năm học để phân
loại đối tượng HS yếu kém nhằm phụ đạo riêng ngay từ đầu năm giúp các em theo
kịp chương trình chuẩn trên lớp. Thường xuyên nhắc nhở giáo viên khi lên lớp cần
tạo không khí vui vẻ, thân thiện với HS giúp các em tiếp thu bài học đạt hiệu quả
hơn. Đồng thời, cần tránh miệt thị, chê bai các HS yếu kém, tích cực sưu tầm tài
liệu và học hỏi từ đồng nghiệp về phương pháp dạy HS yếu kém.
Đề tài mới chỉ đặt vấn đề nghiên cứu một số biện pháp trong dạy HS yếu
kém môn Hoá học lớp 10. Tôi nhận thấy đề tài này có thể mở rộng nghiên cứu
và cụ thể hóa các biện pháp nhằm giúp đỡ HS yếu kém trong toàn bộ nội dung
chương trình hoá học phổ thông.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Vũ Văn Thành

Thanh Hóa, ngày 28 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Trần Thị Lan



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy và học tích cực (Bộ giáo dục và đào tạo – Dự án Việt Bỉ- NXB ĐH Sư
Phạm)
2. Module THPT 23: Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh- Phạm Văn
Hoan.
3. Module THPT 18: Phương pháp dạy học tích cực- Trần Đình Châu, Đặng Thu
Thuỷ, Phan Thị Luyến.
4. Module THPT 19: Dạy học với công nghệ thông tin – Trần Kiều Hương.
5. 385 câu hỏi và đáp về hoá học với đời sống – Nguyễn Xuân Trường, NXB GD
2006
6.- Sáng kiến kinh nghiệm “ Vận dụng kiến thức hoá học để giải thích các hiện
tượng trong tự nhiên và cuộc sống” của giáo viên Bùi Thanh Huyền- Trường THPT
Lê Trung Đình.
7. Sáng kiến kinh nghiệm “ Hướng dẫn thiết kế Thực Hành - Thí Nghiệm hoá học
lớp 10’’ của GV Hoàng Văn Hoan- Trường THPT Bán Công Phan Bội Châu.-Gia
Lai.
8. Luận văn thạc sĩ sư phạm toán chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học
(Bộ môn toán) của tác giả Vũ Thị Ninh – ĐH Quốc Gia Hà Nội.
9. SGK Hoá học 10 CTC, NXB Giáo dục Việt Nam
10. Sách bài tập Hoá học 10 CTC, NXB Giáo dục Việt Nam.
11. Sách giáo viên Hoá học 10 CTC, NXB Giáo dục Việt Nam.
12. SGK Hoá học 8, NXB Giáo dục Việt Nam.
13. Hoá học 9 NXB Giáo dục Việt Nam.
14. Chương trình trường học –Trường THCS &THPT Thống Nhất.
15. Trang Web Giáo án điện tử, Đề thi đề kiểm tra, bài giảng điện tử.


DANH MỤC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả:Trần Thị Lan
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - trường THCS & THPT Thống Nhất

Cấp đánh giá xếp
loại
TT

Tên đề tài SKKN
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học đánh
giá xếp loại

(A, B, hoặc
C)

1.
Rèn luyện kĩ năng xác định
công thức phân tử của amino
axit và công thức cấu tạo
Cấp tỉnh

đồng phân khác chức của
amino axit CxHyOzNt

C

2010- 2011

2.
Rèn luyện kỹ năng giải
bài tập về phản ứng hòa tan
kết tủa trong hóa học vô cơ

Cấp tỉnh

C

2013- 2014


* Khi ôn tâp lại hoá trị của các nguyên tố tôi cho HS học thuộc bài ca hoá trị.
BÀI CA HÓA TRỊ
Kali (K) , iot (I) , hidrô (H)
Natri (Na) với Bạc (Ag) , Clo (Cl) một loài
Là hoá trị ai ơi!
Nhớ ghi cho rõ khỏi hoài phân vân...
Magiê (Mg) kẽm (Zn) với thuỷ ngân (Hg)
Oxi (O) , đồng (Cu) , thiếc (Sn) thêm phần Bari (Ba)
Cuối cùng thêm chú Canxi (Ca)
Hoá trị II nhớ có gì khó khăn !
Bác nhôm hoá trị III lần.

In sâu trí nhớ khi cần có ngay.
Cacbon (C) , silic (Si) này đây
Có hoá trị IV đó có ngày nào quên.
Sắt (Fe) kia lắm lúc hay phiền?
II , III lên xuống nhớ liền ngay thôi.
Lại gặp nitơ (N) khó rồi
I , II , III , IV khi thời lên V.
Lưu huỳnh (S) lắm lúc chơi khăm
Xuống II lên VI khi nằm thứ IV.
Phot pho (P) nói đến không dư
Có ai hỏi đến thì ừ rằng III, V.
Em ơi , cố gắng học chăm
Bài ca hoá trị suốt năm cần dùng
* Khi ôn tập lại tính chất hoá học của các chất và viết các phương trình phản ứng
hoá học xảy ra.Tôi cho HS nhớ lại dãy điện hoá kim loại, và tính tan của một số
bazơ, một số muối .


×