Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Bài thu hoạch Bồi dưỡng thường xuyên năm học 2018-2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.25 KB, 17 trang )

BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
NĂM HỌC 2018­2019
Họ và tên: Nguyễn Thị Thuẫn
Đơn vị: Trường Tiểu học Hải Ninh
Câu 1: Sau khi học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ 
Chí Minh với chuyên đề  năm 2018 “Xây dựng phong cách, tác phong công 
tác của người đứng đầu, của cán bộ  đảng viên”, thầy (cô) hãy trình bày 
quan điểm của Bác về phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, 
của cán bộ  đảng viên. Từ  đó thầy cô hãy liên hệ  thực tế  bản thân mình 
cần làm gì để tu dưỡng, rèn luyện học tập và làm theo tấm gương đạo đức 
Hồ Chí Minh.
Trả lời:
Phong cách Hồ Chí Minh là những đặc trưng giá trị mang đậm dấu ấn Hồ 
Chí Minh, được thể  hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người.  
Phong cách Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá  
mà Người để  lại cho dân tộc ta. Là một chỉnh thể  thống nhất, bao gồm phong 
cách tư  duy, phong cách làm việc, phong cách  ứng xử, phong cách diễn đạt, 
phong cách sinh hoạt…
Phong cách Hồ Chí Minh là phong cách của người Việt Nam. Đó là phong 
cách của một con người với nhân cách siêu việt, cái tâm trong sáng, cái đức cao 
đẹp, cái trí minh mẫn, cái hành mực thước, phong cách của một lãnh tụ, một vĩ 
nhân, một chiến sĩ cộng sản chân chính, của người công dân số  một của Việt 
Nam. Đó còn là phong cách của người anh hùng giải phóng dân tộc, đồng thời  
cũng là nhà văn hóa kiệt xuất. Phong cách của Người không chỉ  là bài học, là 
chuẩn mực cho việc xây dựng phong cách người cán bộ  cách mạng mà còn bồi 
dưỡng nhân cách cho các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau.
Sau khi học tập và làm theo tư  tưởng đạo đức, phong cách Hồ  Chí Minh 
với chuyên đề  năm 2018 “Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người  
đứng đầu, của cán bộ đảng viên”, tôi xin trình bày quan điểm của Bác về phong  
cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ đảng viên:
*Quan điểm của Bác về phong cách, tác phong công tác của người đứng  


đầu:
­ Phong cách dân chủ, nhưng quyết đoán
+ Cán bộ  lãnh đạo, nhất là người đứng đầu không được quan liêu, hách 
dịch, coi thường quần chúng nhân dân. Phải biết đời sống thực của Nhân dân, 
băn khoăn, trăn trở của dân để kịp thời uốn nắn và tháo gỡ cùng dân.
+ Cán bộ lãnh đạo, nhất là những người đứng đầu, là người có trọng trách  
trong một tập thể, vừa phải thực hành dân chủ, lắng nghe ý kiến của tập thể, 
đồng thời phải quyết đoán, nhận thức đầy đủ trách nhiệm và dám ra quyết định,  


dám   làm,   dám   chịu   trách   nhiệm.   Đây   cũng   chính   là   việc   thực   hiện   nghiêm 
nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”.
­  Phong cách lãnh đạo sâu sát
+ Vai trò: Lãnh đạo sâu sát sẽ nâng cao được tính khách quan, minh bạch, 
tăng cường được công tác kiểm tra, giám sát, từ  đó kiểm soát tốt hơn đối với 
việc thực thi quyền lực, kiểm tra, giám sát chặt chẽ  việc sử  dụng tài sản của 
Nhà nước, của Nhân dân, góp phần phòng, chống tham nhũng có hiệu quả. 
+  Cách thức: Hồ Chí Minh yêu cầu dựa vào quần chúng nhân dân để giám  
sát, kiểm tra, nhằm loại trừ các hành vi trục lợi, ăn cắp, tham ô, đục khoét, biến  
của công thành của riêng. Theo Hồ  Chí Minh, sau khi nghị  quyết đã được ban  
hành, phải tổ chức tốt việc thực hiện để nghị quyết đi vào cuộc sống. Điều đó  
gắn liền với công việc kiểm tra, giám sát. Muốn tốt, “phải đi tận nơi, xem tận  
chỗ”. Theo Người, sở dĩ sự thật còn bị bưng bít vì sự kiểm tra, giám sát của các  
ngành, các cấp không nghiêm túc, chưa chặt chẽ. Vì thế, người lãnh đạo cần 
phải đi cơ  sở, gặp gỡ  quần chúng, đọc báo, đọc thư  của Nhân dân; kiểm tra,  
giám sát, động viên, khen thưởng, nhắc nhở, phê bình, kỷ luật kịp thời...
­ Khéo dùng người, trọng dụng người tài
+ Là người lãnh đạo giỏi thì phải khéo dùng người và trọng dụng nhân tài.
+ Việc dùng người phải hợp lý, đúng năng lực và sở trường của họ, đúng  
người, đúng việc và phải cho họ  hiểu rõ mọi mặt các công việc mà họ  phụ 

trách.
+ Việc trọng dụng nhân tài theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là  
phải làm thường xuyên, liên tục như “người làm vườn vun trồng những cây cối 
quý báu.
­ Phong cách cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo
+ Một yêu cầu quan trọng trong phong cách của người đứng đầu, người 
lãnh đạo là phải có sự  thống nhất giữa tính đảng, tính nguyên tắc cao với tính 
năng động, sáng tạo, sự nhạy cảm với cái mới. 
+ “Trung với Đảng”, “trung với nước, hiếu với dân" là phẩm chất chính 
trị cơ bản, thể hiện trong mọi hoạt động của người lãnh đạo, quản lý. 
+ Nhiệt tình cách mạng là yếu tố cơ bản trong phẩm chất của người cán  
bộ đứng đầu, người lãnh đạo. 
+ Tính khoa học phải được đảm bảo bằng tri thức khoa học. Nhiệt tình  
cách mạng chỉ thực sự đem lại hiệu quả khi nó được thống nhất với các tri thức  
khoa học và trên cơ sở khoa học. 
+ Để  có tri thức khoa học, người cán bộ  lãnh đạo, người đứng đầu phải 
chịu khó học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ về chính trị, văn hóa, nghiệp  
vụ   cũng   như   nắm   được   tình   hình   trong   và   ngoài   nước.   Việc   học   tập   phải  
thường xuyên, liên tục, học tập cả lý luận và kiến thức khoa học, thực tiễn. 
+ Trong công việc, phải kiên định về  nguyên tắc nhưng mềm dẻo, linh 
hoạt về sách lược, hình thức, phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành.


*Quan điểm của Bác về phong cách, tác phong công tác của cán bộ đảng  
viên:

­ Phong cách dân chủ, quần chúng:
+ Phong cách dân chủ  hay “cách làm việc dân chủ” là phong cách hàng  
đầu mà người cán bộ cần phải có. 
+ Không khí dân chủ  thực sự  trong nội bộ  phải được tạo ra bằng cách  

thành tâm lắng nghe và khơi gợi cho cán bộ, đảng viên, quần chúng, cấp dưới  
nói hết quan điểm, ý kiến của mình. 
+ Người có phong cách dân chủ là thực hành tốt nguyên tắc “tập thể lãnh 
đạo, cá nhân phụ trách”; biết phát huy trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều người;  
thành thực lắng nghe ý kiến phê bình của cấp dưới và nghiêm túc sửa mình với 
tinh thần “cầu thị”. 
+ Dân chủ nhưng có định hướng, có lãnh đạo, dân chủ phải đi đến sự tập  
trung chứ không phải dân chủ quá trớn, dân chủ vô tổ chức. 
+ Gắn bó mật thiết với phong cách dân chủ là phong cách quần chúng. Hồ 
Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải có phong cách làm việc quần chúng, xuất 
phát từ  vấn đề  có tính nguyên tắc về  vai trò của quần chúng nhân dân: “Dễ 
mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. 
+ Phong cách quần chúng yêu cầu người cán bộ phải gần gũi quần chúng, 
lắng nghe và thấu hiểu mong muốn của quần chúng. Người cán bộ phải thường  
xuyên đi xuống cơ sở mà mình phụ trách, tìm hiểu thực trạng đời sống, tâm tư, 
nguyện vọng của quần chúng.
+ Phong cách quần chúng không có nghĩa là “theo đuôi quần chúng” mà 
phải có bản lĩnh vững vàng để vừa nâng cao trình độ, giác ngộ dân trí của quần 
chúng, tạo ra sự  chuyển biến tích cực trong nhận thức của một bộ  phận quần 
chúng “chậm tiến”, vừa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình.
­ Phong cách khoa học:
+ Khi xem xét và quyết định mọi việc đều phải điều tra, nghiên cứu, phân  
tích toàn diện, phải tôn trọng quy trình ra quyết định, tranh thủ  ý kiến của tập  
thể lãnh đạo và quần chúng.  
+ Làm việc phải có mục đích và kế  hoạch rõ ràng, thiết thực; biết quý  
trọng thời gian, phân bổ và tập trung giải quyết dứt điểm từng công việc; không 
ôm đồm; phải có tầm nhìn tổng thể, không được rơi vào “Bệnh cận thị”; phải 
có cách đánh giá đúng người, đúng việc, sắp xếp công việc cho hợp lý; có kiểm 
tra, giám sát công việc; có rút kinh nghiệm cho lần sau và cho người khác. 
­ Phong cách nêu gương:

+ Mỗi cán bộ, đảng viên đều phải tự làm gương trong mọi công việc, từ 
nhỏ  đến lớn, thể  hiện thưòng xuyên về  mọi mặt; phải cần, kiệm, liêm, chính, 
chí công vô tư, nói phải đi đôi với làm để  cán bộ, đảng viên và nhân dân noi  
theo.
+ Cần nêu gương trên ba mối quan hệ với mình, với người, với việc. Đối 
với mình phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo, luôn học tập cầu tiến bộ, 
luôn tự kiểm điểm để  phát triển điều hay, sửa đổi điều dở  của bản thân; phải  


tự phê bình mình như rửa mặt hằng ngày. Đối với người, luôn giữ thái độ  chân  
thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung,  độ 
lượng. Đối với việc, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công 
vi thượng” đặt việc công lên trên, lên trước việc tư.
+ Cách thức nêu gương: nói phải đi đôi với làm trong công tác và lối sống, 
trong mọi lúc, mọi nơi; phải nêu gương thường xuyên, liên tục.
+ Để  giáo dục bằng nêu gương đạt kết quả  cao, cần “Lấy gương người 
tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau”. 
*Bản thân là một cán bộ đảng viên, tôi nhận thấy để tu dưỡng, rèn luyện  
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mình cần phải:
­ Tăng cường rèn luyện, xây dựng phong cách làm việc của bản thân theo 
quan điểm của Bác.
­ Tích cực nghiên cứu, học tập và tham gia tuyên truyền chủ trương, chính 
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, nâng cao bản lĩnh chính trị, tuyệt đối  
trung thành, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng.
­ Bản thân tôi luôn yên tâm công tác và chấp hành tốt nội quy, quy chế của  
ngành, tin tưởng tuyệt đối vào đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của  
nhà nước, thực hiện tốt cuộc vận động "hai không" và thực hiện tốt các cuộc 
vận động khác.
­ Bản thân tôi không ngừng học tập và rèn luyện để  nâng cao trình độ 
chuyên môn, cũng như  trình độ  lí luận chính trị  cụ  thể  như: Về  chuyên môn 

tham gia đầy đủ, nghiêm túc các đợt học tập bồi dưỡng chuyên môn do phòng 
giáo dục và nhà trường tổ chức. Về chính trị tham gia đầy đủ các buổi học nghị 
quyết, chuyên đề do Đảng uỷ xã Hải Ninh tổ chức.
­ Thực hiện nghiêm quy định của ban chấp hành trung  ương về  những 
điều đảng viên kkông được làm và hưỡng dẫn của Ủy Ban kiểm tra Trung ương  
về việc thực hiện quy định này.
­ Gương mẫu, đi đầu trong đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, 
lãng phí, sẵn sàng nhận và chịu trách nhiệm khi vi phạm, quyết tâm sửa chữa, 
khắc phục.
­ Luôn quan tâm gần gũi để  thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng 
của học sinh, phụ  huynh. Luôn biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến tham gia của 
đồng nghiệp, cấp trên.
­ Gương mẫu trong tự  phê bình và phê bình theo tinh thần nghị  quyết  
Trung ương 4 khóa XI.
­ Luôn luôn xung phong, gương mẫu trong trong công tác, luôn luôn trau  
dồi đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ 
của công dân nơi cư trú.
­ Có ý thức trách nhiệm, tận tụy với công việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ 
được giao; tích cực học tập, nghiên cứu, tiếp thu và vận dụng có hiệu quả  các 
tri thức khoa học công nghệ hiện đại, các sáng kiến kinh nghiệm nhằm nâng cao  
chất lượng, hiệu quả giáo dục, công tác, học tập.


­ Chân thành giúp đỡ  đồng chí đồng nghiệp trong công tác, trong cuộc 
sống, bảo vệ  uy tín danh dự  của đồng chí, đồng nghiệp, không tranh công, đổ 
lỗi, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm cho người khác, kiên quyết đấu tranh chống 
các biểu hiện chia rẽ bè phái gây mất đoàn kết nội bộ trong nhân dân.
­ Đổi mới tác phong làm việc, tác phong công tác, nhất là phong cách công  
tác gần dân, tôn trọng nhân dân, có trách nhiệm với học sinh, sâu sát tới học  
sinh.

­   Không   ngừng   tu   dưỡng,   rèn   luyện   đạo   đức   trong   sáng,   gương   mẫu 
khiêm tốn giản dị, chống bệnh thành tích, hình thức.
­ Phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, thực hiện nghiêm nguyên tắc 
"Tập trung dân chủ".
­ Nâng cao tinh thần trách nhiệm, chủ  động, tích cực, quyết liệt trong  
công việc, nói đi đôi với làm.
Câu 2: Thế nào là sinh hoạt chuyên môn theo hướng tập trung nghiên  
cứu bài học? Đồng chí hãy thiết kế một hoạt động trong sinh hoạt chuyên 
môn theo hướng tập trung nghiên cứu bài học mà mình đã thực hiện trong  
năm?
Trả lời:
Sinh hoạt chuyên môn là hoạt động được thực hiện thường xuyên theo 
định kỳ  nhằm bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư  phạm cho giáo  
viên theo chuẩn nghề nghiệp thông qua việc dự giờ, phân tích bài học.
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học cũng là hoạt động sinh 
hoạt chuyên môn nhưng ở đó giáo viên tập trung phân tích các vấn đề liên quan  
đến người học như: Học sinh học thế nào? Học sinh đang gặp khó khăn gì trong 
học tập? nội dung và phương pháp dạy học có phù hợp, có gây hứng thú cho 
học sinh không, kết quả  học tập của học sinh có được cải thiện không? Cần 
điều chỉnh gì và điều chỉnh như thế nào?
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học không tập trung vào việc 
đánh giá giờ  học, xếp loại giáo viên mà nhằm khuyến khích giáo viên tìm ra 
nguyên nhân tại sao học sinh chưa đạt kết quả như ý muốn và có biện pháp để 
nâng cao chất lượng dạy học, tạo cơ  hội cho học sinh tham gia vào quá trình 
học tập; giúp giáo viên có khả năng điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học 
cho phù hợp với đối tượng học sinh của lớp, trường mình.
* Sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học gồm có 4 bước:
­ Bước 1: Xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch bài học nghiên cứu
­ Bước 2: Tiến hành dạy và dự giờ
­ Bước 3: Suy ngẫm, thảo luận về giờ dạy

­ Bước 4: Áp dụng cho thực tiễn dạy học hàng ngày
 
Trong năm học 2018 ­ 2019, tôi đã thực hiện chuyên đề  cấp trường môn  
Ôn Toán lớp 3 ; Bài: Ôn luyện tuần 9 (Tiết 1) – theo tài liệu ôn luyện buổi 2. Tôi 
thiết kế bước 1 (Chuẩn bị bài dạy ) như sau:
Chọn bài để dạy: Chọn bài dạy đúng chương trình học của học sinh theo  
tài liệu ôn luyện buổi 2.


Các GV trong tổ  1­2­3 của tôi đã có một cuộc thảo luận chi tiết, cụ  thể 
bài học tiến hành nghiên cứu như:
­ Đây là loại bài học gì?
­ Mục tiêu bài học là gì? 
 Dựa vào chuẩn kiến thức ­ kĩ năng để lập mục tiêu của bài, cụ thể là:
+ Biết sử  dụng ê­ke để  kiểm tra, nhận biết góc (vuông, không vuông) và vẽ 
được góc vuông (trường hợp đơn giản)
+ Biết tên gọi, kí hiệu của đơn vị độ dài đề­ca­mét, héc­tô­mét và quan hệ giữa  
chúng.
+ Sử  dụng ê­ke và chuyển đổi đơn vị  đo độ  dài đề­ca­mét, héc­tô­mét  ra mét 
thành thạo
+ Tự  hoàn thành được bài tập và biết chia sẻ  cùng bạn; tự  đánh giá được kết 
quả bài làm
­ Cách giới thiệu bài học như  thế  nào? (Bài này có thể  giới thiệu trực  
tiếp)
­ Sử dụng các phương pháp và phương tiện dạy học thế nào cho đạt hiệu  
quả cao? (Sử dụng phương pháp dạy học phân hóa, PPDH theo hướng phát triển 
năng lực của HS; HS chuẩn bị  các vật dụng cần thiết cho bài học như  ê­ke, 
thước,...)
­ Nội dung bài học chia ra những đơn vị kiến thức nào? (Bài này chia ra 2  
nội dung kiến thức: Tạo hỗn hợp gia vị; Tìm hiểu phương pháp tách các chất ra 

khỏi hỗn hợp)
­ Dự kiến tổ chức hoạt động dạy học nào tương ứng?
Dự kiến có 2 hoạt động dạy học:
A. Hoạt động thực hành:  
­ Hoàn thành các bài tập 1, 2, 3, 6 trang 46, 47 (theo logo tài liệu hướng dẫn ôn  
luyện)
­ Hoàn thành các bài tập bổ  sung  ở phiếu học tập (HĐ cá nhân theo đối tượng 
HS)
B. Hoạt động  ứng dụng: Luyện tập sử  dụng ê­ke để  kiểm tra, nhận 
biết góc (vuông, không vuông) và vẽ góc vuông.
Dự  kiến tích hợp nội dung giáo dục nào là phù hợp? (Tích hợp lòng say  
mê, yêu thích toán học nói chung và toán có yếu tố hình học nói riêng)
 
Sau khi kết thúc cuộc họp này, tôi sẽ hình thành giáo án từ đại cương bài 
đã chọn, cụ thể như sau:
ÔN TOÁN:                    ÔN LUYỆN TUẦN 9 (TIẾT 1)

  M
I.  ỤC TIÊU: 

­ Biết sử  dụng ê­ke để  kiểm tra, nhận biết góc (vuông, không vuông) và vẽ 
được góc vuông (trường hợp đơn giản)
­ Biết tên gọi, kí hiệu của đơn vị độ  dài đề­ca­mét, héc­tô­mét và quan hệ giữa  
chúng.


­ Sử  dụng ê­ke và chuyển đổi đơn vị  đo độ  dài đề­ca­mét, héc­tô­mét   ra mét 
thành thạo
­ Tự  hoàn thành được bài tập và biết chia sẻ  cùng bạn; tự  đánh giá được kết 
quả bài làm

II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC:  
­ GV: Ê­ke, thước, Phiếu BT bổ sung
­ HS: Ê­ke, thước
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
 Khởi động:  Ban văn nghệ bắt cho lớp hát một bài
Việc 1: GV giới thiệu bài và nêu mục tiêu bài học.
Việc 2: HS chia sẻ mục tiêu bài học
A. HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH
­ Nhất trí như tài liệu hướng dẫn
­ Hoàn thành các bài tập 1, 2, 3, 6 trang 46, 47
*Đánh giá:
­ Biết sử dụng ê­ke để vẽ được góc vuông (trường hợp đơn giản) trong BT1 và  
kiểm tra, nhận biết góc (vuông, không vuông) trong BT2
­ Biết quan hệ giữa đơn vị  đo độ  dài đề­ca­mét, héc­tô­mét; chuyển đổi đơn vị  
đo độ dài đề­ca­mét, héc­tô­mét ra mét trong BT3 và làm được các phép tính với  
đơn vị đo độ dài đề­ca­mét, héc­tô­mét trong BT6.
­ Sử  dụng ê­ke và chuyển đổi đơn vị  đo độ  dài đề­ca­mét, héc­tô­mét  ra mét 
thành thạo
­ Tự giác làm bài và chia sẻ với bạn, tự đánh giá được kết quả bài làm
 Hoàn thành các bài tập bổ sung sau và đổi phiếu chia sẻ với bạn: 
Bài 1: Dùng ê­ke kiểm tra số góc vuông trong hình bên và điền vào chỗ chấm. 
                                                                              A                            B
Có .......góc vuông                                   O
     
                                                                              D                            C
Bài 2: Viết kết quả vào chỗ chấm :
a) 4dam5m = ........m                           b) 8hm3m = .........m
*Đánh giá :
­ Biết sử dụng ê­ke để kiểm tra, nhận biết đúng góc (vuông, không vuông) trong  
BT1(Có 6 góc vuông)

­ Biết quan hệ  giữa đơn vị  đo độ  dài đề­ca­mét, héc­tô­mét, mét và  biến đổi  
đúng đơn vị đo độ dài đề­ca­mét, héc­tô­mét ra mét trong BT2:
a) 45m                      b) 830m
­ Tư duy linh hoạt, sáng tạo, tự làm được bài và biết chia sẻ kết quả với bạn.


B. HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG
   Luyện tập sử  dụng  ê­ke để  kiểm tra, nhận biết góc (vuông, không 
vuông) và vẽ góc vuông.
PHIẾU HỌC TẬP
 Hoàn thành các bài tập sau và đổi phiếu chia sẻ với bạn: 
Bài 1: Dùng ê­ke kiểm tra số góc vuông trong hình bên và điền vào chỗ chấm. 
                                                                              A                            B

Có .......góc vuông                                   O
     
                                                                              D                            C
Bài 2: Viết kết quả vào chỗ chấm :
a) 4dam5m = ........m                           b) 8hm3m = .........m
Câu 3: Thầy (cô) hãy trình bày kết quả  bồi dưỡng một Module mà  
mình tâm đắc và vận dụng có hiệu quả nhất trong năm học 2018 ­ 2019.
Trả lời:
Trong năm học 2018 ­ 2019, Module mà tôi tâm đắc và vận dụng có hiệu 
quả nhất là Module TH32: Dạy học phân hóa ở Tiểu học. Module TH32 trang bị 
cho tôi những hiểu biết cơ  bản về  dạy học phân hóa; phương pháp tiến hành  
dạy học phân hóa và có kĩ năng tổ chức, kết hợp các điều kiện để dạy học phân 
hóa ở tiểu học có hiệu quả:
1. Tầm quan trọng của việc dạy học phân hoá ở cấp tiểu học:
Quá trình dạy học gồm hai hoạt động có quan hệ hữu cơ: hoạt động dạy 
của giáo viên (GV) và hoạt động học của HS. Cả  hai hoạt động này đều được 

tiến hành nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục. Trong quá trình dạy học, cần dựa  
trên nhu cầu, hứng thú, thói quen và năng lực của người học. Chính vì vậy, việc 
dạy học theo nhóm đối tượng sẽ giúp cho tất cả HS đều tích cực học tập. Từ đó 
đạt được chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài học, đồng thời phát triển năng lực 
học tập của từng HS.
­ Dạy học phân hóa sẽ  giúp chúng ta khai thác tối đa năng lực của học 
sinh khá giỏi.
­ Dạy học phân hóa cũng sẽ giúp chúng ta phụ đạo, kèm cặp học sinh yếu  
kém tiến bộ trong học tập.
­ Tiến hành khảo sát, phân loại đối tượng học sinh ngay từ đầu năm học.
­ Lập kế hoạch kèm cặp giúp đỡ và bồi dưỡng các em.


­ Luôn quan tâm tới từng đối tượng học sinh, phát huy khả  năng học tập  
của từng em.
­ Trong mỗi tiết học ( tiết chính ) giáo viên cần phải chú ý tới các đối 
tượng học sinh . Học sinh yếu đưa các câu hỏi dễ  nhằm tạo hứng thú và giúp  
các em nắm dược các kiến thức cơ bản của môn học. Với học sinh khá giỏi đưa 
thêm câu hỏi mở rộng để phát huy khả năng sáng tạo của các em.
­ Tiết Bồi dưỡng – phụ đạo mà dạy nội dung toán cần được GV nghiên  
cứu kĩ từ khâu soạn bài. Bài soạn cần thể hiện rõ nội dung phân hoá đối tượng  
học sinh.
2. Phương pháp thực hiện dạy học phân hoá đối tượng ở một số môn  
học ở tiểu học.
Như  chúng ta đã biết, đổi mới phương pháp dạy học (PPDH)  ở tiểu học  
tập trung theo những định hướng cơ bản: Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng 
tạo của HS; hình thành và phát triển khả năng tự học cho HS; đảm bảo tính phù 
hợp với đối tượng giáo dục và đặc điểm vùng, miền; đảm bảo tính trực quan;  
thực hiện dạy học tích hợp… nhằm khơi dậy hứng thú học tập cho HS.
Ở tiểu học, đảm bảo tính phù hợp với đối tượng giáo dục là tôn trọng sự 

phát triển của mỗi cá nhân, tạo cơ hội phát triển tối đa khả năng cho mỗi người  
học qua dạy học phân hoá, bồi dưỡng HS có năng lực, phụ đạo HS yếu, HS có  
khó khăn trong học tập… Chấp nhận sự  đa dạng trong giáo dục thể  hiện tính  
nhân văn của GDTH. Tính phù hợp trong dạy học  ở tiểu học còn thể hiện ở sự 
phù hợp với đặc trưng môn học, hoạt động giáo dục; phù hợp với điều kiện,  
hoàn cảnh cụ thể của lớp học, của nhà trường, của địa phương…
Phương pháp thực hiện dạy học phân hoá đối tượng ở một số môn học ở 
tiểu học gắn liền với việc tổ chức dạy học. Tổ chức dạy học  ở tiểu học linh  
hoạt, đa dạng phù hợp với mỗi đối tượng HS và điều kiện của nhà trường. Có 
thể  tổ  chức học theo cá nhân, theo nhóm, theo lớp; có thể  học trong lớp hoặc  
ngoài lớp; có thể chuẩn bị bài ở nhà hay sinh hoạt theo các câu lạc bộ… giúp HS  
học tập hứng thú và đạt kết quả cao. Ví dụ, có thể tổ chức theo hướng các hoạt  
động giáo dục trên cơ sở phù hợp khả năng và nhu cầu của HS, chia HS theo các  
nhóm: Nhóm củng cố  kiến thức; nhóm bồi dưỡng năng khiếu, sở  thích; nhóm  
phát triển thể chất; nhóm phát triển nghệ  thuật; nhóm hoạt động xã hội… Nên 
dành thời gian thích đáng cho việc tự  học của HS với sự  hướng dẫn, giúp đỡ 
thích hợp của GV. Tất cả hướng vào mục tiêu phát triển toàn diện cho HS.   
Như  vậy, phương pháp, hình thức tổ  chức dạy học  ở  tiểu học phải phù 
hợp với nội dung, đối tượng, điều kiện cụ  thể  của mỗi lớp học. GDTH thực  
hiện mục tiêu dạy chữ  ­ dạy người, hướng tới mục tiêu phát triển con người  
toàn diện. Với mục tiêu đó, GV cần có cách nhìn tổng thể, tích hợp các nội dung  
giáo dục của các môn học, giải quyết hài hoà các nhiệm vụ  học tập, đó cũng 
chính là giải pháp tối ưu để đạt chất lượng, hiệu quả giáo dục ở tiểu học.
3. Các điều kiện để thực hiện hiệu quả việc dạy học phân hoá ở tiểu  
học:
a. Sơ lược một số vấn đề về cơ sở lí luận


Theo tác giả  Nguyễn Bá Kim, DHPH có thể   được thực hiện theo hai 
hướng: “DHPH trong” và “DHPH ngoài”. DHPH trong (hay còn gọi là phân hóa 

nội tại) là sử dụng những biện pháp phân hóa thích hợp với các đối tượng khác 
nhau trong cùng một lớp học, trong cùng khoảng thời gian, đảm bảo thống nhất 
một chương trình và kế hoạch dạy học. Nhìn bề ngoài “DHPH trong” không có 
gì khác biệt so với các lớp học thông thường. “ DHPH ngoài” là sử dụng những  
biện pháp phân hóa thích hợp để phân hóa rõ rệt về nội dung và cả hình thức tổ 
chức dạy học, tức là hình thành những nhóm ngoại khóa, lớp chọn, trường  
chuyên, sử dụng chương trình chuyên biệt, nội dung và kế hoạch
dạy học không lệ thuộc chặt chẽ vào SGK.
Trong   thực   tiễn   DH   hiện   nay,   thường   có   hai   hình   thức   DHPH   gọi   là 
“DHPH trung gian” và “DHPH bộ phận”. DHPH trung gian là DHPH dựa trên sự 
thống nhất của mục tiêu dạy học cho tất cá các đối tượng HS. HS có thể chọn  
một môn học hay lĩnh vực học tập mà mình ưa thích hoặc có sở trường để  học 
chuyên sâu theo chương trình và tài liệu riêng. Hình thức này  ở  tiểu học được  
gọi là dạy học theo chương trình tự  chọn. DHPH bộ  phận là DHPH diễn ra  ở 
cấp độ tổ chức hoạt động dạy học. Trong cùng một nội dung học tập, GV vận  
dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo cơ hội cho HS được 
học tập phù hợp với nhịp độ phát triển của cá nhân, nhằm đạt hiệu quả học tập 
cao nhất  ở  mỗi HS. Như  vậy có thể  coi DHPH trung gian là một cấp độ  của 
DHPH ngoài và DHPH bộ phận là một cấp độ của DHPH trong.
* Quy trình thực hiện DHPH ở tiểu học thường diễn ra như sau: Đánh giá,  
phân loại trình độ, năng lực học tập của  HS. Xây dựng kế hoạch, nội dung và 
lựa chọn hình thức, phương pháp dạy học cho phù hợp với từng nhóm  đối 
tượng hoặc từng đối tượng đặc biệt. Tổ  chức triển khai thực hiện. Kiểm tra, 
đánh giá và điều chỉnh, hoàn thiện.
b. Một số  khó khăn trong thực tiễn hiện nay khi thực hiện dạy học phân  
hóa
Qua trực tiếp làm công tác giảng dạy và qua trao đổi với các đồng nghiệp,  
tôi đã tổng hợp được một số khó khăn khi tiến hành dạy học phân hóa như sau:
­ Sĩ số lớp học hiện nay khá đông (mỗi lớp thường trên dưới 30 HS), nên 
việc dạy học phù hợp với từng đối tượng HS rất khó. Chưa kể đến việc HS có  

thể học tốt môn này nhưng chưa tốt môn khác nên cần phải có nhiều cách chia  
nhóm, phân loại đối tượng HS phù hợp theo từng môn học.
­ Cơ  sở  vật chất còn thiếu thốn; thiếu chương trình, tài liệu tham khảo; 
thiếu phương tiện kĩ thuật, đồ dùng dạy học,...
­ Trình độ đào tạo và năng lực sư phạm của đội ngũ GV tiểu học hiện nay 
chưa   đồng   đều,   chưa   có   nhiều   GV   có   năng   lực   và   kinh   nghiệm   trong   việc  
DHPH.
­ GV tiểu học phải dạy nhiều môn nên khó khăn trong việc chuẩn bị  kế 
hoạch bài dạy theo định hướng phân hóa.
­ Có thể  xuất hiện những biểu lộ mất tự tin hay mặc cảm về tâm lí đối 
với HS đầu cấp khi bị xếp vào nhóm yếu, kém cũng như tâm lí lo lắng của phụ 


huynh HS.
Để khắc phục những khó khăn trong thực tiễn nói trên, cần phải kết hợp 
nhiều giải pháp tổng thể  như  điều chỉnh sĩ số  lớp học; tăng cường cơ  sở  vật 
chất,  phương  tiện  dạy học;   tổ   chức biên  soạn  chương  trình,  nội  dung; bồi  
dưỡng chuyên đề cho đội ngũ GV, tăng cường học liệu cho HS.... Trong đó cần  
ưu tiên cho việc nâng cao năng lực nghề  nghiệp GV, hỗ  trợ  cho GV những  
nghiệp vụ sư phạm để DHPH có hiệu quả là cần thiết.
c. Một số  biện pháp về  nghiệp vụ  sư  phạm để  thực hiện dạy học phân  
hóa ở tiểu học đạt hiệu quả
Trong từng công đoạn của tiến trình DHPH như  đã trình bày  ở  trên, GV 
cần thực hiện những biện pháp về nghiệp vụ sư phạm như sau:
* Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra để đánh giá, chẩn đoán, phân loại đối 
tượng HS theo trình độ
­ Kết hợp kiểm tra định kì, kiểm tra thường xuyên và quan sát lớp học: 
GV cần thận trọng khi đưa ra kết luận một HS nào đó thuộc nhóm trình độ nào. 
Do vậy, cần phải kết hợp nhiều hình thức kiểm tra trong dạy học để có kết quả 
khách quan và chính xác. Ngoài việc kiểm tra định kì và kiểm tra thường xuyên,  

GV nên có sổ  tay ghi chép kết quả  quan sát, theo dõi hàng ngày, trong đó lưu ý  
đến những trường hợp đặc biệt, hoặc quá xuất sắc hoặc quá yếu để  tiến hành 
DHPH phù hợp.
­ Kết  hợp kiểm  tra  độ  khó và  độ  nhanh, tăng cường cho HS tự   đánh 
giá:Hiện nay, GV thường chỉ thiết kế đề  kiểm tra theo độ  khó. Để  có thể  phân 
loại sâu hơn, GV thiết kế đề  kiểm tra kết hợp độ  khó và độ  nhanh, tức là tăng 
số  lượng bài tập trong mỗi lần kiểm tra, kết quả   đánh giá không theo thang 
điểm 10 mà là GV ghi nhận trong cùng một khoảng thời gian đó, HS làm đúng 
được bao nhiêu bài. Cách làm này khuyến khích HS phát huy hết khả năng của 
mình đồng thời có thể tự đánh giá khả năng của mình so với các bạn.
*Phân bậc nhiệm vụ trong thiết kế kế hoạch bài dạy
Phân bậc nhiệm vụ học tập đối với nội dung mang tính lí thuyết:Kĩ thuật 
cơ bản cho việc thiết kế này là chia nhỏ nội dung học tập ra thành nhiều nhiệm  
vụ. HS khá, giỏi sẽ  thực hiện nhiệm vụ  khó hơn hoặc nhiều nhiệm vụ  hơn 
hoặc thực hiện không có sự hướng dẫn. HS TB hoặc yếu sẽ thực hiện ít nhiệm  
vụ, đơn giản hơn hoặc ít hơn, hoặc được những chỉ dẫn, hỗ trợ nhiều hơn.
Khi tổ chức DHPH nội dung thực hành luyện tập và sửa bài tập, thường  
yêu cầu cao về năng lực tổ chức và quản lý lớp học của người GV. Do đó GV  
cần dự  kiến về  thời gian và biện pháp sao cho phù hợp nhất để  phát huy khả 
năng của từng HS.
* Linh hoạt trong tổ chức hoạt động nhóm khi dạy học phân hóa
Tùy theo mục tiêu dạy học, việc chia nhóm có thể theo nhiều cách: Nhóm 
đôi (nhóm đối ngẫu), nhóm ngẫu nhiên, nhóm hỗn hợp và nhóm phân theo trình  
độ. Trong dạy học phân hóa, nhóm hỗn hợp được sử dụng khi nhiệm vụ của các 
nhóm là như nhau, với mục đích là HS giỏi sẽ giúp đỡ  HS yếu hơn. Nhóm theo  
trình độ được sử dụng khi mức độ yêu cầu của nhiệm vụ từng nhóm khác nhau,  


như  ví dụ  nêu  ở  trên hoặc trong thực hành giải bài tập để  mỗi nhóm được yêu 
cầu làm những bài tập với độ khó khác nhau.

* Giao tiếp trong dạy học phân hóa
Đối với GV, lời nói của GV trong dạy học hoặc giao tiếp với HS rất có ý  
nghĩa vì đặc điểm tâm lí cơ bản của lứa tuổi này là vô tư  và hồn nhiên, các em  
đặt rất nhiều niềm tin vào giáo viên. Do vậy, GV cần có kĩ thuật nói rõ ràng, tốc 
độ   vừa   phải,   dễ   nghe,   thân   thiện   nhưng   nghiêm   túc   và   luôn   khuyến   khích. 
Không nên gay gắt hay nặng lời với những HS yếu kém. Với mỗi trường hợp,  
cần tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ HS phù hợp.
Đối với HS, GV nên khuyến khích HS nói lại bằng ngôn ngữ của mình khi 
hiểu một nội dung học tập nào đó. Ví dụ như mô tả lại cách hiểu các mối quan 
hệ trong một bài toán, cách thực hiện các bước giải một bài toán, ... để giúp HS  
hiểu sâu sắc và ghi nhớ  tốt hơn, đồng thời giúp GV có cơ  sở  để  đánh giá HS 
trung thực hơn.
*Kết quả vận dụng trong dạy học sau khi bồi dưỡng module TH32:
Sau khi bồi dưỡng module TH32, tôi đã tiến hành thực hiện dạy học phân 
hóa trong các tiết dạy Toán, Tiếng Việt tại lớp chủ  nhiệm. Tôi không chỉ  vận  
dụng trong các tiết dạy hình thành kiến thức mới mà còn vận dụng rất hiệu quả 
trong các tiết ôn luyện vào buổi thứ hai trong ngày. Phương pháp dạy học phân  
hóa đã giúp tôi phát huy tối đa sự chủ động, sáng tạo, khả năng tìm tòi khám phá  
của đối tượng HS khá, giỏi mà còn giúp tôi phát huy tốt hiệu quả trong việc kèm 
cặp, phụ  đạo giúp HS yếu, trung bình nắm kiến thức cơ  bản và lấp lỗ  hỏng 
kiến thức. Vào đầu năm học, đối tượng HS khá, giỏi lớp tôi chưa thành thạo 
tron việc giải các bài tập khó, nâng cao nhưng cuối năm đã giải thành thạo và có 
khả  năng tư  duy sáng tạo rất tốt. Qua khảo sát đầu năm, lớp tôi cũng có 5 em 
chưa hoàn thành và có dấu hiệu bị hỏng kiến thức lớp dưới nhưng sau khi vận 
dụng phương pháp dạy học phân hóa tôi đã tích cực kèm cặp, hỗ trợ và giúp các  
em theo kịp các bạn trong lớp, cuối năm các em đều hoàn thành các môn học và 
hoạt động giáo dục, hoàn thành chương trình lớp học.

III. Nội dung bồi dưỡng 3
Các Module bồi dưỡng trong năm học (TH02, TH32, TH 43, TH45), tôi thấy  

tâm đắc và vận dụng có hiệu quả  trong năm học là Module TH 32 ­ Dạy học  
phân hóa đối tượng học sinh ở Tiểu học.
 Bám sát mục tiêu giáo dục tiểu học, nhiệm vụ của giáo dục tiểu học, khái 
niệm của dạy học phân hóa, ý nghĩa của việc dạy học phân hoá ở cấp tiểu học 
và phương pháp thực hiện dạy học phân hoá đối tượng  ở  một số  môn học  ở 
tiểu học. Đặc biệt là bám sát vào chỉ  tiêu, biện pháp của nhà trường, tổ  chuyên 
môn và chỉ tiêu đăng kí của lớp 2.1 trong năm học 2018­ 2019, tôi đã áp dụng các 
phương pháp, hình thức tổ  chức dạy học và các khâu tiến hành dạy học phân 
hóa ở một số môn học cụ thể đó là môn Toán, Tiếng Việt như sau:


1. Tiến hành khảo sát, phân loại đối tượng học sinh ngay từ đầu năm  
học.
*Đối tượng học sinh nổi trội.
­ Môn Tiếng Việt : HS đọc đúng, to, rõ ràng, ngắt nghỉ  lấy hơi đúng chỗ,  
bước đầu thể hiện được giọng đọc, viết đảm bảo tốc độ, tìm từ, đặt câu nhanh,  
viết được đoạn văn ngắn giàu hình ảnh.
­ Môn Toán : Kĩ năng làm tính, giải toán, tìm thành phần chưa biết của phép 
tính,… đúng, nhanh. Ngoài ra làm được một số  dạng bài tập nâng cao từ  kiến 
thức đã đxược học.
    Kết quả khảo sát chất lượng của lớp đầu năm học 2018 ­ 2019 và những em 
có khả  năng phát triển trong qua sự  theo dõi đề  nghị  của các giáo viên năm 
trước).
Thực trạng của đối tượng học sinh nổi trội:
­ Môn Tiếng Việt:
+ Lượng kiến thức về  phân môn Tiếng Việt đối với HS lớp 2 quá nhiều.  
Các hoạt động về tìm từ, các mẫu câu, viết đoạn văn đây là năm đầu tiên các em  
được làm quen nên các em rất mơ hồ.
+ Một số từ trong các bài được học khó hiểu, do đó các em chậm trong việc 
tìm và hiểu các từ ngữ. 

+ Kĩ năng viết câu, đoạn văn của HS chưa tốt.
­ Môn Toán
+ Do đặc điểm lứa tuổi, khả năng tư duy của các em chưa cao nên việc giải 
các bài toán nâng cao còn rất chậm. 
+ HS chưa biết cách dựa vào kiến thức cơ bản để triển khai, mở rộng trong  
cách giải và các bước giải.
+ Chưa biết lí luận, dẫn dắt khi làm các bài tập có nhiều bước giải.
+ Các bài tập được GV hướng dẫn làm các em lại hay quên nếu không được 
giải nhiều lần.
+ Khả năng nhận dạng bài tập thuộc kiến thức bài học còn chậm.
*Đối tượng học sinh còn hạn chế
­ Lớp 21 có tổng số 37 em.
­ Đối tượng HS trong lớp (Từ đầu năm học 2018 ­ 2019, HS đọc, viết tìm từ, 
viết đoạn văn còn chậm, tiếp thu Toán còn hạn chế).
Thực trạng của đối tượng học sinh còn hạn chế:
Đặc điểm chung của các em mức độ  tiếp thu bài rất chậm, khả  năng nhận  
diện, ghi nhớ  vần còn hạn chế, chữ  viết không đúng mẫu, chưa đúng khoảng 
cách, đọc còn đánh vần; tìm từ, đặt câu, viết đoạn văn còn quá mơ  hồ. Kĩ năng  
tính, giải toán còn chậm; chưa biết vận dụng kiến thức đã học vào làm toán, ít 
chú ý xây dựng bài, về nhà không ôn bài cũ, không chuẩn bị bài mới, có thói quen 
nhìn bài bạn mỗi khi làm bài tập, không tích cực trong hoạt động nhóm; năng  
lực tự học, tự giải quyết vấn đề còn hạn chế,...
2. Áp dụng các phương pháp, hình thức tổ  chức dạy học và các khâu 
tiến hành dạy học phân hóa ở một số môn học (Toán, Tiếng Việt)


­ Lập kế hoạch kèm cặp giúp đỡ và bồi dưỡng các em.
­ Tiết Bồi dưỡng – phụ đạo mà dạy nội dung toán cần được GV nghiên cứu 
kĩ từ khâu soạn bài. Bài soạn cần thể hiện rõ nội dung phân hoá đối tượng học 
sinh.

2.1. Dạy học phân hóa trong giờ học chính khóa.
­ Lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền tảng.
­ Tìm cách đưa đối tượng HS còn hạn chế theo kịp trình độ chung.
­ Tìm cách đưa diện học sinh nổi trội đạt những yêu cầu nâng cao trên cơ sở 
đã đạt được những yêu cầu cơ bản.
Trong giờ học chính khóa, tôi thường sử dụng những hình thức phân hóa sau:
+ Đối xử cụ thể ngay trong những giờ dạy học đồng loạt dựa trên trình độ 
phát triển chung.
Ví dụ: GV giao nhiệm vụ  phù hợp với từng loại đối tượng, khuyến khích 
học sinh hạn chế khi các em tỏ  ý muốn trả  lời câu hỏi, phân hóa việc giúp đỡ, 
kiểm tra và đánh giá học sinh.
+ Ra bài tập có phân bậc hoặc ra thêm bài tập để đào sâu, nâng cao cho HS  
nổi trội.
+ Phân hóa sự  giúp đỡ  của GV, HS còn hạn chế  được giúp đỡ  nhiều hơn 
học sinh nổi trội.
+ Tác động qua lại giữa các học sinh, lấy chỗ  mạnh của học sinh này để 
điều chỉnh nhận thức cho học sinh khác.
+ Phân hóa bài tập vận dụng về nhà theo số lượng bài tập, theo nội dung bài 
tập, theo yêu cầu về tính độc lập. Ra riêng bài tập cho học sinh còn hạn chế và 
ra riêng bài tập cho học sinh nổi trội.
Cụ thể: 
*Đối với môn Tiếng Việt
+ GV tìm thêm tài liệu để cung cấp cho các em thêm các dạng về tìm từ, đặt  
câu theo mẫu Ai­ là gì? Ai­ làm gì? Ai­ thế  nào? Các câu hỏi gợi ý để  các em  
dựa vào đó trình bày đoạn văn ngắn,... . Hướng dẫn các em cách học (theo quy  
trình 4 việc).
+ HD các em nắm vững các dấu hiệu của câu và cách vận dụng.
+ Luyện kỹ  năng làm các bài tập về  thực hành ngữ  âm và thực hành chính 
tả .
+ Đọc kĩ đề  bài, nắm chắc yêu cầu của bài tập. Hướng dẫn các em nắm  

vững: đề bài yêu cầu trả lời được điều gì? Cần nêu bật được ý gì?
*Đối với môn Toán:
­ Với mỗi bài tập nâng cao, hướng dẫn HS nhận diện được dạng bài tập đó 
thuộc phạm vi kiến thức nào, từ đó, dựa vào kiến thức cơ bản để triển khai, mở 
rộng các bước giải.
Ví dụ: Bố năm nay 34 tuổi, bố hơn con 26 tuổi. Hỏi con năm nay bao nhiêu  
tuổi?
+ Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề  toán, xác định bài toán thuộc dạng  
toán gì đã học. ( Bài toán về ít hơn).


+ Khi học sinh đọc và xác định đúng dạng toán, các em dễ dàng đặt lời giải, 
lập phép tính để giải bài toán đó.
­ Với các bài tập có nhiều bước giải, GV hướng dẫn cụ thể dựa vào các dữ 
kiện của bài toán để các em hiểu và biết cách lí luận, dẫn dắt theo từng bước.
­ Mỗi dạng bài tập, GV cho HS giải nhiều lần; thường xuyên ôn tập, củng 
cố để các em nhớ kĩ và khỏi nhầm lẫn giữa dạng này với dạng khác.
2.2. Hoạt động ngoại khóa
Kết hợp với GV Tổng phụ trách Đội trong nhà trường, các tiết sinh hoạt Sao 
nhi đồng cuối tuần, các giờ  đọc sách,... để  cho HS tham gia các hoạt động lĩnh 
hội kiến thức, thực hành kĩ năng nhằm gây hứng thú cho các em học tập bộ 
môn, đào sâu mở rộng kiến thức.
2.3. Bồi dưỡng học sinh nổi trội
Trong quá trình học tập một môn học, có những học sinh có trình độ  kiến 
thức, kĩ năng và tư  duy vượt trội so với các học sinh khác, có khả  năng hoàn 
thành nhiệm vụ môn học một cách dễ dàng. Việc bồi dưỡng cho đối tượng HS 
này được tiến hành trong những giờ học đồng loạt bằng những biện pháp phân 
hóa, mặt khác được thực hiện bằng cách bồi dưỡng tách riêng trên nguyên tắc 
tự nguyện.
Nội dung bồi dưỡng HS nổi trội bao gồm:

­ Nghe thuyết trình những tri thức bộ môn bổ sung cho nội khóa.
­ Giải những bài tập nâng cao.
­ Thực hành và ứng dụng môn học.
­ Làm nồng cốt cho những sinh hoạt ngoại khóa bộ môn.
­ Đưa thêm câu hỏi mở rộng để phát huy khả năng sáng tạo của các em.
2.4. Giúp đỡ những học sinh còn hạn chế
Trước những yêu cầu dạy học đồng loạt của bộ môn, một số  học sinh gặp 
khó khăn, kết quả  kiểm tra thường xuyên  ở  mức dưới trung bình. Sự  hạn chế 
học tập một bộ  môn có nhiều biểu hiện, trong đó có các biểu hiện cơ  bản: 
Nhiều lỗ  hỏng về  kiến thức, kĩ năng; tiếp thu chậm; phương pháp học tập bộ 
môn chưa tốt.
Việc giúp đỡ học sinh hạn chế một bộ môn được tiến hành bên cạnh những 
giờ  học đồng loạt bằng các biện pháp phân hóa, đồng thời cần tách riêng diện  
học sinh này để giúp đỡ vào cuối buổi học.
Nội dung giúp đỡ đối tượng học sinh còn hạn chế tôi thường thực hiện theo 
các hướng: 
­ Luyện tập vừa sức (gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại và mức độ, sử 
dụng bài tập phân bậc)
­ Đưa các câu hỏi dễ nhằm tạo hứng thú và giúp các em nắm dược các kiến 
thức cơ bản của môn học. 
­ Lấp "lỗ hỏng" về kiến thức và kĩ năng.
­ Đảm bảo nhứng tiền đề về kiến thức, kĩ năng cho những tiết lên lớp.
­ Bồi dưỡng phương pháp học tập bộ môn.
Cụ thể:


­ Đối với môn Toán:
+ Đưa ra các dạng bài toán giải đơn giản với con số  nhỏ  (có đồ  dùng minh 
họa) để em dễ hình dung, hướng dẫn cách tìm các bước giải và cách đặt lời giải 
phù hợp với phép tính. 

+ Hướng dẫn cách đọc kĩ các dạng toán trước khi làm bài.
+ Rèn thói quen tính toán cẩn thận, chính xác.
­ Đối với môn Tiếng Việt:
+ Luyện kĩ năng đọc to, rõ ràng, ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ, đọc đúng tốc độ.  
Khuyến khích các em đọc có diễn cảm.
+ Luyện kĩ năng tìm từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động, từ chỉ đặc điểm, từ trái  
nghĩa và các mở rộng vốn từ thuộc chủ điểm đã học.
+ Luyện viết chữ đúng mẫu chữ, viết đảm bảo tốc độ.
+ Luyện đặt câu theo mẫu: Ai – là gì? Ai – làm gì? Ai – thế nào?...
+ Luyện viết đoạn văn ngắn.
Ngoài việc hỗ trợ, giúp đỡ các em tiếp thu kiến thức, GV đặc biệt chú ý đến 
các vấn đề :
­ Thương yêu quan tâm, động viên, nhắc nhở, nắm bắt cụ thể hướng phấn  
đấu của em vì mục tiêu, kế hoạch chung của lớp, của trường…
­ Động viên, khích lệ, tuyên dương kịp thời.
2.5. Thực hiện các khâu tiến hành dạy học phân hóa ở lớp học
­ Đánh giá, phân loại học sinh:
Tìm hiểu đối tượng, thấy được ưu điểm và mặt hạn chế còn tồn tại của đối 
tượng dạy học. Đây là cơ sở  để xác định mục tiêu dạy học hợp lí, phù hợp với 
đối tượng. Để  thực hiện tốt khâu đầu tiên này, tôi đã kết hợp linh hoạt và đa 
dạng các hình thức kiểm tra để  đánh giá, chẩn đoán, phân loại đối tượng học  
sinh theo trình độ cụ thể.
+ Kết hợp kiểm tra định kì, kiểm tra thường xuyên và quan sát lớp học. 
Trong qua trình dạy học, tôi luôn dùng sổ tay ghi chép kết quả quan sát, theo dõi 
hàng ngày, trong đó lưu ý đến những trường hợp đặc biệt để tiến hành phân hóa 
phù hợp.
+ Kết hợp kiểm tra độ  khó và độ  nhanh, tăng cường cho học sinh tự  đánh 
giá.
Cách làm này đã khuyến khích học sinh phát huy hết khả  năng của mình 
đồng thời có thể tự đánh giá khả năng của mình so với các bạn.

­ Xác định mục tiêu cho nhóm đối tượng hoặc từng đối tượng đặc biệt.
­ Lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức tổ  chức cho các nhóm đối  
tượng, cho từng đối tượng.
­ Tổ  chức thực hiện theo mục tiêu đã xác định với các nội dung, phương  
pháp, hình thức tổ chức đã lựa chọn.
­ Kiểm tra, đánh giá và tổ chức cho học sinh tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả 
học tập (hoạt động) của các nhóm đối tượng. Khâu này cũng đã giúp cho GV thu 
được những thông tin ngược ý nghĩa để có sự điều chỉnh kịp thời và hiệu quả.


­ Điều chỉnh, hoàn thiện chương trình, phương pháp, cách thức dạy học phân 
hóa đã tiến hành để thu được hiệu quả cao hơn trong những lần tiếp theo.
3. Kết quả đạt được.
*Chất lượng HSNK:
Đạt 2 giải Nhì, 1 giải ba, hội thi chữ viết cấp trường.
Đạt 1 giải ba vẽ tranh tập thể. 
Đạt 1 giải nhất về phần thi kiến thức trong ngày hội HS Tiểu học cấp 
trường.
*Chất lượng đại trà:

Khối
lớp

Số 
HS 
Đạt 
TS đượ
điểm
HS


9 ; 10
đánh  SL %
giá

Đạt 
điểm
7 ; 8
SL %

Kết quả
Đạt 
điểm
5 ; 6
SL %

Đạt 
điểm
3 ; 4
SL %

Đạt 
điểm
1 ; 2
SL %

Ghi 
chú

2,
2,

0
0
1
7
7
2,
2,
T. Việt 37
37
26 70,3 9 24,3 1
0
0
1
7
7
      Như  vậy nhìn vào kết quả  đạt được ở  trên, một lần nữa khẳng định rằng,  
dạy học phân hóa đối tượng mà bản thân tôi đã áp dụng đã mang lại hiệu quả.  
Chất lượng học tập của các em ngày càng tiến bộ. Nhiều em đã phát huy hết 
được năng lực sở trường của mình.
Toán

37

37

27

73,0

8


21,6

1



×