A.M
Ở ĐẦU
I/ PHẦN MỞ ĐẦU:
Lời bất hủ của thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc sinh thời đã nói “ Nét
chữ nết người “. Quả thật như thế: Chữ viết cũng là biểu hiện của nết
người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần
rèn cho các em tính cẩn thận lòng tự trọng đối với mình, cũng như đối
với thầy cô và bạn đọc bài vở của mình .
Từ những buổi đầu tiên khi bước chân tới trường, trẻ bắt đầu làm
quen với việc học đọc, học viết. Vui sướng bao nhiêu khi các bậc cha
mẹ nhìn thấy con mình tròn môi đánh vần và gắng viết những nét chữ
đầu tiên .Nếu như học vần, tập đọc giúp trẻ đọc thông thì tập viết giúp
trẻ viết thạo mở đường cho trẻ ghi nhanh, ghi sáng những điều thầy cô
giảng và cả những điều trẻ nghĩ. Nhìn trang vở tập viết với những dòng
chữ đều tăm tắp, sạch sẽ, lòng ta dấy lên niềm vui, ta như được củng cố
thêm niềm tin vào tương lai con trẻ. Nhưng muốn viết thạo trẻ phải
gắng công khổ luyện dưới sự chăm sóc tận tình của các thầy giáo, cô
giáo .
Tập viết ở trường Tiểu học truyền thụ cho học sinh những kiến
thức cơ bản về chữ viết, học sinh nắm bắt được các kiến thức cơ bản
về cấu tạo bộ chữ cái la tinh và ghi âm Tiếng Việt, sự thể hiện chữ này
trên bảng, vở, đồng thời được hướng dẫn các yêu cầu kỹ thuật viết các
nét chữ, chữ cái, tiếng, từ và câu, rồi tiến đến viết một đoạn văn hoặc
cả bài. Vì vậy để có khả năng dạy tốt phân môn Tiếng Việt ở lớp 1 theo
nội dung sách giáo khoa và vở tập viết, tôi đã nghiên cứu đầy đủ về mẫu
chữ viết trong trường tiểu học được thực hiện từ năm học 2002 – 2003.
Nắm vững một số quy định về dạy và học viết chữ ở trường Tiểu học
theo Quy định số: 31/2002/QĐBGD&ĐT ngày 14 tháng 6 năm 2002 của
Bộ trưởng bộ Giáo dục và đào tạo. Để so sánh về độ cao, hình dạng
cách trình bày với mẫu chữ tại Thông tư 29/TT ngày 25 tháng 9 năm
1
1986, để tạo điều kiện thuận lợi cho dạy và học theo xu hướng mới cho
học sinh lớp 1 nói riêng và học sinh Tiểu học nói chung.
Riêng ở lớp 1 việc dạy tập viết được phối hợp nhịp nhàng với
việc dạy học vần, học sinh luyện viết chữ dưới hai hình thức chủ yếu:
Luyện viết chữ trong các tiết học âm, chữ ghi âm vần và viết theo các
yêu cầu kỹ thuật trong các tiết tập viết. Ngoài các ý nghĩa to lớn nói trên
tập viết với những quy tắc chặt chẽ tr ước những mẫu chữ đẹp còn là
môi trường quan trọng bồi dưỡng cho trẻ những phẩm chất như: Tính
cẩn thận , tinh thần kỷ luật và óc thẩm mỹ. Là một giáo viên trực tiếp
dạy lớp 1 trong năm học 2010 2011, tôi nhận thấy “ Tập viết là một
trong những nội dung có tầm quan trọng đặc biệt ở Tiểu học, nhất là đối
với học sinh lớp1 “. Bởi lẽ tập viết trang bị cho học sinh ch ữ cái La tinh
và những yêu cầu kỹ thuật để sử dụng bộ chữ cái đó trong học tập và
giao tiếp, Nếu viết chữ đúng mẫu, rõ ràng, tốc độ nhanh thì học sinh có
điều kiện chép bài tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn, viết xấu,
tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập.
Ngày nay, chất lượng chữ viết của học sinh bậc tiểu học nói riêng và
các cấp học nói chung đang là vấn đề được mọi người quan tâm. Thật
đáng buồn biết bao khi tỉ lệ học sinh chữ rõ ràng, đủ nét, ngay ngắn,
thẳng hàng càng thấp. Trong thực tế có những học sinh viết rồi mà khi
đọc lại thì không đọc nổi nổi chữ của mình nói gì tới giáo viên đọc để
chấm, chữa bài. Vì vậy rèn luyện học sinh có kỹ năng viết chữ đẹp ngày
càng được quan tâm, chú trọng đặc biệt.
Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài :
“ Phương pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1 “ nhằm giúp các em có
một vốn kiến thức về cấu tạo chữ viết ,quy trình viết chữ vững chắc để
học lên các lớp học trên được tự tin hơn
II/ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
2
Trong quá trình giảng dạy tôi thấy đối tượng học sinh của tôi
( phát âm chưa chuẩn tiếng phổ thông ), một số em còn nói ngọng do đó
các em hay viết sai lỗi chính tả.
Ví dụ: ch/tr; s/x; ?/~
uynh, inh; hưu,hiêu…
Cách đặt bút, dừng bút của các em chưa rõ ràng gây cho học sinh
lúng túng trong khi viết.Tư thế ngồi viết chưa đúng như: Lưng không
thẳng ,các em còn ngồi tự do như đang ngồi chơi . Ngực tì vào cạnh bàn,
mắt cúi sát xuống trang vở ,hai chân choải dài ,lưng không thẳng .
Là lớp đầu cấp nên học sinh chưa có ý thức nề nếp học tập và
phương pháp học.
Trong lớp vẫn còn một số em chưa qua lớp mẫu giáo. Một số em
do sức khoẻ yếu nên tác phong chậm, ảnh hưởng nhiều đến tác phong
học tập .
Hầu hết học sinh nói chung, học sinh lớp 1A nói riêng cha mẹ
sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, đi làm thuê con ở nhà với ông bà,
kinh tế gia đình gặp nhiều khó khó khăn, bố mẹ không mấy quan tâm
đến việc học của con em, phó mặc hoàn toàn cho cô giáo chủ nhiệm.
Các em còn thiếu bút, vở ,đồng thời trong quá trình dạy dỗ các em cách
học ,cách viết đều do cô đảm nhận để các em hình thành một thói quen
ngay từ đầu cấp học Vì bố mẹ ông bà ít ai quan tâm đến việc con cái
của họ có ngồi đúng tư thế học hay không vì thực ra họ cũng không
hiểu được tư thế ngồi viết bài có tầm quan trọng trong cả quá trình học
tập và rèn luyện như thế nào..
Các em đang học từ mẫu giáo vừa học vừa chơi, nay đến tr ường
Tiểu học phải thực hiện nề nếp: Học ra học, chơi phải tuân thủ theo nội
quy, quy định của nhà trường. Vì vậy giáo viên rất khó khăn trong khâu
quản lý và đưa các em vào nề nếp . Hơn nữa các em tiếp xúc với kiến
thức học cao và nhiều cái mới lạ mà cha mẹ các em ít hoặc không nắm
3
được . Điều này gây không ít khó khăn trong công tác giảng dạy của giáo
viên và học tập ở nhà của học sinh:
Chưa đảm bảo điều kiện vật chất, đồ dùng học tập viết đúng
quy định, khoa học.
Bên cạnh số học sinh chịu khó, chăm chỉ tập viết cũng có học
sinh ngại viết hay viết ngoáy, ý thức tự học kém, chưa kiên trì và và
chịu khó học tập.
Trong cuộc họp phụ huynh giữa năm học khi chưa nhắc đến có
em còn viết chữ xấu thì có một số phụ huynh phát biểu như sau:
Tay các em nhỏ nên cầm bút khó, mỏi
Việc học hành chữ xấu hay đẹp là nhờ các thầy cô dạy bảo ở
trường, gia đình chị vì bận và còn một phần phụ huynh thì bảo Con cái
chỉ nghe lời cô mà không nghe lời bố mẹ .
Sau khi nhận lớp được 2 tuần, tôi tiến hành kiểm tra về chữ viết
của học sinh bằng việc cho học sinh viết lại các chữ cái đã học: e, ê, b,
v, l, h (Mỗi chữ một dòng trong vòng 30 phút )
Tổng hợp kết quả xếp loại vở sạch chữ đẹp đầu năm.
Tổng
Chữ loại A
Chữ loại B
Chữ loại C
số h/s
28
SL
TL
SL
%
SL
%
2
7,12
19
67,64
7
24,92
Qua khảo sát đầu năm, tôi thấy học sinh viết còn yếu chưa nắm
vững được quy tắc viết. Cách ngồi chưa đúng tư thế, cách cầm bút chưa
đúng quy định. Vì vậy các em viết còn xấu và chưa chuẩn về độ cao,
kích thước cho nên chất lượng chữ viết đầu năm còn kém.
III / KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ CỦA THỰC TRẠNG:
1/ KẾT QUẢ CỦA THỰC TRẠNG:
4
Sau một thời gian giảng dạy và nghiên cứu nắm được thực trạng của
học sinh đầu cấp học nên tôi đã giúp học sinh:
Viết đúng: Hình dáng, đường nét, khoảng cách chữ ...
Viết đẹp: Tính thẩm mỹ của bài viết, viết liền nét chữ ...
Viết nhanh: Đảm bảo tốc độ quy định
Mặt khác các em lại rèn được đức tính kiên trì khi học và khi làm bài.
2/ HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯƠC:
Hiệu quả đạt được sau gần một năm giảng dạy như sau:
Định kỳ
Chữ loại A
Chữ loại B
Chữ loại C
SL
%
SL
%
SL
%
Đầu
năm
2
7,12
19
67,64
7
24,92
Giữa kỳ
I
10
35,7
18
64,3
Cuối kỳ
I
15
56,2
13
43,8
Giữa kỳ
II
20
71
8
29
Cho đến nay lớp tôi còn 8 em chữ viết xếp loại B, tôi sẽ cố gắng
nhiều hơn, sát sao hơn để uốn nắn các em đến cuối năm học chất
lượng chữ viết lọai A được nâng cao hơn nữa cả về chữ và vở.
B/ NỘI DUNG
I/ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
5
+ Về hình thức: Tập viết dạy học sinh những khái niệm cơ bản
về đường kẻ, dòng kẻ, toạ độ viết, tên gọi nét chữ, cấu tạo chữ cái, vị
trí dấu thanh, dấu câu , các khái niệm liên kết nét chữ hoặc liên kết các
chữ … Từ đó hình thành cho các em những biểu tư ợng về hình dáng, độ
cao, sự cân đối, tính thẩm mỹ của chữ viết.
+ Về kỹ năng: Dạy học sinh các thao tác chữ viết từ đơn giản
đến phức tạp bao gồm kỹ năng viết nét, liên kết nét tạo chữ cái và liên
kết chữ tạo chữ ghi tiếng. Đồng thời giúp các em xác định khái niệm cỡ
chữ trên vở kẻ ô ly để hình thành kỹ năng viết đúng mẫu chữ , rõ ràng
và cao hơn là viết nhanh viết đẹp. Ngoài ra tư thế ngồi viết, cách cầm
bút, để vở, cách trình bày bài viết cũng là một kỹ năng đặc thù của việc
dạy học tập viết mà giáo viên cần thường xuyên quan tâm chú ý đến.
+Tư thế ngồi viết:
Lưng thẳng
Không tỳ ngực vào bàn
Đầu hơi cúi
Mắt cách vở 25 30 cm
Tay phải cầm bút, tay trái tỳ nhẹ lên mép để giữ vở
Hai chân để song song thoải mái
Tiếp tục dạy học sinh cách cầm bút
Cầm bút bằng 3 ngón tay ( Ngón cái, ngón giữa, ngón trỏ ) kể cả
khi viết ( Hai ngón tay và phần dưới của bàn tay là chỗ dựa khi viết )
Tiếp tục hướng dẫn học sinh cách viết. Sau khi hướng dẫn tỷ mỉ
tôi dành hẳn một tiết đầu để tập cho các em làm, tôi quan sát từng em
để sửa lại cho học sinh.
Việc tập viết không đảm bảo quy định đã được xây dựng trên cơ
sở khoa học sẽ để lại nhiều di hại suốt cuộc đời học sinh. Mắt cận, cột
sống cong vẹo, lưng gù.....do ngồi không đúng tư thế.
6
Vì vậy khi hướng dẫn học sinh tập viết cần phải coi việc phối
hợp đồng bộ các bộ phận Tay,đầu,mắt,cổ…
Và từ đó trong quá trình học sinh viết, tôi luôn nhắc nhở và động viên
kèm cặp các em. Sau còn một số em phải uốn nắn thêm vài tuần nữa
mới tạo cho mình thói quen tư thế ngồi viết đúng trong sự uốn nắn của
tôi.
Về cách cầm bút, đầu tiên tôi hướng dẫn và làm mẫu trước cho
toàn lớp quan sát thật kỹ sau đó tôi cho cả lớp thực hành giơ lên thì 2/3
lớp cầm bút đúng, còn lại tôi tiếp tục sửa luôn.
Tiếp theo luyện để học sinh viết nét thẳng, nét cong, nét
khuyết...tôi đi quan sát tổng thể thì các em vẫn còn một số em ngồi
chưa đúng tư thế, cầm bút còn sai, bằng lòng kiên trì tôi tiếp tục hướng
dẫn các em làm đúng quy định.
Đối với lứa tuổi các em nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên. Vì
vậy trong suốt quá trình dạy, tôi luôn sát sao nhắc nhở kịp thời những
em có biểu hiện tư thế ngồi viết sai và cầm bút không đúng quy cách.
Bởi muốn viết em phải nhìn lại mình để đặt vở sao cho đúng cách. Khi
học viết chữ cái học sinh phải nhớ hình dạng của nó thể hiện trên dòng
kẻ và nhớ di chuyển ngòi bút. Em đó cần nhớ tư thế ngồi nào cho hợp
lý. Một đứa trẻ sẽ không quen thuộc mọi việc nêu trên về những hoạt
động đó đòi hỏi sự nổ lực về ý chí. Khi một học sinh lớp 1 viết, các bộ
phận trong cơ thể nó đều căng thẳng, đặc biệt là các cơ quan trong bàn
tay và ngón tay, điều này dẫn tới việc cần phải thực hiện các bài tập
thể dục trong khi chuyển tiết học. Do vậy trong mỗi giờ tập vi ết tôi
thường cho học sinh chơi trò chơi, múa hát các bài hát để thư
giản.....nhằm giúp học sinh thả lỏng chân tay, quên đi sự căng thẳng
mệt mỏi để tiếp tục giờ học được tốt hơn.
Sự phân tích nguyên tắc này cho thấy kỹ năng viết của học sinh
chỉ thực sự có được khi có sự đồng bộ của các bộ phận cơ thể. Việc
7
đánh giá sản phẩm chữ viết được kết hợp với việc theo dõi quá trình
viết của các em.
II/ CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
Việc rèn kỹ năng đòi hỏi người học sinh phải chi viết chính xác
sản phẩm, nắm vững cách thao tác kỹ thuật và kiên trì lặp đi lặp lại các
thao tác đó. Chữ viết Tiếng Việt là hệ thống chữ cái ghi âm, mỗi nhóm
chữ cái có đặc điểm riêng nên quy trình thực hiện các thao tác ở từng
nhóm cũng không giống nhau. Do đó, khi rèn luyện kỹ năng viết chữ
học sinh phải nắm được hình dáng, đặc điểm của từng chữ cái, các thao
tác viết nhóm chữ cái ( Thao tác viết nhóm chữ cái, chữ nét cong khác
thao tác viết nhóm chữ nét khuyết... ) và phải luyện tập liên tục nhiều
lần trên vở tập viết.
Tuy nhiên đặc điểm tâmsinh lý lứa tuổi học sinh lớp 1 thường
gặp phải 2 khó khăn lớn:
+ Tri giác của các em thiên về nhận biết tổng quát đối tượng, chi
tiết từng nét chữ, từng động tác kỹ thuật tỉ mỉ. Do vậy, khi tiếp thu kỹ
thuật viết chữ, học sinh không tránh khỏi những lúng túng, khó khăn.
+ Học sinh lớp 1 thường hiếu động, thiếu kiên trì, khó khăn thực
hiện các thao tác đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận.
Để khắc phục những nhược điểm trên, người giáo viên phải có
đức tính kiên trì, tận tình tránh nôn nóng, tức giận. Sự nhiệt tâm, chu
đáo của giáo viên là một trong những yếu tố đảm bảo sự thành công
của giờ dạy tập viết. Kỹ năng viết chữ được rèn luyện ở 2 mức độ:
+ Tập viết các chữ cái, phải đúng hình dáng, cấu tạo, quy trình
viết.
+ Tập viết ứng dụng; Giáo viên hướng dẫn học sinh viết liền
mạch các chữ cái, viết dấu phụ, dấu thanh trên hoặc dưới các chữ cái.
Để hình thành kỹ năng viết cho học sinh, việc dạy tập viết phải
trải qua 2 giai đoạn:
8
Giai đoạn 1: Giai đoạn này hình thành và xây dựng biểu tựng về
chữ viết, giúp các em hiểu và ghi nhớ được những hình dáng kích
thước, quy trình viết từng chữ cái. Các hiểu biết này giúp học sinh viết
chữ một cách tự giác. Như vậy kết quả đạt được sẽ nhanh và chắc
chắn hơn.
Bước 1: Mô tả cấu tạo chữ:
Ví dụ: Chữ a gồm 2 nét: Nét cong kín và nét móc ngược.
Bước 2: Giáo viên hướng dẫn quy trình viết các nét
+ Để viết nét tròn ta nên chấm các điểm chuẩn 1, 2, 3, 4 (làm
mẫu) rồi nối các điểm đó cho tròn.
+ Để viết nét móc ngược ta chấm điểm 5, 6 sau đó nối 2 điểm này
lại.
VD :Các con chữ a , â, ă ...
+ Giáo viên đưa ra các mẫu chữ có sẵn trong bộ đồ dùng chữ viết
làm mô hình trực quan.
Giai đoạn 2: Đây là giai đoạn củng cố
Hoàn thiện các biểu tượng về chữ viết thông qua các hình thức
tập luyện viết chữ. Giai đoạn này hướng dẫn các em luyện viết các chữ
cái để luyện viết tiếng, từ ứng dụng.
Khi các em viết sang tiếng, từ câu ứng dụng để giúp các em viết
đẹp tôi phải hướng dẫn học sinh viết đúng cỡ chữ, kiểu chữ, đảm bảo
nguyên tắc liền mạch trong khi viết, có khoảng cách hợp lý.
Các con chữ trong 1 tiếng cách nhau nửa con chữ. Các tiếng cách
nhau một con chữ. Các từ cách nhau 2 con chữ.( Lưu ý lấy con chữ o
làm chuẩn ).
Ngoài ra đối với việc tô chữ cái viết hoa đòi hỏi giáo viên nắm
được một cách chắc chắn từng kiểu chữ để hướng dẫn cho học sinh
9
nắm bắt được đáp ứng cho yêu cầu tô đúng. ( Giáo viên phải nắm tên
nét để tiện trong quá trình hướng dẫn )
Ví dụ :Để hướng dẫn học sinh tô chữ cái a, A, giáo viên cho học
sinh quan sát mẫu.
Rồi nêu tên nét (hướng dẫn học sinh nêu) cuối cùng là quy trình tô (tô
theo thứ tự các nét).
Đặc biệt trong việc dạy học sinh hình thành kỹ năng viết chữ, cần
phải quan tâm đến yếu tố cảm xúctâm lý chi phối việc viết chữ. Quá
trình lĩnh hội và thể hiện chữ viết ở các em sẽ diễn ra rất nhanh nếu trẻ
viết với tâm lý vui vẻ, phấn chấn khi được tiếp xúc mảnh liệt nhưng
cũng rất hồn nhiên sinh động khi trẻ học viết chữ.
Vậy để làm được những vấn đề như đã nêu trên đòi hỏi người
giáo viên không được cứng nhắc đơn điệu trong việc vận dụng các
phương pháp dạy học mà trái lại cần có sự mềm dẻo, linh hoạt trong
việc vận dụng các phương pháp dạy tập viết.
Đối với học sinh lớp 1 tôi nhận thấy 3 phương pháp sau đây
thường được quan tâm sử dụng nhiều hơn cả trong việc dạy tập viết.
Phương pháp trực quan:
Giáo viên khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều con
đường: Kết hợp mắt nhìn với tay nghe, tay luyện tập. Điều này giúp các
em chủ động phân tích hình dáng, kích thước và cấu tạo theo mẫu, tìm
sự giống nhau giữa chữ cái đang học với chữ cái đã học trước đó trong
cùng 1 nhóm các thao tác so sánh tương đồng.
VD: Bài 9 ( vở tập viết ),.Chữ o , e.
Bài 10 ( vở tập viết ) cho học sinh luyện chữ ô. ơ
* Chữ mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết, đây là
điều kiện đầu tiên để các em viết đúng. Tuy nhiên chữ mẫu có nhiều
hình thức: Chữ mẫu cơ bản in sẵn, chữ mẫu phóng to trên bảng, trong
vở tập viết, hộp chữ mẫu.....Tiêu chuẩn cơ bản của chữ mẫu phải đúng
10
mẫu quy định, rõ ràng và đẹp. Chữ mẫu có tác dụng tạo sự chú ý tập
trung cao độ của học sinh trong tiểu học cụ thể:
+ Chữ mẫu phóng to trên bảng có tác dụng giúp học sinh dễ quan
sát, từ đó tạo điệu kiện để các em phân tích hình dáng, kích thước và các
nét cơ bản cấu tạo chữ cái trong 1 chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết
trong bài học.
+ Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng lớp giúp học sinh nắm
được thứ tự viết các nét chữ trong từng chữ cái ( Quy trình viết ) cách
nối các chữ cái trong một chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền mạch,
viết nhanh
+ Chữ mẫu trong hộp chữ giúp học sinh kết hợp mắt nhìn, tay sờ
để kết hợp thành các thao tác viết chữ 1 cách đồng bộ.
Bên cạnh đó, chữ viết của giáo viên khi chữa bài, chấm bài cũng
được học sinh quan sát như loại mẫu chữ. Vì thế giáo viên cần có ý thức
viết đẹp, đúng mẫu rõ ràng.
Ngoài ra, để việc dạy chữ viết không đơn điệu, giáo viên cần coi
trọng việc xử lý giữa đọc và viết. Do đó trong tiến trình dạy tập viết
nhất là tập viết những âm hay nhầm lẫn (r/d/gi;tr/ch;s/x). Giáo viên cần
đọc mẫu ( Có thể đọc nhiều lần ). Viết đúng sẽ củng cố cho việc đọc
đúng và đọc đúng đóng vai trò quan trọng để đảm bảo viết đúng.
Phương pháp đàm thoại cởi mở:
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở đầu tiết học. Giáo viên
dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ cái sẽ học bằng 1 hệ thống câu
hỏi về các nét cấu tạo chữ cái độ cao, kích thước chữ cái đến việc so
sánh sự giống nhau và nét khác giữa chữ đang học và chữ đã học.
VD: Khi dạy chữ “đ” giáo viên có thể đặt câu hỏi:
(?) Chữ “đ” cấu tạo bằng những nét nào ?
(?) Chữ “đ” có mấy ô ? độ rộng của chữ là bao nhiêu ?
11
(?) Khi viết chũ “đ” nét nào viết trước ? nét nào viết sau ?
(?) Chữ “đ” giống chữ “d” ở điểm nào.....
Với những câu hỏi khó giáo viên cần định hướng trả lời cho các
em vai trò của người giáo viên ở đây là người tổ chức, hướng dẫn học
sinh phân tích cấu tạo chữ chữ cái chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập chữ
viết ở sau.
Đối với việc tô các chữ cái theo kiểu chữ viết hoa giáo viên cần
gợi mở, thảo luận để học sinh nhận ra tên nét, hiểu nét của từng chữ
cái.
VD: Để hướng dẫn học sinh tô chữ A, giáo viên cho học sinh quan
sát chữ mẫu. Sau đó nêu tên nét ( Hoặc hướng dẫn học sinh nêu )
Chữ A hoa gồm 3 nét: Hai nét móc dưới
Một nét ngang, hơi lượn
Phương pháp luyện tập:
Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ.
Việc hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành từ thấp cao để học sinh
dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước
các cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng, đúng tốc độ quy định. Việc rèn chữ
viết phải được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phần môn
tập viết cũng như tất cả các phân môn khác.
Khi học sinh tập viết chữ, giáo viên cần luôn luôn chú ý uốn nắn
để các em cầm bút đúng và ngồi đúng tư thế, bài viết đẹp phải đi kèm
với tư thế viết đúng. Rèn cho trẻ viết đẹp mà quên mất việc uốn nắn
cách ngồi viết là thiếu sót lớn của giáo viên. Cần chú ý các hình thức
luyện tập cơ bản sau:
Tập viết chữ (Chữ cái, chữ số, từ ngữ ) trên bảng lớp. Hình thức
tập viết trên bảng đen có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết chữ và
bước đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh. Hình thức này thường
được dùng khi kiểm tra bài cũ hoặc sau bước giải thích cách viết chữ,
12
bước luyện tập chữ viết ở lớp. Qua đó giáo viên phát hiện chỗ sai
( Hình dáng, kích thước, thứ tự viết các nét..... ) để uốn nắn chung cho
cả lớp hoặc đánh giá, cho điểm.
Tập viết chữ vào bảng con của học sinh.
Học sinh luyện viết chữ bằng phấn trên bảng cong trước khi tập viết
vào vở học sinh, có thể tập viết chữ cái, vần, các chữ hoặc từ có 2 đến
3 chữ vào bảng con. Khi sử dụng bảng con, giáo viên hướng dẫn các em
cả cách lau bảng từ trên xuống dưới, cách sử dụng và bảo quản phấn,
cách lau tay sau khi viết để giữ vệ sinh, sau khi học sinh viết xong, giáo
viên kiểm tra bằng cách cho học sinh giơ bảng. Cần chú ý giữ trật tự
trong khi dùng hình thức luyện tập này ( Lưu ý phải có giẻ ướt để lau
bảng ).
Đối với học sinh lớp 1, cần phải có mẫu trình bày bảng con từng
nội dung để học sinh nhìn vào bảng đó mà viết theo
Luyện viết trong vở tập viết.
Muốn cho học sinh sử dụng có hiệu quả vở tập viết, giáo viên
cần hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu về kỹ năng viết của từng bài
viết ( Chữ mẫu, dấu chỉ khoảng cách chữ, dấu chỉ vị chí đặt bút, thứ tự
nét viết ). Đảm bảo tốt các công việc trên sẽ giúp các em viết tốt hơn ở
những dòng sau.
VD: Luyện viết trong vở luyện viết chữ đẹp.
ở lớp tôi cuốn vở này tôi luyện cho học sinh vào 15 phút đầu giờ
và những hoạt động ngoại khoá. Để luyện viết đẹp đòi hỏi học sinh
phải có sự nổ lực cao về kỹ thuật viết cũng như tốc độ viết. Có lẽ vì
thế mà chữ viết của học sinh lớp tôi ngày một đúng và đẹp hơn.
Luyện viết trong khi học các môn khác ( Toán, TNXH, Đạo
đức... )
Giáo viên cần tận dụng việc viết các bài học, bài làm ở các môn
học khác để học sinh tập viết. Đối với lớp 1 nói riêng, bậc Tiểu học nói
13
chung, sự nghiêm khắc của giáo viên về chất lượng chữ viết ở tất cả
cac môn học là sự cần thiết. Có như thế, việc luyện tập chữ viết mới
được củng cố đồng bộ, thường xuyên. Việc làm này đòi hỏi giáo viên
ngoài hiểu biết về chuyên môn cần phải kiên trì, cẩn thận và lòng yêu
nghề mến trẻ.
Khi đến lớp, người giáo viên cùng lúc đóng hai vai trò:
Một là giáo viên với tư cách tổ chức, hướng dẫn học sinh cách
học, cách viết và đồng thời giáo viên phải tỏ ra mình là một người bạn
thân thiết với học sinh đẻ các em cảm thấy không có sự xa cách, phân
biệt, mặc cảm dể từ đó phát huy tối đa tính tự tin, tự chủ cho học sinh
cũng như tạo một không khí thoải mái, sôi động của tiết học.
Luyện “ Viết chữ thạo ” phải dựa trên cơ sở “ Đọc thông ”
Thực tế cho thấy học sinh mà “ Đọc thông ” thì sẽ “ Viết thạo ”.
Vì vậy muốn rèn chữ “ Viết thạo ” phải gắn liền với việc “ Đọc thông
”
Nhìn lại một số học sinh viết chưa đẹp, tốc độ viết chậm thì tất
cả các em này đều có điểm chung là: Đánh vần chậm, đọc hơi kém. Vậy
tôi lại có biện pháp như sau:
+ Trong các bài đọc ở lớp bất kỳ bài đọc nào tôi cũng gọi các em
đọc đi, đọc lại nhiều lần và giúp các em sửa sai ngay nếu có.
+ Giao việc về nhà: Yêu cầu đọc bài cũ nhiều lần đến thuộc và
xem trước bài mới SGK tập viết 1 đồng thời viết bài cũ vào vở ở nhà.
Đặc biệt lưu ý học sinh đọc đúng để viết đúng bởi vì tại địa bàn học
sinh đọc hay nhầm lẫn s/x; tr/ch; r/d; ?/~ dẫn đến viết sai lỗi chính tả.
( Tuy nhiên trường hợp này cũng chỉ ở một số học sinh ).
Ngoài ra còn một số học sinh còn viết sai vần trong tiếng.
VD: “ Con khướư ” là “ Con khíu ”
“ Buổi chiều ” là “ Bủi chiều ”
14
Để rèn luyện và giúp đỡ các em sửa những lỗi này tôi lại áp dụng
biện pháp sau:
+ Rèn phát âm và viết tiếng bằng cách:
* Giao việc về nhà: Đọc đi đọc lại nhiều lần những âm, vần hay
sai và viết những chữ có âm vần hay lẫn lộn, ví dụ: Sạch sẽ, chăn trâu,
bé ngã, buôn làng.....
*Trong cácgiờ học : Học sinh phát âm nhiều lần những tiếng, từ
có âm mà học sinh hay nhầm lẫn rồi học sinh cùng nhóm nhận xét, đọc
lại phần việc của bạn
2.3. Tổ chức học nhóm:
Ngoài những biện pháp nói trên theo tôi việc tổ chức học sinh học
theo nhóm, học theo tổ, nhóm là mọt biện pháp rất hữu hiệu trong quá
trình dạy tập viết. Ông cha ta đã dạy “ Học thày không tầy học bạn ”.
Thật vậy, không thể lúc nào giáo viên cũng có thể bao quát toàn lớp,
quan tâm sát sao đến từng học sinh. Việc tổ chức cho các em học tập
lẫn nhau là một vấn đề đơn giản nhưng mang lại hiệu quả không nhỏ.
Do vậy tôi luôn xếp học sinh học kèm cặp VD: Một em học khá giỏi,
viết chữ đẹp ngồi cùng bàn với những em viết chậm, chữ chưa đẹp –
Nên kết quả khả quan và đáng mừng. Sau một thời gian ngắn chất
lượng chữ viết được nâng lên rõ rệt.
2.4. Chú ý đến chữ cái, chữ số có sự thay đổi về kích cỡ, kiểu dáng:
Trong quá trình dạy tập viết cho học sinh lớp 1 tôi nhận thấy học
sinh hay viết sai hoặc viết xấu ở những chữ có nét khuyết ( Trên.
dưới ), hoặc chữ có nét thắt (s/r...)
Đây là những chữ có sự thay đổi về chiều cao so với mẫu chữ cải
cách trước đây. Hiện nay các em còn chữ b, h, l, k, g, y thành những con
chữ có độ cao 2,5 đơn vị tương ứng với 5 ô ly trên vở. Có một số học
sinh chỉ viết 4 hàng kẻ, tuy nhiên có một số học sinh viết đúng chiều cao
15
thì điểm thắt bụng của chữ lại không đúng vị trí hoặc nét khuyết viết
không thẳng theo quy định.
Tương tự với chữ r/s thì học sinh thường chỉ viết một đơn vị thay
vào đó là phải viết với chiều cao 2,5 đơn vị.
Đối với chữ số nhìn chung các chữ số căn bản đựơc giữ nguyên
về hình dáng. Song để đáp ứng nhu cầu khoa học cũng như thẩm mỹ
nên có một vài chữ thay đổi một chút về hình dáng.Ví dụ : Số 3, 4 , 5 ,
7 .
Đặc biệt là nửa học kỳ 2, học sinh bắt đầu tập viết vần , tiếng và
từ ứng dụng ... theo cỡ chữ nhỏ nét đều ( ngoài việc học viết chữ cỡ
vừa) nên lúc này những chữ có nét khuyết và chữ s/r học sinh dễ viết sai
(vì sự lại một nửa về chiều cao). Thật sự với học sinh lớp 1 việc phân
biệt con chữ về chiều cao như thế là rất khó vì các em chưa có sự ước
lượng về chia phần nên dẫn tới hay viết sai.
Hơn nữa chữ viết của ta có nhiều nét phụ nên khi dạy tập viết
cần lưu ý quy tắc viết dấu phẩy, quy trình viết một chữ có dấu phụ như
thế nào để đảm bảo tốc độ viết cho học sinh. Có thể hướng dẫn như
sau: VD: “Thưởng” thì viết xong “Thuong” rồi mới đánh dấu phụ.
Từ những đúc rút kinh nghiệm trong cả quá trnh tôi rút ra đ
́
ược
quy trnh d
́
ạy một tiết tập viết như sau:
I/ Đối với giáo viên:
Bản thân mỗi giáo viên cần nắm vững quy trình dạy tập viết của
từng con chữ để không ngừng nâng cao chất lượng dạy viết chữ mà còn
phối hợp với các phần khác nhau nhằm phát huy vai trò công cụ của
việc dạy tập viết.
1. Thực hiện nghiêm túc chương trình chung của một bài tập viết.
Hệ thống của các hoạt động dạy một tiết tập viết gồm các quy trình
sau:
16
a.Giới thiệu nội dung bài học:
Giáo viên đọc gộp cả tiếng, có thể giảng nghĩa từ và dòng chữ ứng
dụng. Gọi học sinh đọc lại toàn bài kết hợp với đánh vần (Nắm cấu tạo
chữ ).
b.Phân tích cấu tạo chữ:
b1. Phân tích chữ cái: Giáo viên gợi ý và đặt câu hỏi, gắn chữ
mẫu lên bảng lớp để học sinh nhận xét và phân tích hình dáng, cấu tạo
chữ cần dạy (Các nét, sự liên kết các nét, điểm đặt bút, điểm dừng bút
của chữ).
Quan sát chữ mẫu, học sinh sẽ phát hiện được sự giống nhau, khác nhau
của chữ đang học với chữ đã học, từ đó khắc sâu về biểu tượng chữ
đang học.
b2. Phân tích vần, từ và dòng chữ viết ứng dụng: Bước này giáo
viên củng cố một số chữ cái khó viết hoặc chữ cái mà học sinh dễ viết
sai (những con chữ có nét khuyết, nét cong, nét vòng).
c.Giáo viên viết mẫu:
Giáo viên giảng giải và minh hoạ cách viết như cách đưa ngòi
bút thế nào thứ tự viết nét ra sao. Giáo viên cần phân tích cả dấu phụ
của từng con chữ và các dấu thanh.
Viết mẫu là thao tác trực quan của giáo viên trên bảng lớp giúp
học sinh nắm bắt được quy trình viết từng nét chữ, từng chữ.
Do vậy, giáo viên phải viết chậm, đúng quy tắc viết chữ. Khi viết
mẫu trên bảng lớp, giáo viên phải tạo điều kiện để học sinh nhìn thấy
tay giáo viên viết từng nét chữ.
Đối với những nét chữ khó (hoặc nét nối) giáo viên cần phối hợp
giảng giải về cách viết, hoặc có thể phân tích và viết mẫu trích đoạn
những nét chữ đó ra phần bảng phụ.
17
VD: Khi viết chữ “b”, giáo viên có thể phân tích cách viết chữ “b”
gồm 2 nét: Nét khuyết trên và nét khuyết thắt.
Học sinh thảo luận so sánh chữ “b” với chữ “e” mới được học ở
bài trước giống nhau và khác nhau như thế nào?.
d.Học sinh luyện viết trên bảng:
d1. Học sinh đựơc luyện tập: Viết trên bảng con (cả lớp) và viết
trên bảng lớp (một số học sinh) theo từng chữ mà giáo viên yêu cầu. Nội
dung luyện tập có thể theo thứ tự bài dạy hay chỉ chọn những chỗ viết
khó mà học sinh hay viết sai. Học sinh không cần viết hết toàn bộ dòng
chữ ứng dụng mà có thể chọn những chữ khó viết hoặc những chữ có
chỗ nối không thuận lợi khi liên kết các con chữ.
d2. Nhận xét chữ viết luyện tập của học sinh:
Học sinh quan sát lại chữ mẫu, giáo viên nêu câu hỏi để học sinh
nhận xét chữ viết của mình, của bạn và tham gia sửa chữa những chỗ
viết sai.
Giáo viên khẳng định lại kiến thức học sinh cần nắm vững,
chữa nét chữ học sinh viết sai. Đối với chữ viết sai, giáo viên không viết
đè lên mà viết chữ đúng cỡ bên cạnh.
e. Học sinh viết vào vở:
Giáo viên nêu yêu cầu và nội dung cần viết trong bài cần viết
(điểm đặt bút, khung chữ đường kẻ dòng, số dòng viết của từng nội
dung ...).
Học sinh thực hành viết vào vở.
Giáo viên hướng dẫn từng học sinh viết chữ (sửa chữa chữ sai,
tư thế ngồi viết, cách cầm bút, cũng có thể rút kinh nghiệm chung cả
lớp).
18
Chấm điểm tại chỗ: Kết hợp với quá trình nhận xét cá nhân học
sinh giáo viên có thể chấm bài của một số học sinh vào cuối thời gian
viết vào vở.
g. Củng cố bài viết:
Tuỳ thời gian còn lại của giờ dạy, giáo viên củng cố kiến thức
trọng tâm bằng các hình thức sau:
Sử dụng bài viết của học sinh trong vở để cùng học sinh nhận
xét, rút kinh nghiệm ưu khuyết điểm về kĩ năng viết chữ.
Yêu cầu học sinh viết bảng lớp các chữ có liên quan đến trọng
tâm của bài tập viết, sau đó giáo viên và học sinh khác cùng sửa chữa.
Khi viết chữ đúng mẫu, rõ ràng, đẹp,có thể dùng bộ chữ rời cho
học sinh thi ghép nét tạo chữ cái.
Với những kiến thức củng cố đa dạng như trên, nội dung bài viết
sẽ được khắc sâu. Học sinh ghi nhớ cách viết chữ cái, viết từ, câu ứng
dụng trong hoàn cảnh khác nhau. Cần tăng cường những hình thức củng
cố, nâng cao bài viết để một mặt tạo cho giờ học không khí vui tươi
sinh động, nhẹ nhàng, mặt khác tạo diều kiện phối hợp nhịp nhàng giữa
tập viết với học vần, chính tả, góp phần nâng cao hiệu quả đọc và viết
cho học sinh.
C: KẾT LUẬN CHUNG
Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng vào thực tế giảng dạy cho học
sinh tôi thấy kết quả đạt được khả quan hơn nhiều so với kết quả khảo
sát đầu năm, học sinh xác định được rõ ràng về độ cao, hình dáng, điểm
đặt bút và điểm kết thúc của chữ. Từ đó các em không những viết đúng,
đẹp mà còn viết nhanh. Mặt khác tôi còn có thể đọc cho học sinh viết
hoặc học sinh tự chép được một đoạn văn ngắn từ 2 đến 3 câu mà vẫn
đảm bảo được tốc độ quy định, khoảng cách của chữ, viết liền nét…
tính thẩm mỹ của bài viết.
I/ Đối với giáo viên:
19
Không ngừng đổi mới phương pháp dạy học:
Cả chữ viết của giáo viên cũng xem là chữ mẫu trực quan nhất để học
sinh nhìn vào đó mà học tập, luyện theo. Chính vì thế chữ viết của giáo
viên phải thực sự chuẩn về kiểu cách lẫn kích thước.
Học sinh lớp 1 có đặc điểm dễ bắt chước. Chính vì thế các em sẽ
học ở cô giáo của mình từ việc cầm bút, cầm phấn, tư thế khi viết đến
kỹ thuật viết. Có thể nói, đối với lớp 1 chỉ cần nhìn chữ viết của học
sinh sẽ đánh giá được một phần năng lực giảng dạy của giáo viên. Vì
vậy việc viết mẫu của giáo viên là hết sức cần thiết và quan trọng. Đây
là yếu tố quan trọng nhằm nâng cao chất lượng dạy học của giáo viên
duy trì những nề nếp, thói quen của học sinh, tạo điều kiện cho việc
phát triển toàn diện. Cần thấy rằng chất lượng viết của học sinh lớp 1
là một trong những yếu tố hàng đầu cơ bản của chất lượng học tập môn
Tiếng Việt, kỹ năng viết đúng, rõ ràng, nhanh, trình bày bài viết sạch
đẹp theo yêu cầu đề ra sẽ góp phần tạo điều kiện cho học sinh học tốt
các môn học khác ở Tiểu học. Đồng thời hình thành đựơc nhiều thói
quen và phẩm chất cao đẹp của học sinh. Kỹ năng viết chữ được hình
thành rèn luyện trước tiên và chủ yếu trong giờ tập viết, song cũng được
củng cố và hoàn thiện trong nhiều giờ học của các môn học khác. Do
vậy, nó đòi hỏi sự quan tâm và trách nhiệm của giáo viên trong tất cả các
giờ học.
Giáo viên có ý thức tự rèn luyện, tự bồi dưỡng và hưởng ứng
tích cực cuộc thi “ viết chữ đẹp ” do Vụ Tiểu học và Nhà xuất bản giáo
dục phối hợp tổ chức. Đặc biệt là mối quan hệ tay ba giữa “nhà trường
– gia đình – xã hội”.
Mỗi giáo viên phải luôn tự rèn luyện về chữ viết để có khả năng
phục vụ tốt cho việc dạy học sinh từ nề nếp và thói quen chữ viết
thường xuyên kiểm tra đánh giá và nhắc nhở học sinh thực hiện các yêu
cầu “giữ vở sạch, viết chữ đẹp”. Tích cực tham gia phong trào rèn luyện
và năng cao chất lượng chữ viết trong nhà trường.
20
II/ Đối với phụ huynh:
Trước hết phụ huynh cần phải chuẩn bị đầy đủ bảng con, phấn
viết, khăn lau bảng, vở tập viết cho học sinh đúng quy định.
Chăm lo đến việc rèn chữ viết cho con em nhiều hơn nữa. Luôn
có sự động viên kịp thời mỗi khi học sinh đựơc điểm cao, có bài viết
đẹp. Có thái độ nghiêm khắc với việc rèn chữ với con em mình giữ
thông tin 2 chiều đối với giáo viên chủ nhiệm. Giúp phụ huynh thấy nếu
không có sự kết hợp với cô giáo và nhà trường sẽ không mang lại hiệu
quả.
+ Trên đây là những việc làm và biện pháp thực hiện để nâng cao
chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 1 mà tôi đã thực hiện trong thời
gian qua . Cô giáo phải là người mẹ hiền thực sự của học sinh mỗi khi
đến lớp, phải có lòng yêu nghề mến trẻ gần gũi, nhiệt tình và thương
yêu học sinh. Nên lúc này cô phải đảm nhiệm cả 2 chức năng vừa dạy
chữ vừa dạy người.
Tổ chức cho học sinh luyện viết theo nhóm.
Có phương pháp làm việc khoa học, hợp lý, tránh để học sinh rơi
vào tình trạng nhàm chán.
Giáo viên phải chuẩn mực về lời nói, giọng nói, chữ viết.
Tôi rất mong sự đóng góp nhiệt tình của đồng nghiệp .
*)Ý KIẾN ĐỀ XUẤT:
Kính mong Sở giáo dục và đào tạo. Phòng giáo dục và đào tạo
Thành phố thường xuyên tổ chức chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên
như hiện nay. Để chúng tôi được học hỏi đồng nghiệp ,trau dồi thêm
kiến thức để giúp học sinh viết đúng và đẹp hơn trong dạy Tập viết nói
riêng và dạy các môn học khác nói chung.
21
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hàm Rồng ,ngày 20 tháng 4 năm 2011
Người viết
Nguyễn Thị Sử
22