Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 4 qua phân môn tập đọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (527.29 KB, 22 trang )

A.M
  Ở ĐẦU 
I/ PHẦN MỞ ĐẦU:
   Lời bất hủ của thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc sinh thời đã nói “ Nét 
chữ nết người  “. Quả thật như thế: Chữ viết cũng là biểu hiện của nết  
người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần 
rèn cho các em tính cẩn thận lòng tự  trọng đối với mình, cũng như đối 
với thầy cô và bạn đọc bài vở của mình .
 
Từ những buổi đầu tiên khi bước chân tới trường, trẻ bắt đầu làm 
quen với việc học đọc, học viết. Vui sướng bao nhiêu khi các bậc cha 
mẹ  nhìn thấy con mình tròn môi đánh vần và gắng viết những nét chữ 
đầu tiên .Nếu như học vần,  tập đọc  giúp trẻ đọc thông thì tập viết giúp  
trẻ viết thạo mở đường cho trẻ  ghi nhanh, ghi sáng những điều thầy cô 
giảng và cả những điều trẻ nghĩ. Nhìn trang vở tập viết với những dòng 
chữ đều tăm tắp, sạch sẽ, lòng ta dấy lên niềm vui, ta như được củng cố 
thêm niềm tin vào tương lai con trẻ. Nhưng muốn viết thạo trẻ  phải  
gắng công khổ  luyện dưới sự  chăm sóc tận tình của các thầy giáo, cô 
giáo .
Tập viết  ở  trường Tiểu học truyền thụ  cho học sinh những kiến  
thức cơ bản về chữ viết, học sinh nắm bắt được các kiến thức cơ  bản  
về cấu tạo bộ chữ cái la tinh và ghi âm Tiếng Việt, sự thể hiện chữ này  
trên bảng, vở, đồng thời được hướng dẫn các yêu cầu kỹ thuật viết các  
nét chữ, chữ  cái, tiếng, từ  và câu, rồi tiến đến viết một đoạn văn hoặc  
cả bài. Vì vậy để có khả năng dạy tốt phân môn Tiếng Việt ở lớp 1 theo  
nội dung sách giáo khoa và vở tập viết, tôi đã nghiên cứu đầy đủ về mẫu  
chữ viết trong trường tiểu học được thực hiện từ năm học 2002 – 2003. 
Nắm vững một số  quy định về  dạy và học viết chữ  ở  trường Tiểu học  
theo Quy định số: 31/2002/QĐ­BGD&ĐT ngày 14 tháng 6 năm 2002 của 
Bộ  trưởng bộ  Giáo dục và đào tạo. Để  so sánh về  độ  cao, hình dạng 
cách trình bày với mẫu chữ  tại Thông tư  29/TT ngày 25 tháng 9 năm  



­ 1 ­


1986, để tạo điều kiện thuận lợi cho dạy và học theo xu hướng mới cho  
học sinh lớp 1 nói riêng và học sinh Tiểu học nói chung. 
Riêng  ở  lớp 1 việc dạy tập viết được phối hợp nhịp nhàng với 
việc dạy học vần, học sinh luyện viết chữ dưới hai hình thức chủ yếu: 
Luyện viết chữ trong các tiết học âm, chữ ghi âm ­ vần và viết theo các 
yêu cầu kỹ thuật trong các tiết tập viết.  Ngoài các ý nghĩa to lớn nói trên 
tập viết với những quy tắc chặt chẽ  tr ước những mẫu chữ  đẹp còn là 
môi trường quan trọng bồi dưỡng cho trẻ  những phẩm chất như: Tính 
cẩn thận , tinh thần kỷ luật và óc thẩm mỹ. Là một giáo viên trực tiếp  
dạy lớp 1 trong năm học 2010­ 2011, tôi nhận thấy “ Tập viết là một 
trong những nội dung có tầm quan trọng đặc biệt ở Tiểu học, nhất là đối 
với học sinh lớp1 “. Bởi lẽ tập viết trang bị cho học sinh ch ữ cái La tinh  
và những yêu cầu kỹ  thuật để  sử  dụng bộ  chữ  cái đó trong học tập và 
giao tiếp, Nếu viết chữ đúng mẫu, rõ ràng, tốc độ  nhanh thì học sinh có 
điều kiện chép bài tốt, nhờ  vậy kết quả  học tập sẽ  cao hơn, viết xấu,  
tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập.
Ngày nay, chất lượng chữ  viết của học sinh bậc tiểu học nói riêng và 
các cấp học nói chung đang là vấn đề  được mọi người quan tâm. Thật 
đáng buồn biết bao khi tỉ  lệ  học sinh chữ  rõ ràng, đủ  nét, ngay ngắn,  
thẳng hàng càng thấp. Trong thực tế có những học sinh viết rồi mà khi  
đọc lại thì không đọc nổi nổi chữ  của mình nói gì tới giáo viên đọc để 
chấm, chữa bài. Vì vậy rèn luyện học sinh có kỹ năng viết chữ đẹp ngày 
càng được quan tâm, chú trọng đặc biệt. 
Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài :
“ Phương pháp rèn chữ  viết cho học sinh lớp 1 “  nhằm giúp các em có 
một vốn kiến thức về cấu tạo chữ viết ,quy trình viết chữ vững chắc để 

học lên các lớp học trên được tự tin hơn
II/ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:

­ 2 ­


­Trong quá trình giảng dạy tôi thấy đối tượng học sinh của tôi 
( phát âm chưa chuẩn tiếng phổ thông ), một số em còn nói ngọng do đó  
các em hay viết sai lỗi chính tả.
Ví dụ: ­ ch/tr; s/x; ?/~
 ­ uynh, inh; hưu,hiêu…
         ­ Cách đặt bút, dừng bút của các em chưa rõ ràng gây cho học sinh  
lúng túng trong khi viết.Tư  thế  ngồi viết chưa đúng như: Lưng không 
thẳng ,các em còn ngồi tự do như đang ngồi chơi . Ngực tì vào cạnh bàn, 
mắt cúi sát xuống trang vở ,hai chân choải dài ,lưng không thẳng .
­ Là lớp đầu cấp nên học sinh chưa có ý thức nề  nếp học tập và 
phương pháp học. 
­ Trong lớp vẫn còn một số em chưa qua lớp mẫu giáo. Một số em 
do sức khoẻ  yếu nên tác phong chậm,  ảnh hưởng nhiều đến tác phong 
học tập .
­ Hầu hết học sinh nói chung, học sinh lớp 1A nói riêng cha mẹ 
sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, đi làm thuê con ở  nhà với ông bà, 
kinh tế  gia đình gặp nhiều khó khó khăn, bố  mẹ  không mấy quan tâm 
đến việc học của con em, phó mặc hoàn toàn cho cô giáo chủ  nhiệm.  
Các em còn thiếu bút, vở ,đồng thời trong quá trình dạy dỗ các em cách  
học ,cách viết đều do cô đảm nhận để các em hình thành một thói quen  
ngay từ  đầu cấp học Vì bố  mẹ  ông bà ít ai quan tâm đến việc con cái  
của họ  có ngồi đúng tư  thế  học hay không vì thực ra họ  cũng không 
hiểu được tư thế ngồi viết bài có tầm quan trọng trong cả quá trình học 
tập và rèn luyện như thế nào..

­ Các em đang học từ mẫu giáo vừa học vừa chơi, nay đến tr ường 
Tiểu học phải thực hiện nề nếp: Học ra học, chơi phải tuân thủ theo nội 
quy, quy định của nhà trường. Vì vậy giáo viên rất khó khăn trong khâu 
quản lý và đưa các em vào nề  nếp . Hơn nữa các em tiếp xúc với kiến 
thức học cao và nhiều cái mới lạ mà cha mẹ  các em ít hoặc không nắm 

­ 3 ­


được . Điều này gây không ít khó khăn trong công tác giảng dạy của giáo 
viên và học tập ở nhà của học sinh:
­ Chưa đảm bảo điều kiện vật chất, đồ  dùng học tập viết đúng 
quy định, khoa học.
Bên cạnh số  học sinh chịu khó, chăm chỉ  tập viết cũng   có học 
sinh ngại viết hay viết ngoáy, ý thức tự  học kém, chưa kiên trì và và 
chịu khó học tập.
Trong cuộc họp phụ  huynh giữa năm học khi chưa nhắc đến có 
em còn viết chữ xấu thì có một số phụ huynh phát biểu như sau:
­ Tay các em nhỏ nên cầm bút khó, mỏi
­ Việc học hành chữ  xấu hay đẹp là nhờ  các thầy cô dạy bảo  ở 
trường, gia đình chị vì bận và còn một phần phụ huynh thì bảo  Con cái 
chỉ nghe lời cô mà không nghe lời bố mẹ .
Sau khi nhận lớp được 2 tuần, tôi tiến hành kiểm tra về chữ viết  
của học sinh bằng việc cho học sinh viết lại các chữ cái đã học: e, ê, b, 
v, l, h  (Mỗi chữ một dòng trong vòng 30 phút )
Tổng hợp kết quả xếp loại vở sạch chữ đẹp đầu năm.
Tổng 

Chữ loại A


Chữ loại B

Chữ loại C

số h/s
28

SL

TL

SL

%

SL

%

2

7,12

19

67,64

7

24,92


Qua khảo sát đầu năm, tôi thấy học sinh viết còn yếu chưa nắm 
vững được quy tắc viết. Cách ngồi chưa đúng tư thế, cách cầm bút chưa 
đúng quy định. Vì vậy các em viết còn xấu và chưa chuẩn về  độ  cao, 
kích thước cho nên chất lượng chữ viết đầu năm còn kém.
III / KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ CỦA THỰC TRẠNG:
1/ KẾT QUẢ CỦA THỰC TRẠNG:

­ 4 ­


Sau một thời gian giảng dạy và nghiên cứu nắm được thực trạng của 
học sinh đầu cấp học nên tôi đã giúp học sinh:
­ Viết đúng: Hình dáng, đường nét, khoảng cách chữ ...
­ Viết đẹp: Tính thẩm mỹ của bài viết, viết liền nét chữ ...
­ Viết nhanh: Đảm bảo tốc độ quy định 
Mặt khác các em lại rèn được đức tính kiên trì khi học và khi làm bài.
2/ HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯƠC:
   Hiệu quả đạt được sau gần một năm giảng dạy như sau:

Định kỳ

Chữ loại A

Chữ loại B

Chữ loại C

SL


%

SL

%

SL

%

Đầu 
năm

2

7,12

19

67,64

7

24,92

Giữa   kỳ 
I

10


35,7

18

64,3

Cuối   kỳ 
I

15

56,2

13

43,8

Giữa   kỳ 
II

20

71

8

29

Cho đến nay lớp tôi còn 8 em chữ viết xếp loại B, tôi sẽ cố gắng  
nhiều hơn, sát sao hơn để  uốn nắn các em đến cuối năm học   chất 

lượng chữ viết lọai A  được nâng cao hơn nữa cả về chữ và vở. 

B/  NỘI DUNG
I/ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:

­ 5 ­


+ Về  hình thức: Tập viết dạy học sinh những khái niệm cơ  bản 
về đường kẻ, dòng kẻ, toạ  độ  viết, tên gọi nét chữ, cấu tạo chữ  cái, vị 
trí dấu thanh, dấu câu , các khái niệm liên kết nét chữ  hoặc liên kết các 
chữ … Từ đó hình thành cho các em những biểu tư ợng về hình dáng, độ 
cao, sự cân đối, tính thẩm mỹ của chữ viết.
           + Về kỹ năng: Dạy học sinh các thao tác chữ  viết từ  đơn giản  
đến phức tạp bao gồm kỹ năng viết nét, liên kết nét tạo chữ cái và liên 
kết chữ tạo chữ ghi tiếng. Đồng thời giúp các em xác định khái niệm cỡ 
chữ trên vở kẻ ô ly để  hình thành kỹ  năng viết đúng mẫu chữ , rõ ràng  
và cao hơn là viết nhanh viết đẹp. Ngoài ra tư thế ngồi viết, cách cầm 
bút, để vở, cách trình bày bài viết cũng là một kỹ năng đặc thù của việc  
dạy học tập viết mà giáo viên cần thường xuyên quan tâm chú ý đến.
           +Tư thế ngồi viết:
­ Lưng thẳng
­ Không tỳ ngực vào bàn
­ Đầu hơi cúi
­ Mắt cách vở 25   30 cm
­ Tay phải cầm bút, tay trái tỳ nhẹ lên mép để giữ vở
­ Hai chân để song song thoải mái
Tiếp tục dạy học sinh cách cầm bút
­ Cầm bút bằng 3 ngón tay ( Ngón cái, ngón giữa, ngón trỏ ) kể cả 
khi viết ( Hai ngón tay và phần dưới của bàn tay là chỗ dựa khi viết )

Tiếp tục hướng dẫn học sinh cách viết. Sau khi hướng dẫn tỷ mỉ 
tôi dành hẳn một tiết đầu để  tập cho các em làm, tôi quan sát từng em 
để sửa lại cho học sinh.
Việc tập viết không đảm bảo quy định đã được xây dựng trên cơ 
sở khoa học sẽ để lại nhiều di hại suốt cuộc đời học sinh. Mắt cận, cột 
sống cong vẹo, lưng gù.....do ngồi không đúng tư thế.
­ 6 ­


Vì vậy khi hướng dẫn học sinh tập viết cần phải coi việc phối  
hợp đồng bộ các bộ phận Tay,đầu,mắt,cổ… 
Và từ  đó trong quá trình học sinh viết, tôi luôn nhắc nhở  và động viên 
kèm cặp các em. Sau còn một số  em phải uốn nắn thêm vài tuần nữa 
mới tạo cho mình thói quen tư thế ngồi viết đúng trong sự uốn nắn của 
tôi.
Về  cách cầm bút, đầu tiên tôi hướng dẫn và làm mẫu trước cho 
toàn lớp quan sát thật kỹ­ sau đó tôi cho cả lớp thực hành giơ lên thì 2/3  
lớp cầm bút đúng, còn lại tôi tiếp tục sửa luôn.
Tiếp   theo   luyện   để   học   sinh   viết   nét   thẳng,   nét   cong,   nét 
khuyết...tôi đi quan sát tổng thể  thì các em vẫn còn một số  em ngồi 
chưa đúng tư thế, cầm bút còn sai, bằng lòng kiên trì tôi tiếp tục hướng  
dẫn các em làm đúng quy định.
Đối với lứa tuổi các em nhanh nhớ  nhưng cũng   nhanh quên. Vì 
vậy trong suốt quá trình dạy, tôi luôn sát sao nhắc nhở  kịp thời những 
em có biểu hiện tư  thế ngồi viết sai và cầm bút không đúng quy cách.  
Bởi muốn viết em phải nhìn lại mình để đặt vở sao cho đúng cách. Khi  
học viết chữ cái học sinh phải nhớ hình dạng của nó thể hiện trên dòng 
kẻ và nhớ di chuyển ngòi bút. Em đó cần nhớ tư  thế ngồi nào cho hợp 
lý. Một đứa trẻ  sẽ  không quen thuộc mọi việc nêu trên về  những hoạt 
động đó đòi hỏi sự nổ lực về ý chí. Khi một học sinh lớp 1 viết, các bộ 

phận trong cơ thể nó đều căng thẳng, đặc biệt là các cơ quan trong bàn  
tay và ngón tay, điều này dẫn tới việc cần phải thực hiện các bài tập 
thể  dục trong khi chuyển tiết học. Do vậy trong mỗi giờ  tập vi ết tôi  
thường   cho   học   sinh   chơi   trò   chơi,   múa   hát   các   bài   hát   để   thư 
giản.....nhằm giúp học sinh thả  lỏng chân tay, quên đi sự  căng thẳng 
mệt mỏi để tiếp tục giờ học được tốt hơn.
Sự  phân tích nguyên tắc này cho thấy kỹ  năng viết của học sinh 
chỉ  thực sự  có được khi có sự  đồng bộ  của các bộ  phận cơ  thể. Việc  

­ 7 ­


đánh giá sản phẩm chữ  viết được kết hợp với việc theo dõi quá trình 
viết của các em.
II/ CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
Việc rèn kỹ  năng đòi hỏi người học sinh phải chi viết chính xác 
sản phẩm, nắm vững cách thao tác kỹ thuật và kiên trì lặp đi lặp lại các 
thao tác đó. Chữ viết Tiếng Việt  là hệ thống chữ cái ghi âm, mỗi nhóm 
chữ  cái có đặc điểm riêng nên quy trình thực hiện các thao tác  ở  từng 
nhóm cũng không giống nhau. Do đó, khi rèn luyện kỹ  năng viết chữ 
học sinh phải nắm được hình dáng, đặc điểm của từng chữ cái, các thao 
tác viết nhóm chữ  cái ( Thao tác viết nhóm chữ  cái, chữ  nét cong khác 
thao tác viết nhóm chữ nét khuyết... ) và phải luyện tập liên tục nhiều 
lần trên vở tập viết.
Tuy nhiên đặc điểm tâm­sinh lý lứa tuổi học sinh lớp 1 thường  
gặp phải 2 khó khăn lớn:
+ Tri giác của các em thiên về nhận biết tổng quát đối tượng, chi  
tiết từng nét chữ, từng động tác kỹ thuật tỉ mỉ. Do vậy, khi tiếp thu kỹ 
thuật viết chữ, học sinh không tránh khỏi những lúng túng, khó khăn.
+ Học sinh lớp 1 thường hiếu động, thiếu kiên trì, khó khăn thực 

hiện các thao tác đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận.
Để  khắc phục những nhược điểm trên, người giáo viên phải có 
đức tính kiên trì, tận tình tránh nôn nóng, tức giận. Sự  nhiệt tâm, chu  
đáo của giáo viên là một trong những yếu tố  đảm bảo sự  thành công  
của giờ dạy tập viết. Kỹ năng viết chữ được rèn luyện ở 2 mức độ:
+ Tập viết các chữ  cái, phải đúng hình dáng, cấu tạo, quy trình 
viết.
+ Tập viết  ứng dụng; Giáo viên hướng dẫn học sinh viết liền 
mạch các chữ cái, viết dấu phụ, dấu thanh trên hoặc dưới các chữ cái.
Để  hình thành kỹ  năng viết cho học sinh, việc dạy tập viết phải  
trải qua 2 giai đoạn:
­ 8 ­


Giai đoạn 1: Giai đoạn này hình thành và xây dựng biểu tựng về 
chữ   viết,   giúp   các   em   hiểu   và   ghi   nhớ   được   những   hình   dáng   kích 
thước, quy trình viết từng chữ cái. Các hiểu biết này giúp học sinh viết 
chữ  một cách tự  giác. Như  vậy kết quả  đạt được sẽ  nhanh và chắc 
chắn hơn.
Bước 1: Mô tả cấu tạo chữ: 
Ví dụ: Chữ a gồm 2 nét: Nét cong kín và nét móc ngược.
Bước 2: Giáo viên hướng dẫn quy trình viết các nét
+ Để  viết nét tròn ta nên chấm các điểm chuẩn 1, 2, 3, 4 (làm 
mẫu) rồi nối các điểm đó cho tròn.
+ Để viết nét móc ngược ta chấm điểm 5, 6 sau đó nối 2 điểm này  
lại. 
VD :Các con chữ a , â, ă ...
+ Giáo viên đưa ra các mẫu chữ có sẵn trong bộ đồ dùng chữ viết  
làm mô hình trực quan. 
Giai đoạn 2: Đây là giai đoạn củng cố

Hoàn thiện các biểu tượng về  chữ  viết thông qua các hình thức 
tập luyện viết chữ. Giai đoạn này hướng dẫn các em luyện viết các chữ 
cái để luyện viết tiếng, từ ứng dụng.
Khi các em viết sang tiếng, từ  câu  ứng dụng để  giúp các em viết 
đẹp tôi phải hướng dẫn học sinh viết đúng cỡ  chữ, kiểu chữ, đảm bảo 
nguyên tắc liền mạch trong khi viết, có khoảng cách hợp lý.
Các con chữ trong 1 tiếng cách nhau nửa con chữ. Các tiếng cách  
nhau một con chữ. Các từ  cách nhau 2 con chữ.( Lưu ý lấy con chữ  o  
làm chuẩn ).
Ngoài ra đối với việc tô chữ  cái viết hoa đòi hỏi giáo viên nắm  
được một cách chắc chắn từng kiểu chữ  để  hướng dẫn cho học sinh  

­ 9 ­


nắm bắt được đáp  ứng cho yêu cầu tô đúng. ( Giáo viên phải nắm tên 
nét để tiện trong quá trình hướng dẫn )
Ví dụ :Để hướng dẫn học sinh tô chữ  cái a, A, giáo viên cho học 
sinh quan sát mẫu.
Rồi nêu tên nét (hướng dẫn học sinh nêu) cuối cùng là quy trình tô (tô 
theo thứ tự các nét).
Đặc biệt trong việc dạy học sinh hình thành kỹ năng viết chữ, cần 
phải quan tâm đến yếu tố  cảm xúc­tâm lý chi phối việc viết chữ. Quá 
trình lĩnh hội và thể hiện chữ viết ở các em sẽ diễn ra rất nhanh nếu trẻ 
viết với tâm lý vui vẻ, phấn chấn khi được tiếp xúc mảnh liệt nhưng  
cũng rất hồn nhiên sinh động khi trẻ học viết chữ.
Vậy để  làm được những vấn đề  như  đã nêu trên đòi hỏi người  
giáo   viên  không   được   cứng  nhắc   đơn  điệu   trong   việc  vận   dụng  các 
phương pháp dạy học mà trái lại cần có sự  mềm dẻo, linh hoạt trong  
việc vận dụng các phương pháp dạy tập viết.

Đối   với   học   sinh   lớp   1   tôi   nhận   thấy   3   phương   pháp   sau   đây 
thường được quan tâm sử dụng nhiều hơn cả trong việc dạy tập viết.
Phương pháp trực quan:     
Giáo viên khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều con  
đường: Kết hợp mắt nhìn với tay nghe, tay luyện tập. Điều này giúp các 
em chủ  động phân tích hình dáng, kích thước và cấu tạo theo mẫu, tìm  
sự  giống nhau giữa chữ  cái đang học với chữ  cái đã học trước đó trong 
cùng 1 nhóm các thao tác so sánh tương đồng.
VD: Bài 9 ( vở tập viết ),.Chữ o , e.
        Bài 10 ( vở tập viết ) cho học sinh luyện chữ ô. ơ
* Chữ mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết, đây là  
điều kiện đầu tiên để  các em viết đúng. Tuy nhiên chữ  mẫu có nhiều 
hình thức: Chữ  mẫu cơ  bản in sẵn, chữ  mẫu phóng to trên bảng, trong 
vở tập viết, hộp chữ mẫu.....Tiêu chuẩn cơ bản của chữ mẫu phải đúng 
­ 10 ­


mẫu quy định, rõ ràng và đẹp. Chữ  mẫu có tác dụng tạo sự  chú ý tập  
trung cao độ của học sinh trong tiểu học cụ thể:
+ Chữ mẫu phóng to trên bảng có tác dụng giúp học sinh dễ quan 
sát, từ đó tạo điệu kiện để các em phân tích hình dáng, kích thước và các 
nét cơ  bản cấu tạo chữ  cái trong 1 chữ  nhằm đảm bảo yêu cầu viết 
trong bài học.
+ Chữ  mẫu của giáo viên viết trên bảng lớp giúp học sinh nắm 
được thứ  tự  viết các nét chữ  trong từng chữ  cái ( Quy trình viết ) cách  
nối các chữ  cái trong một chữ  nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền mạch, 
viết nhanh
+ Chữ mẫu trong hộp chữ giúp học sinh kết hợp mắt nhìn, tay sờ 
để kết hợp thành các thao tác viết chữ 1 cách đồng bộ.
Bên cạnh đó, chữ  viết của giáo viên khi chữa bài, chấm bài cũng 

được học sinh quan sát như loại mẫu chữ. Vì thế giáo viên cần có ý thức  
viết đẹp, đúng mẫu rõ ràng.
Ngoài ra, để việc dạy chữ viết không đơn điệu, giáo viên cần coi 
trọng việc xử  lý giữa đọc và viết. Do đó trong tiến trình dạy tập viết 
nhất là tập viết những âm hay nhầm lẫn (r/d/gi;tr/ch;s/x). Giáo viên cần 
đọc mẫu ( Có thể  đọc nhiều lần ). Viết đúng sẽ  củng cố  cho việc đọc 
đúng và đọc đúng đóng vai trò quan trọng để đảm bảo viết đúng. 
 

Phương pháp đàm thoại cởi mở:      

Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở đầu tiết học. Giáo viên 
dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ  cái sẽ  học bằng 1 hệ  thống câu  
hỏi về  các nét cấu tạo chữ  cái độ  cao, kích thước chữ  cái đến việc so 
sánh sự giống nhau và nét khác giữa chữ đang học và chữ đã học.
VD: Khi dạy chữ “đ” giáo viên có thể đặt câu hỏi:
(?) Chữ “đ” cấu tạo bằng những nét nào ? 
(?) Chữ “đ” có mấy ô ? độ rộng của chữ là bao nhiêu ?

­ 11 ­


 

(?) Khi viết chũ “đ” nét nào viết trước ? nét nào viết sau ?

 

(?) Chữ “đ” giống chữ “d” ở điểm nào.....


Với những câu hỏi khó giáo viên cần định hướng trả  lời cho các  
em vai trò của người giáo viên ở đây là người tổ chức, hướng dẫn học 
sinh phân tích cấu tạo chữ chữ cái chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập chữ 
viết ở sau.
Đối với việc tô các chữ  cái theo kiểu chữ  viết hoa giáo viên cần 
gợi mở, thảo luận để  học sinh nhận ra tên nét, hiểu nét của từng chữ 
cái.
VD: Để hướng dẫn học sinh tô chữ A, giáo viên cho học sinh quan  
sát chữ mẫu. Sau đó nêu tên nét ( Hoặc hướng dẫn học sinh nêu )
Chữ A hoa gồm 3 nét: Hai nét móc dưới
                                               Một nét ngang, hơi lượn
Phương pháp luyện tập:
Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ.  
Việc hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành từ thấp ­ cao để học sinh  
dễ  tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước 
các cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng, đúng tốc độ quy định. Việc rèn chữ 
viết phải được tiến hành đồng bộ   ở  lớp cũng như   ở  nhà,  ở  phần môn 
tập viết cũng như tất cả các phân môn khác.
Khi học sinh tập viết chữ, giáo viên cần luôn luôn chú ý uốn nắn  
để  các em cầm bút đúng và ngồi đúng tư  thế, bài viết đẹp phải đi kèm  
với tư  thế  viết đúng. Rèn cho trẻ  viết đẹp mà quên mất việc uốn nắn  
cách ngồi viết là thiếu sót lớn của giáo viên. Cần chú ý các hình thức  
luyện tập cơ bản sau:
­ Tập viết chữ (Chữ cái, chữ số, từ ngữ ) trên bảng lớp. Hình thức  
tập viết trên bảng đen có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết chữ và  
bước đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh. Hình thức này thường 
được dùng khi kiểm tra bài cũ hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, 
­ 12 ­



bước luyện tập chữ  viết  ở  lớp. Qua  đó giáo viên phát hiện chỗ  sai  
( Hình dáng, kích thước, thứ tự viết các nét..... ) để  uốn nắn chung cho  
cả lớp hoặc đánh giá, cho điểm.
­ Tập viết chữ vào bảng con của học sinh. 
Học sinh luyện viết chữ  bằng phấn trên bảng cong trước khi tập viết  
vào vở học sinh, có thể tập viết chữ cái, vần, các chữ hoặc từ có 2 đến 
3 chữ vào bảng con. Khi sử dụng bảng con, giáo viên hướng dẫn các em  
cả  cách lau bảng từ  trên xuống dưới, cách sử  dụng và bảo quản phấn,  
cách lau tay sau khi viết để giữ vệ sinh, sau khi học sinh viết xong, giáo 
viên kiểm tra bằng cách cho học sinh giơ  bảng. Cần chú ý giữ  trật tự 
trong khi dùng hình thức luyện tập này ( Lưu ý phải có giẻ   ướt để  lau 
bảng ).
Đối với học sinh lớp 1, cần phải có mẫu trình bày bảng con từng  
nội dung để học sinh nhìn vào bảng đó mà viết theo
­ Luyện viết trong vở tập viết.
Muốn cho học sinh sử  dụng có hiệu quả  vở  tập viết, giáo viên 
cần hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu về  kỹ  năng viết của từng bài 
viết ( Chữ mẫu, dấu chỉ khoảng cách chữ, dấu chỉ vị chí đặt bút, thứ tự 
nét viết ). Đảm bảo tốt các công việc trên sẽ giúp các em viết tốt hơn ở 
những dòng sau.
VD: Luyện viết trong vở luyện viết chữ đẹp.
ở lớp tôi cuốn vở này tôi luyện cho học sinh vào 15 phút đầu giờ 
và những hoạt động ngoại khoá. Để  luyện viết đẹp đòi hỏi học sinh 
phải có sự  nổ  lực cao về  kỹ  thuật viết cũng như  tốc độ  viết. Có lẽ  vì 
thế mà chữ viết của học sinh lớp tôi ngày một đúng và đẹp hơn.
Luyện   viết   trong   khi   học   các   môn   khác   (   Toán,   TNXH,   Đạo  
đức... ) 
­ Giáo viên cần tận dụng việc viết các bài học, bài làm ở các môn 
học khác để học sinh tập viết. Đối với lớp 1 nói riêng, bậc Tiểu học nói 
­ 13 ­



chung, sự  nghiêm khắc của giáo viên về  chất lượng chữ  viết  ở  tất cả 
cac môn học là sự  cần thiết. Có như  thế, việc luyện tập chữ  viết mới 
được củng cố  đồng bộ, thường xuyên. Việc làm này đòi hỏi giáo viên 
ngoài hiểu biết về  chuyên môn cần phải kiên trì, cẩn thận và lòng yêu 
nghề mến trẻ.
Khi đến lớp, người giáo viên cùng lúc đóng hai vai trò:
Một là giáo viên với tư  cách tổ  chức, hướng dẫn học sinh cách  
học, cách viết và đồng thời giáo viên phải tỏ  ra mình là một người bạn 
thân thiết với học sinh đẻ  các em cảm thấy không có sự  xa cách, phân  
biệt, mặc cảm dể từ đó phát huy tối đa tính tự  tin, tự  chủ  cho học sinh  
cũng như tạo một không khí thoải mái, sôi động của tiết học.
Luyện “ Viết chữ thạo ” phải dựa trên cơ sở “ Đọc thông ”
Thực tế cho thấy học sinh mà “ Đọc thông ” thì sẽ  “ Viết thạo ”.  
Vì vậy muốn rèn chữ  “ Viết thạo ” phải gắn liền với việc “ Đọc thông  
” 
Nhìn lại một số học sinh viết chưa đẹp, tốc độ  viết chậm thì tất 
cả các em này đều có điểm chung là: Đánh vần chậm, đọc hơi kém. Vậy  
tôi lại có biện pháp như sau:
+ Trong các bài đọc ở lớp bất kỳ bài đọc nào tôi cũng gọi các em 
đọc đi, đọc lại nhiều lần và giúp các em sửa sai ngay nếu có.
+ Giao việc về  nhà: Yêu cầu đọc bài cũ nhiều lần đến thuộc và 
xem trước bài mới SGK tập viết 1 đồng thời viết bài cũ vào vở ở nhà.
Đặc biệt lưu ý học sinh đọc đúng để  viết đúng bởi vì tại địa bàn học  
sinh đọc hay nhầm lẫn s/x; tr/ch; r/d; ?/~  dẫn đến viết sai lỗi chính tả. 
( Tuy nhiên trường hợp này cũng chỉ ở một số học sinh ).
Ngoài ra còn một số học sinh còn viết sai vần trong tiếng.
VD: “ Con khướư ” là “ Con khíu ”
         “ Buổi chiều ” là “ Bủi chiều ”


­ 14 ­


Để rèn luyện và giúp đỡ các em sửa những lỗi này tôi lại áp dụng  
biện pháp sau:
+ Rèn phát âm và viết tiếng bằng cách:
* Giao việc về nhà: Đọc đi đọc lại nhiều lần những âm, vần hay 
sai và viết những chữ có âm vần hay lẫn lộn, ví dụ: Sạch sẽ, chăn trâu, 
bé ngã, buôn làng.....
*Trong cácgiờ  học : Học sinh phát âm nhiều lần những tiếng, từ 
có âm mà học sinh hay nhầm lẫn rồi học sinh cùng nhóm nhận xét, đọc  
lại phần việc của bạn
2.3. Tổ chức học nhóm: 
Ngoài những biện pháp nói trên theo tôi việc tổ chức học sinh học  
theo nhóm, học theo tổ, nhóm là mọt biện pháp rất hữu hiệu trong quá 
trình dạy tập viết. Ông cha ta đã dạy “ Học thày không tầy học bạn ”.  
Thật vậy, không thể  lúc nào giáo viên cũng có thể  bao quát toàn lớp, 
quan tâm sát sao đến từng học sinh. Việc tổ  chức cho các em học tập  
lẫn nhau là một vấn đề  đơn giản nhưng mang lại hiệu quả không nhỏ.  
Do vậy tôi luôn xếp học sinh học kèm cặp VD: Một em học khá giỏi, 
viết chữ  đẹp ngồi cùng bàn với những em viết chậm, chữ  chưa đẹp –  
Nên  kết  quả  khả  quan và   đáng mừng. Sau một thời gian  ngắn chất 
lượng chữ viết được nâng lên rõ rệt.
2.4. Chú ý đến chữ cái, chữ số có sự thay đổi về kích cỡ, kiểu dáng:
Trong quá trình dạy tập viết cho học sinh lớp 1 tôi nhận thấy học  
sinh   hay   viết   sai   hoặc   viết   xấu   ở   những   chữ   có   nét   khuyết   (   Trên. 
dưới ), hoặc chữ có nét thắt (s/r...)
Đây là những chữ có sự thay đổi về chiều cao so với mẫu chữ cải 
cách trước đây. Hiện nay các em còn chữ b, h, l, k, g, y thành những con  

chữ  có độ  cao 2,5 đơn vị   tương ứng với 5 ô ly trên vở. Có một số  học 
sinh chỉ viết 4 hàng kẻ, tuy nhiên có một số học sinh viết đúng chiều cao  

­ 15 ­


thì điểm thắt bụng của chữ  lại không đúng vị  trí hoặc nét khuyết viết  
không thẳng theo quy định.
Tương tự với chữ  r/s thì học sinh thường chỉ viết một đơn vị thay 
vào đó là phải viết với chiều cao 2,5 đơn vị.
Đối với chữ  số  nhìn chung các chữ  số  căn bản đựơc giữ  nguyên  
về  hình dáng. Song để  đáp  ứng nhu cầu khoa học cũng như   thẩm mỹ 
nên có một vài chữ thay đổi một chút về  hình dáng.Ví dụ  : Số  3, 4 , 5 ,  
7 .
Đặc biệt là nửa học kỳ 2, học sinh bắt đầu tập viết vần , tiếng và  
từ   ứng dụng ... theo cỡ  chữ  nhỏ  nét đều ( ngoài việc học viết chữ  cỡ 
vừa) nên lúc này những chữ có nét khuyết và chữ s/r học sinh dễ viết sai  
(vì sự lại một nửa về chiều cao). Thật sự với học sinh lớp 1 việc phân 
biệt con chữ về chiều cao như thế là rất khó vì các em chưa có sự  ước 
lượng về chia phần nên dẫn tới hay viết sai.
Hơn nữa chữ  viết của ta có nhiều nét phụ  nên khi dạy tập viết  
cần lưu ý quy tắc viết dấu phẩy, quy trình viết một chữ có dấu phụ như 
thế  nào để  đảm bảo tốc độ  viết cho học sinh. Có thể  hướng dẫn như 
sau: VD: “Thưởng” thì viết xong “Thuong” rồi mới đánh dấu phụ.
­Từ những đúc rút kinh nghiệm trong cả quá trnh tôi rút ra đ
́
ược 
quy trnh d
́
ạy một tiết tập viết như sau:

 I/ Đối với giáo viên:
Bản thân mỗi giáo viên cần nắm vững  quy trình dạy tập viết của  
từng con chữ để không ngừng nâng cao chất lượng dạy viết chữ mà còn  
phối hợp với các phần khác nhau nhằm phát huy vai trò công cụ  của  
việc dạy tập viết.
1. Thực hiện nghiêm túc chương trình chung của một bài tập viết.
Hệ  thống của các hoạt động dạy một tiết tập viết gồm các quy trình 
sau:

­ 16 ­


a.Giới thiệu nội dung bài học:
Giáo viên đọc gộp cả tiếng, có thể giảng nghĩa từ và dòng chữ ứng 
dụng. Gọi học sinh đọc lại toàn bài kết hợp với đánh vần (Nắm cấu tạo 
chữ ).
b.Phân tích cấu tạo chữ:
b1. Phân tích chữ  cái:  Giáo viên gợi ý và đặt câu hỏi, gắn chữ 
mẫu lên bảng lớp để học sinh nhận xét và phân tích hình dáng, cấu tạo  
chữ  cần dạy (Các nét, sự  liên kết các nét, điểm đặt bút, điểm dừng bút 
của chữ).
Quan sát chữ mẫu, học sinh sẽ phát hiện được sự giống nhau, khác nhau 
của chữ  đang học với chữ  đã học, từ  đó khắc sâu về  biểu tượng chữ 
đang học.
b2. Phân tích vần, từ và dòng chữ viết ứng dụng: Bước này giáo 
viên củng cố một số chữ cái khó viết hoặc chữ  cái mà học sinh dễ viết  
sai  (những con chữ có nét khuyết, nét cong, nét vòng).
c.Giáo viên viết mẫu:
­ Giáo viên giảng giải và minh hoạ  cách viết như  cách đưa ngòi 
bút thế  nào thứ  tự   viết nét ra sao. Giáo viên cần phân tích cả  dấu phụ 

của từng con chữ và các dấu thanh.
­ Viết mẫu là thao tác trực quan của giáo viên trên bảng lớp giúp 
học sinh nắm bắt được quy trình viết từng nét chữ, từng chữ.
Do vậy, giáo viên phải viết chậm, đúng quy tắc viết chữ. Khi viết 
mẫu trên bảng lớp, giáo viên phải tạo điều kiện để  học sinh nhìn thấy 
tay giáo viên viết từng nét chữ.
Đối với những nét chữ khó (hoặc nét nối) giáo viên cần phối hợp  
giảng giải về  cách viết, hoặc có thể  phân tích và viết mẫu trích đoạn 
những nét chữ đó ra phần bảng phụ.

­ 17 ­


VD: Khi viết chữ “b”, giáo viên có thể phân tích cách viết chữ  “b” 
gồm 2 nét: Nét khuyết trên và nét khuyết thắt.
Học sinh thảo luận so sánh chữ  “b” với chữ “e” mới được học ở 
bài trước giống nhau và khác nhau như thế nào?.
d.Học sinh luyện viết trên bảng:
d1. Học sinh đựơc luyện tập: Viết trên bảng con (cả lớp) và viết 
trên bảng lớp (một số học sinh) theo từng chữ mà giáo viên yêu cầu. Nội  
dung luyện tập có thể theo thứ tự bài dạy hay chỉ  chọn những chỗ viết 
khó mà học sinh hay viết sai. Học sinh không cần viết hết toàn bộ dòng 
chữ   ứng dụng mà có thể  chọn những chữ  khó viết hoặc những chữ  có  
chỗ nối không thuận lợi khi liên kết các con chữ.
d2. Nhận xét chữ viết luyện tập của học sinh:
­ Học sinh quan sát lại chữ mẫu, giáo viên nêu câu hỏi để học sinh  
nhận xét chữ  viết của mình, của bạn và tham gia sửa chữa những chỗ 
viết sai.
­ Giáo viên khẳng định lại kiến thức học sinh cần nắm vững,  
chữa nét chữ học sinh viết sai. Đối với chữ viết sai, giáo viên không viết  

đè lên mà viết chữ đúng cỡ bên cạnh.
e. Học sinh viết vào vở:
­ Giáo viên nêu yêu cầu và nội dung cần viết trong bài cần viết 
(điểm đặt bút, khung chữ  đường kẻ  dòng, số  dòng viết của từng nội 
dung ...).
­ Học sinh thực hành viết vào vở.
­ Giáo viên hướng dẫn từng học sinh viết chữ (sửa chữa chữ sai,  
tư  thế  ngồi viết, cách cầm bút, cũng có thể  rút kinh nghiệm chung cả 
lớp).

­ 18 ­


­ Chấm điểm tại chỗ: Kết hợp với quá trình nhận xét cá nhân học  
sinh giáo viên có thể  chấm bài của một số  học sinh vào cuối thời gian  
viết vào vở.
g. Củng cố bài viết:
Tuỳ  thời gian còn lại của giờ  dạy, giáo viên củng cố  kiến thức  
trọng tâm bằng các hình thức sau:
­ Sử  dụng bài viết của học sinh trong vở  để  cùng học sinh nhận 
xét, rút kinh nghiệm ưu khuyết điểm về kĩ năng viết chữ.
­ Yêu cầu học sinh viết bảng lớp các chữ  có liên quan đến trọng  
tâm của bài tập viết, sau đó giáo viên và học sinh khác cùng sửa chữa.
­ Khi viết chữ đúng mẫu, rõ ràng, đẹp,có thể dùng bộ chữ rời cho  
học sinh thi ghép nét tạo chữ cái.
Với những kiến thức củng cố đa dạng như trên, nội dung bài viết  
sẽ  được khắc sâu. Học sinh ghi nhớ cách viết chữ  cái, viết từ, câu ứng 
dụng trong hoàn cảnh khác nhau. Cần tăng cường những hình thức củng 
cố, nâng cao bài viết để  một mặt tạo cho giờ  học không khí vui tươi 
sinh động, nhẹ nhàng, mặt khác tạo diều kiện phối hợp nhịp nhàng giữa 

tập viết với học vần, chính tả, góp phần nâng cao hiệu quả đọc và viết 
cho học sinh.

C: KẾT LUẬN CHUNG
Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng vào  thực tế giảng dạy cho học 
sinh tôi thấy kết quả đạt được khả quan hơn nhiều so với kết quả khảo  
sát đầu năm, học sinh xác định được rõ ràng về độ cao, hình dáng, điểm 
đặt bút và điểm kết thúc của chữ. Từ đó các em không những viết đúng, 
đẹp mà còn viết nhanh. Mặt khác tôi còn có thể  đọc cho học sinh viết 
hoặc học sinh tự chép được một đoạn văn ngắn từ 2 đến 3 câu mà vẫn  
đảm bảo được tốc độ  quy định, khoảng cách của chữ, viết liền nét…
tính thẩm mỹ của bài viết.
I/ Đối với giáo viên:
­ 19 ­


 Không ngừng đổi mới phương pháp dạy học:
Cả chữ viết của giáo viên cũng xem là chữ  mẫu trực quan nhất để  học  
sinh nhìn vào đó mà học tập, luyện theo. Chính vì thế chữ viết của giáo 
viên phải thực sự chuẩn về kiểu cách lẫn kích thước.
Học sinh lớp 1 có đặc điểm dễ bắt chước. Chính vì thế các em sẽ 
học ở cô giáo của mình từ  việc cầm bút, cầm phấn, tư thế khi viết đến 
kỹ  thuật viết. Có thể  nói, đối với lớp 1  chỉ  cần nhìn chữ  viết của học  
sinh sẽ  đánh giá được một phần năng lực giảng dạy của giáo viên. Vì 
vậy việc viết mẫu của giáo viên là hết sức cần thiết và quan trọng. Đây 
là yếu tố  quan trọng nhằm nâng cao chất lượng dạy học của giáo viên 
duy trì những nề  nếp, thói quen của học sinh, tạo điều kiện cho việc  
phát triển toàn diện. Cần thấy rằng chất lượng viết của học sinh lớp 1  
là một trong những yếu tố hàng đầu cơ bản của chất lượng học tập môn 
Tiếng Việt, kỹ  năng viết đúng, rõ ràng, nhanh, trình bày bài viết sạch 

đẹp theo yêu cầu đề  ra sẽ góp phần tạo điều kiện cho học sinh học tốt 
các môn học khác  ở  Tiểu học. Đồng thời hình thành đựơc nhiều thói 
quen và phẩm chất cao đẹp của học sinh. Kỹ  năng viết chữ  được hình 
thành rèn luyện trước tiên và chủ yếu trong giờ tập viết, song cũng được 
củng cố  và hoàn thiện trong nhiều giờ  học của các môn học khác. Do 
vậy, nó đòi hỏi sự quan tâm và trách nhiệm của giáo viên trong tất cả các  
giờ học.
­ Giáo viên có ý thức tự  rèn luyện, tự  bồi dưỡng và hưởng  ứng 
tích cực cuộc thi “ viết chữ đẹp ” do Vụ Tiểu học và Nhà xuất bản giáo 
dục phối hợp tổ chức. Đặc biệt là mối quan hệ tay ba giữa “nhà trường 
– gia đình – xã hội”.
­ Mỗi giáo viên phải luôn tự rèn luyện về chữ viết để có khả năng 
phục vụ  tốt cho việc dạy học sinh từ  nề  nếp và thói quen chữ  viết  
thường xuyên kiểm tra đánh giá và nhắc nhở học sinh thực hiện các yêu 
cầu “giữ vở sạch, viết chữ đẹp”. Tích cực tham gia phong trào rèn luyện 
và năng cao chất lượng chữ viết trong nhà trường.

­ 20 ­


II/ Đối với phụ huynh:
Trước hết phụ  huynh cần phải chuẩn bị  đầy đủ  bảng con, phấn 
viết, khăn lau bảng, vở tập viết cho học sinh đúng quy định.
Chăm lo đến việc rèn chữ  viết cho con em nhiều hơn nữa. Luôn 
có sự  động viên kịp thời mỗi khi học sinh đựơc điểm cao, có bài viết  
đẹp. Có thái độ  nghiêm khắc với việc rèn chữ  với con em mình giữ 
thông tin 2 chiều đối với giáo viên chủ nhiệm. Giúp phụ huynh thấy nếu 
không có sự kết hợp với cô giáo và nhà trường sẽ không mang lại hiệu  
quả.


+ Trên đây là những việc làm và biện pháp thực hiện để nâng cao 
chất lượng chữ  viết cho học sinh lớp 1 mà tôi đã thực hiện trong thời  
gian qua .  Cô giáo phải là người mẹ hiền thực sự của học sinh mỗi khi  
đến lớp, phải có lòng yêu nghề  mến trẻ  gần gũi, nhiệt tình và thương 
yêu học sinh. Nên lúc này cô phải đảm nhiệm cả 2 chức năng vừa dạy 
chữ vừa dạy người.
­ Tổ chức cho học sinh luyện viết theo nhóm.
­ Có phương pháp làm việc khoa học, hợp lý, tránh để học sinh rơi  
vào tình trạng nhàm chán.
­ Giáo viên phải chuẩn mực về lời nói, giọng nói, chữ viết.
­Tôi rất mong sự đóng góp nhiệt tình của đồng nghiệp .
*)Ý KIẾN ĐỀ XUẤT:
Kính mong Sở  giáo dục và đào tạo. Phòng giáo dục và đào tạo 
Thành phố  thường xuyên tổ  chức chuyên đề  bồi dưỡng thường xuyên 
như  hiện nay. Để  chúng tôi được học hỏi đồng nghiệp ,trau dồi thêm 
kiến thức để giúp học sinh viết đúng và đẹp hơn trong dạy Tập viết nói 
riêng và dạy các môn học khác nói chung.
­ 21 ­


Tôi xin chân thành cảm ơn.

Hàm Rồng ,ngày 20 tháng 4 năm 2011
                                                        Người viết 

                                                              Nguyễn Thị Sử

  

­ 22 ­




×