Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.76 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HOÀNG VĂN KHẢI

GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN
VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ
THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2019


Công trình đƣợc hoàn thành tại:
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS Vũ Hồng Sơn

2. PGS, TS Đặng Quang Định

Phản biện 1: ……………………………………………
………………………………………….
Phản biện 2: ……………………………………………
....………………………………………..
Phản biện 3: ……………………………………………
…………………………………………..

Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nƣớc
họp tại: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


Vào hồi…. giờ…. ngày…. tháng…. năm….

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thƣ viện quốc gia Hà Nội
hoặc Thƣ viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Hoàng Văn Khải (2016), “Phát triển cá nhân - cơ hội và thách thức
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Thông tin Khoa học chính trị, Số 2 (3).
2. Hoàng Văn Khải (2016), “Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển cá
nhân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí
Sinh hoạt lý luận, Số 5 (138).
3. Hoàng Văn Khải (2016), “Về quan điểm đánh giá sự phát triển cá nhân
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa
học, (21).
4. Hoàng Văn Khải (2016), “Ảnh hưởng của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đến phát triển cá nhân ở Việt Nam hiện nay”,
Tạp chí Khoa học chính trị, (7).
5. Hoàng Văn Khải (2018), “Giải pháp phát triển cá nhân trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và
Truyền thông, (4).
6. Hoàng Văn Khải (2019), “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và xã hội trong điều kiện kinh
tế thị trường”, Tạp chí Thông tin Khoa học chính trị, số 1 (14).
7. Hoàng Văn Khải (2019), “Nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích
trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo chức Việt Nam, (149).
8. Hoàng Văn Khải (2019), “Cơ hội và thách thức của biến đổi khí hậu

với giải quyết vấn đề lao động, việc làm vùng Tây Nam bộ hiện nay Từ góc nhìn lợi ích của người nông dân”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
Vấn đề lao động, việc làm ở nông thôn vùng Tây Nam bộ đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững, Học viện Chính trị khu vực IV - Đề tài
KHCN-TNB.ĐT14-19/x20
9. Hoàng Văn Khải - Trần Văn Thắng (2019), “Giải quyết hài hòa quan
hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (12).
10. Hoàng Văn Khải (2019), “Giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích - động
lực quan trọng để thực hiện tư tưởng đại đoàn kết theo Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản, (931).


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lợi ích là một trong những động lực hoạt động của con người, của sự
biến đổi xã hội và là một trong những vấn đề căn bản, có ý nghĩa quyết
định bản chất các mối quan hệ trong xã hội. Trong quá trình tồn tại và phát
triển xã hội, sự tác động lẫn nhau giữa các chủ thể lợi ích nhằm thỏa mãn
nhu cầu sẽ hình thành quan hệ lợi ích. Mối quan hệ giữa các lợi ích, đặc
biệt giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội tạo nên những vector thúc đẩy
hoạt động của con người và sự vận động của xã hội theo những chiều
hướng khác nhau, mạnh yếu khác nhau. Tuy nhiên, quan hệ lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội luôn nảy sinh vấn đề phức tạp, bởi lợi ích luôn biến đổi
theo sự biến đổi của nhu cầu xã hội. Cho đến hiện nay, ở tất cả các cấp độ
của lý luận về lợi ích nói chung và lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội nói riêng
vẫn đặt ra những vấn đề cần phải nghiên cứu, nhất là trong bối cảnh kinh
tế thị trường, các loại lợi ích thể hiện vai trò của mình một cách đặc thù,
khác biệt so với các điều kiện xã hội khác.

Ở nước ta, trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trương định
hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò làm
động lực của lợi ích đối với sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, trong khoảng 20
năm trở lại đây, khi chúng ta đi ngày càng sâu vào nền kinh tế thị trường,
vấn đề lợi ích nói chung, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nói riêng lại trở
nên phức tạp, tạo ra những vấn đề “nóng” cần phải giải quyết, xuất hiện
những biểu hiện của sự mất cân bằng, thiên lệch trong giải quyết quan hệ
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Một số lực lượng xã hội nhân danh
lợi ích xã hội, để mưu cầu lợi ích cá nhân không chính đáng, xâm phạm lợi
ích xã hội. Những hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí, gây thất thoát
tài sản Nhà nước, buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, hàng kém chất lượng, lừa
đảo, lợi ích nhóm tiêu cực lũng đoạn việc quản lý, điều hành, phân phối
nói chung... Thực chất đó là việc đề cao quá mức lợi ích cá nhân, bất chấp
luật pháp, đạo đức để đạt được lợi ích cá nhân. Song ở thái cực ngược lại,
lại có những lợi ích cá nhân chính đáng chưa được quan tâm đúng mức,
tạo điều kiện phát triển, nhiều giá trị cho sự phát triển cá nhân chưa được
tạo lập, thành phần kinh tế tư nhân chưa thực sự phát huy một cách hiệu
quả tối đa... Cùng với đó, càng hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị
trường mạnh mẽ thì càng đặt ra vấn đề là phải làm cho cá nhân thỏa mãn
lợi ích chính đáng, đồng thời phải thúc đẩy đạt được những lợi ích xã hội
để vừa bảo đảm sự phát triển, vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.


2

Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn và lý luận nêu trên và với mong
muốn góp phần đóng góp vào việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội, nghiên cứu sinh chọn vấn đề “Giải quyết quan hệ giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay” làm đề tài luận án của mình.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận, thực trạng, nguyên nhân
và những vấn đề đặt ra trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay,
luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết hài hòa quan hệ
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội như khái niệm, nội dung, phương thức và các nhân tố
tác động.
- Phân tích thực trạng, nguyên nhân của những hạn chế và những vấn
đề đặt ra từ giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết hài hòa quan hệ giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội góp phần thúc đẩy sự phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu việc giải quyết quan hệ giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay. Tuy nhiên, giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội là vấn đề rất rộng, ở đây, luận án chỉ giới hạn nghiên cứu việc giải
quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chủ yếu thông qua lợi
ích kinh tế trong lĩnh vực sở hữu và phân phối; chủ thể giải quyết quan hệ
lợi ích này chủ yếu là Đảng, Nhà nước và cá nhân. Luận án cũng chỉ giới

hạn phạm vi nghiên cứu lợi ích xã hội ở đây chính là lợi ích của cả xã hội
với tính cách là một dân tộc - quốc gia.


3

- Về không gian: nghiên cứu quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam.
- Về thời gian: Việc nghiên cứu được tiến hành chủ yếu trong giai
đoạn từ khi bắt đầu đổi mới đất nước (1986) cho đến nay.
4. Những đóng góp mới của luận án
- Làm rõ nội dung giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội, những nhân tố tác động tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích những kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân và
những vấn đề đặt ra của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay trên các
lĩnh vực chủ yếu như sở hữu và phân phối.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu và tổ chức thực hiện tốt trên thực tế
để giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, góp phần tạo động lực quan trọng
thúc đẩy sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cá nhân, xã
hội, lợi ích, quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội... Ngoài ra, luận án cũng
kế thừa thành quả của những công trình nghiên cứu trước đó về những vấn
đề liên quan trực tiếp đến nội dung của luận án.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch s để phân tích bản chất của lợi ích, điều
kiện hình thành, tồn tại, biến đổi và tính lịch s của lợi ích, lợi ích cá nhân,
lợi ích xã hội, quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội...
Luận án s dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp so sánh, phương pháp tổng kết thực tiễn, phương pháp thống kê, các
phương pháp thu thập và
lý số liệu, thông tin (thứ cấp)... để phân tích
thực trạng việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay bằng các dẫn liệu
cụ thể.
6. Ý nghĩa của luận án
Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo
cho những người làm công tác quản lý xã hội xây dựng và thực hiện tốt
các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước nhằm giải quyết


4

quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong những điều kiện cụ thể
nhất định ở nước ta hiện nay. Cùng với đó, những nội dung này có thể làm
tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu giảng dạy triết học, các
ngành khoa học xã hội và nhân văn tại các học viện, trường đại học, cao
đẳng, trường chính trị tỉnh (thành phố).
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm: 04 chương, 12 tiết.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ LỢI ÍCH, LỢI ÍCH CÁ NHÂN,
LỢI ÍCH XÃ HỘI, CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI VIỆC GIẢI QUYẾT
QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về phạm trù lợi ích
Tiêu biểu là các công trình như: cuốn sách Về động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội của tác giả Lê Hữu Tầng; cuốn sách Lợi ích - động
lực của sự phát triển xã hội của tác giả Nguyễn Linh Khiếu; cuốn sách Nhu
cầu: động lực và định hướng xã hội của tác giả Lê Thị Kim Chi; công trình
Lợi ích - động lực của sự phát triển bền vững của tác giả Hoàng Văn
Luân... Qua các công trình này, các tác giả đã chỉ ra khái niệm, bản chất
của lợi ích, vai trò của lợi ích và phân loại lợi ích (cả cách tiếp cận của các
học giả Liên Xô và phương Tây)... Chúng tôi kế thừa được nhiều giá trị về
mặt lý luận và cả thực tiễn về vấn đề lợi ích từ những công trình này.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về khái niệm lợi ích cá nhân,
lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế
Các công trình đã đề cập trực tiếp đến các khái niệm lợi ích cá nhân,
lợi ích xã hội tiêu biểu như: công trình Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai
cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay của tác giả Đặng Quang Định; trong công
trình Vấn đề lợi ích trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở vùng Nam bộ hiện nay của tác giả Lê Văn B u... Vấn đề lợi ích
kinh tế đã được các công trình đề cập tới trực tiếp như: cuốn sách Bàn về
các lợi ích kinh tế của các tác giả Đào Duy Tùng, Lê Xuân Tùng, Vũ Hữu
Ngoạn; công trình Giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong quá trình đô thị
hóa ở nước ta hiện nay của tác giả Đỗ Huy Hà... Những công trình này đã
góp phần giúp chúng tôi ác định rõ nội hàm, ngoại diên của các khái niệm


5


lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế và phân tích các vấn đề liên
quan được nêu trong luận án.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về quan hệ và giải quyết
quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
Đây là nội dung chưa có công trình chuyên biệt nào đề cập tới, song
đã có một số công trình đã đề cập tới ở nhiều mức độ, khía cạnh khác
nhau, tiêu biểu như: cuốn sách Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích của
tác giả Nguyễn Linh Khiếu; công trình Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay của tác giả Trần
Văn Phòng; bài viết Mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích công cộng và lợi
ích cá nhân của Tang Shan Qing (Trung Quốc); bài viết Đổi mới nhận
thức về mâu thuẫn và Vấn đề mâu thuẫn trong giai đoạn cách mạng mới ở
nước ta của tác giả Phạm Ngọc Quang; công trình Quản trị xung đột lợi
ích - các lý thuyết và vấn đề đặt ra ở Việt Nam hiện nay tác giả Hoàng Văn
Luân; công trình Bàn về mâu thuẫn xung đột lợi ích hiện nay tác giả Hồ Bá
Thâm… Qua các công trình này đã gợi mở để chúng tôi đưa ra những nội
dung, phương thức của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay.
1.1.4. Những công trình nghiên cứu về các nhân tố ảnh hƣởng tới
việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
Các công trình nêu trên ít nhiều đều đã đề cập tới các nhân tố ảnh
hưởng tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội,
song có thể kể đến một số công trình khác nữa như: bài viết Mối quan hệ
giữa trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm nhà nước trong điều kiện kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay của tác giả Lê Thi và nhất là công trình
Quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay của tác giả Trần Văn Phòng đã phác thảo các nhân tố ảnh
hưởng tới việc giải quyết quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong điều kiện
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Đây là những gợi mở hữu ích cho

chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ
LỢI ÍCH XÃ HỘI

Qua khảo cứu các công trình nghiên cứu về lợi ích chúng tôi nhận
thấy, chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt về thực trạng giải quyết
quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Song, có thể nói, đã có khá
nhiều công trình đề cập tới thực trạng việc giải quyết quan hệ giữa cá nhân
và xã hội, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở những khía cạnh cụ thể trong
điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Các công trình có thể kể


6

đến như: công trình Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội
trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay của tác giả Phạm Văn
Đức; công trình Lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội: từ góc nhìn lịch sử đạo
đức học của tác giả Nguyễn Văn Phúc; công trình Vấn đề mâu thuẫn xã
hội ở nông thôn Việt Nam hiện nay của tác giả Trần Đắc Hiến; công trình
Vấn đề lợi ích kinh tế của người nông dân trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa hiện nay của tác giả Trần Thanh Giang; công trình Mâu thuẫn
về lợi ích giữa các nhóm xã hội trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay của tác giả Trần Thị Bích Huệ… Đề cập ở góc
độ khác, một số công trình đã đề cập tới những biểu hiện phức tạp của
quan hệ lợi ích hiện nay như lợi ích nhóm, chủ nghĩa cá nhân, “chủ nghĩa
tư bản thân hữu”, như: công trình Lợi ích nhóm - Thực trạng và giải pháp
của tác giả Lê Quốc Lý; bài viết ợi ích nh m và
hủ nghĩa tư bản
thân hữu - cảnh báo nguy cơ của tác giả Vũ Ngọc Hoàng; cuốn sách Tư

bản thân hữu Trung Quốc của tác giả Minxin Pei; bài viết Chủ nghĩa cá
nhân - nguy cơ của một đảng cầm quyền và hướng khắc phục của tác giả
Nguyễn Văn Huyên…
Đi vào đánh giá thực trạng của phương thức giải quyết quan hệ giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở những khía cạnh cụ thể trên một số
phương diện như sở hữu, phân phối đã có nhiều công trình đã đề cập tới,
tiêu biểu như: Bài viết Thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay:
mâu thuẫn và phương pháp giải quyết của Nguyễn Tấn Hùng và Lê Hữu
Ái; công trình Biến đổi của quan hệ sản xuất ở Việt Nam từ năm 1986 đến
nay: Thực trạng và những vấn đề đặt ra của tác giả Lê Thị Vinh…
Có thể nói, những công trình nêu trên đã phác họa nên một số khía
cạnh cụ thể của thực trạng giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội ở nước ta. Trên cơ sở đó, luận án đã có những phân tích, luận
giải cụ thể để đánh giá kết quả tích cực đạt được, hạn chế, nguyên nhân và
nêu một số vấn đề đặt ra trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay,
nhất là trong lĩnh vực sở hữu và phân phối, thông qua phương thức tác
động của các chủ thể lợi ích.
1.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢI
QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI

Các công trình nghiên cứu nêu trên đều đã đưa ra một số các quan
điểm có tính định hướng và giải pháp giải quyết các quan hệ lợi ích trên
một số phương diện cụ thể. Mỗi công trình đưa ra một số giải pháp không
hoàn toàn giống nhau, song khái quát lại có thể thấy các công trình này
đều thống nhất ở khía cạnh cho rằng cần đưa ra các giải pháp kết hợp các


7


lợi ích và cơ chế phát huy các lợi ích, thực hiện công bằng xã hội cũng như
tăng cường x lý các vi phạm phát sinh liên quan đến các quan hệ lợi ích.
Một số công trình tiêu biểu như: công trình Lợi ích xã hội và pháp luật của
tác giả Võ Khánh Vinh; bài viết Quan điểm của Đảng về giải quyết vấn đề
lợi ích tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới của tác
giả Đặng Quang Định; công trình Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi
ích cá nhân, tập thể và xã hội - động lực phát triển kinh tế - xã hội ở Việt
Nam của tác giả Phạm Thị Hằng; bài viết Thực hiện công bằng xã hội đối
với các hình thức sở hữu vì sự phát triển con người ở nước ta hiện nay của
tác giả Trần Văn Rón và Lương Đình Hải; bài viết Tạo sự hài hòa về lợi
ích giữa công nhân và doanh nhân ở Việt Nam hiện nay của tác giả Vũ
Tiến Dũng… Đây đều là những công trình có giá trị tham khảo tốt cho
chúng tôi trong việc gợi mở các giải pháp được đề xuất trong luận án.
1.4. GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG CÔNG TRÌNH TRÊN VÀ MỘT SỐ VẤN
ĐỀ LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT

1.4.1. Giá trị của những công trình nghiên cứu nêu trên
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã khái quát khá hệ thống
những vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích, phân loại, vị trí, vai trò của lợi
ích, về lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội, về cá nhân và xã hội, về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và ảnh hưởng của nó tới các quan hệ
xã hội hiện nay.
Thứ hai, các công trình cũng đã bước đầu phân tích về quan hệ giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội; các công trình cũng đã có những thống
nhất khi khẳng định: việc giải quyết các mâu thuẫn lợi ích có thể bằng
cách thông qua tạo lập cơ chế mới để kết hợp hài hòa các lợi ích đối lập,
chứ không phải bằng các biện pháp hành chính để triệt tiêu lợi ích nào đó.
Thứ ba, các công trình trên đây, đã có những đánh giá về thực
trạng giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trên
phương diện tổng quát, thông qua quan hệ giữa cá nhân và xã hội, cũng

như các khía cạnh cụ thể là các mâu thuẫn liên quan đến lợi ích nhóm,
lĩnh vực đất đai, thu nhập, việc làm… trong điều kiện kinh tế thị trường
hay trong bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế...
Thứ tư, các công trình trên cũng đã đưa ra các gợi mở về những giải
pháp để giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, nhưng
chủ yếu đề cập qua việc giải quyết hài hòa quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Các công trình cũng đã đi vào phân tích, đề xuất các giải pháp ở những
góc độ khá cụ thể như: thực hiện đa dạng trong sở hữu, thực hiện phân
phối hợp lý, thực hiện an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; đảm bảo hài hòa của


8

các chủ thể như nông dân, công nhân trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và đô thị hóa...
1.4.2. Một số vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết
Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị đã đạt được, các công trình nêu
trên cũng có những mặt chưa được làm rõ, chúng tôi mong sẽ bổ sung, làm
sâu sắc thêm ở công trình của mình những nội dung sau:
Thứ nhất, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về lợi ích cá nhân,
những biểu hiện phức tạp của lợi ích cá nhân không chính đáng (lợi ích
nhóm xấu, nhân danh lợi ích khác để tư lợi cá nhân) và những biểu hiện
đa dạng, yêu cầu của thực hiện lợi ích xã hội trong điều kiện hiện nay.
Cùng với đó, luận án phân tích nội dung và phương thức giải quyết quan
hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay ở lĩnh vực sở hữu và phân phối (lợi ích kinh tế)
thông qua các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.
Thứ hai, phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới việc giải quyết quan hệ
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nhất là trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay. Đó là các nhân tố như kinh tế thị trường và hội

nhập quốc tế; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; nhận thức của
xã hội và các chủ thể lợi ích và yếu tố văn hóa, lối sống của xã hội.
Thứ ba, luận án phân tích những kết quả đạt được và hạn chế trong
việc việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay dựa trên các nội dung căn
bản đã được ác định trong phần lý luận. Cùng với đó luận án phân tích
những nguyên nhân và vấn đề đặt ra trong việc giải quyết quan hệ giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở nước ta hiện nay, đó là: nhận thức của
các chủ thể lợi ích, các chính sách liên quan đến sở hữu, các chính sách
liên quan đến phân phối.
Thứ tư, luận án sẽ tập trung phân tích hệ thống các giải pháp giải
quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở lĩnh vực sở
hữu và phân phối. Theo đó, luận án sẽ phân tích các giải pháp chủ yếu
để giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay đó là: 1- Nâng cao nhận
thức của các chủ thể lợi ích trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội; 2- Tiếp tục thực hiện và tổ chức thực hiện trên
thực tế các chính sách đảm bảo công bằng xã hội; 3- Khuyến khích cá
nhân thực hiện lợi ích chính đáng của mình đồng thời thúc đẩy thực hiện
lợi ích xã hội; 4- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách tiền lương, kết
hợp thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.


9

Chƣơng 2
GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH
XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
2.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH

CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ
TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1.1. Khái niệm lợi ích, lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội
2.1.1.1. Lợi ích
Thứ nhất, về khái niệm, bản chất của lợi ích
Lợi ích là cái phản ánh quan hệ nhu cầu giữa các chủ thể và dùng để
thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hội (cá nhân, tập đoàn, giai cấp, tầng
lớp...) trong những điều kiện lịch s - xã hội nhất định. Nói cách khác, lợi
ích là tất cả những gì chủ thể (cá nhân, tập thể, toàn xã hội) có thể chiếm
hữu hoặc cần phải có (cần sở hữu). Lợi ích là đối tượng thỏa mãn nhu cầu.
Thứ hai, về vai trò của lợi ích
Lợi ích có vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Với tính
cách là lợi ích cụ thể của một con người, lợi ích là động cơ thúc đẩy hay
“động cơ tư tưởng”, là nguyên nhân của những trạng thái căng thẳng thôi
thúc chủ thể hoạt động thực hiện lợi ích đó để thỏa mãn nhu cầu. Lợi ích
chính là nhân tố quan trọng nhất trong chuỗi quy định nhân quả dẫn dắt sự
hoạt động của con người: Nhu cầu - lợi ích - mục đích - hoạt động. Với
tính cách là mâu thuẫn và quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa các loại lợi
ích của chủ thể và giữa lợi ích của các chủ thể khác nhau, lợi ích là động
lực của sự phát triển.
Thứ ba, về phân loại lợi ích
Dựa trên những căn cứ khác nhau, các nhà nghiên cứu đã chia lợi ích
thành nhiều loại khác nhau: dựa vào các lĩnh vực của đời sống xã hội: chia
thành lợi ích kinh tế, lợi ích văn hoá, lợi ích chính trị.... khái quát hơn là
lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần; dựa vào phạm vi hoạt động của chủ
thể: chia thành lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích giai cấp, lợi ích toàn
xã hội, lợi ích quốc gia, lợi ích nhân loại... khái quát hơn là lợi ích riêng và
lợi ích chung; dựa vào thời gian tồn tại của lợi ích: chia thành lợi ích trước
mắt và lợi ích lâu dài; dựa vào tầm quan trọng của lợi ích: chia thành lợi

ích căn bản và lợi ích không căn bản, lợi ích cấp bách và lợi ích không cấp
bách; dựa vào tính chất và các biện pháp thực hiện lợi ích: chia thành lợi
ích chính đáng và lợi ích không chính đáng; dựa vào xu hướng khách quan
của sự phát triển xã hội, chia thành lợi ích tiến bộ, lợi ích bảo thủ …


10

2.1.1.2. Lợi ích cá nhân
Lợi ích cá nhân là cái phản ánh quan hệ nhu cầu giữa cá nhân và các
chủ thể xã hội khác dùng để thỏa mãn nhu cầu riêng tư cụ thể của cá nhân
đó, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân. Bao gồm: lợi ích vật
chất, lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị,... Đó chính là những
lợi ích cụ thể phản ánh nhu cầu, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi
cá nhân thể hiện qua các quyền của con người như: quyền sống, quyền tự
do, được an toàn, được lao động, được học tập, được chăm sóc y tế, được
hưởng các giá trị an sinh xã hội - phúc lợi xã hội, quyền về kinh tế, quyền
về chính trị... Lợi ích kinh tế của cá nhân ngày nay được biểu hiện khá
phong phú, đa dạng, dưới nhiều dạng như: các nguồn thu nhập (tiền công,
tiền lương, lợi tức, cổ phiếu, thu nhập từ lao động, các nguồn thu nhập
khác), việc làm, tài sản gắn với cá nhân (đất đai, nhà ở, sở hữu trí tuệ, tài
sản khác),...
2.1.1.3. Lợi ích xã hội
Lợi ích xã hội là tất cả lợi ích phản ánh quan hệ nhu cầu của xã hội
và là cái dùng để thỏa mãn nhu cầu chung của toàn xã hội về một (một số)
đối tượng (vật chất, tinh thần) nhất định, bảo đảm cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội trong từng giai đoạn lịch s , thể hiện các quan hệ cơ bản
và lâu dài của xã hội. Lợi ích xã hội ở đây không phải là lợi ích của một
nhóm người, một giai tầng, mà đó là lợi ích của cả dân tộc, trong đó có lợi
ích chung của các cá nhân cấu thành dân tộc, của cả dân tộc và không mâu

thuẫn với lợi ích chung của nhân loại tiến bộ.
2.1.1.4. Bản chất và đặc trưng của kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay
Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam chính là nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Những đặc trưng cốt lõi đó là: Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ
theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2.1.2. Nội dung của giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và
lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam hiện nay
Thực chất của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay là quá trình


11

tác động vào việc nhận thức và thực hiện lợi ích của cá nhân và xã hội, tạo
ra sự hài hòa, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Giải
quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội một cách hài hòa, tạo
động lực cho sự phát triển xã hội trên cơ sở các nội dung sau:
Thứ nhất, giải quyết tốt lợi ích cá nhân chính đáng tạo cơ sở, điều
kiện để giải quyết lợi ích xã hội. Trong quá trình sống, nhu cầu của mỗi cá
nhân được phản ánh trong ý thức, biến thành mục đích, thành động cơ tư
tưởng và chính động cơ tư tưởng đó trực tiếp thúc đẩy mỗi cá nhân hành
động để đạt được lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân, qua đó tham gia,
đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội trên các lĩnh vực của đời sống.

Thứ hai, giải quyết tốt lợi ích xã hội sẽ tạo tiền đề để lợi ích cá nhân
chính đáng được thực hiện. Lợi ích xã hội với ý nghĩa là những lợi ích
hướng vào thỏa mãn những nhu cầu chung của nhiều thành viên hợp thành
cộng đồng nên nó lại là điều kiện và đóng vai trò định hướng cho việc thực
hiện lợi ích cá nhân. Khi lợi ích xã hội được giải quyết, đó cũng chính là
lợi ích cá nhân được đáp ứng tương ứng. Bởi trong lợi ích xã hội đã bao
gồm một phần lợi ích cá nhân. Lợi ích xã hội, mà cốt lõi là lợi ích kinh tế
được giải quyết, tạo nền tảng để mỗi cá nhân có điều kiện thỏa mãn nhu
cầu, thực hiện lợi ích của mình một cách tối đa nhất; mặt khác, lợi ích xã
hội được tạo lập sẽ tạo cơ sở để hiện thực hóa lợi ích cá nhân tồn tại ngay
trong nó.
Thứ ba, nếu giải quyết không đúng đắn quan hệ giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội sẽ triệt tiêu cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Mâu
thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là mâu thuẫn cơ bản của xã hội,
việc giải quyết nó một cách hợp quy luật khách quan sẽ tạo động lực cho
sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, nếu không giải quyết một cách hài hòa
quan hệ lợi ích này sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội, kìm hãm sự phát
triển cá nhân, cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội đều không được thực
hiện, thậm chí có thể đẩy xã hội vào trạng thái khủng hoảng, lệch hướng.
2.1.3. Chủ thể và phƣơng thức tác động tới việc giải quyết quan
hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trƣờng ở Việt Nam hiện nay

2.1.3.1. Về chủ thể giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Nói đến lợi ích là nói đến quan hệ lợi ích, trong từng các quan hệ cụ
thể, với tính cách là các mặt đối lập, các mặt đối lập này có quan hệ thống
nhất, đấu tranh (tương sinh, tương khắc) với nhau. Các chủ thể lợi ích
thướng có u hướng củng cố, gia tăng các lợi ích của mình với nhiều cách



12

thức khác nhau và sự vi phạm lợi ích có thể dẫn đến sự đối kháng và thù
địch giữa các chủ thể lợi ích. Việc giải quyết các quan hệ lợi ích, trong đó
có quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội theo u hướng nào, tính
chất, mức độ ra sao lại tùy thuộc vào nhân tố chủ quan, đó chính là các chủ
thể lợi ích (Đảng, Nhà nước, cá nhân). Trong đó, chủ thể quan trọng nhất
trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay chính là Đảng Cộng sản
Việt Nam và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.1.3.2. Về phương thức tác động tới việc giải quyết quan hệ giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay
Phương thức chủ yếu để giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, được thể
hiện trên những khía cạnh sau:
Một là, thông qua các đường lối, chính sách, pháp luật về sở hữu để
giải quyết các nội dung trong quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội (chủ thể
sở hữu, hình thức sở hữu, đối tượng sở hữu, phạm vi và quy mô của sở hữu,
quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể sở hữu, mối tương quan giữa các chủ
thể sở hữu…).
Hai là, thông qua các đường lối, chính sách, pháp luật về phân phối
để giải quyết các nội dung trong quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội về
phân phối (bao gồm phân phối: điều kiện sản xuất và kết quả sản xuất).
Thứ ba, thông qua năng lực thực thi chính sách trên thực tế của các
chủ thể lợi ích (nhất là chủ thể Nhà nước) và mức độ tham gia thực hiện
các chính sách của các chủ thể lợi ích khác.
Để đảm bảo sự tác động của các nhân tố chủ quan vào giải quyết
quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội một cách hài hòa, theo đúng

quy luật khách quan, tạo ra một trạng thái cân bằng năng động, tạo động
lực cho sự phát triển, cần định hướng các chủ trương, chính sách, pháp
luật tác động theo các hướng sau:
Một là, Đảng, Nhà nước thông qua đường lối, chính sách tạo môi
trường, điều kiện, phương tiện để cá nhân và xã hội thực hiện được lợi ích
trên các lĩnh vực chủ yếu như sở hữu, phân phối;
Hai là, Đảng, Nhà nước thông qua đường lối, chính sách điều chỉnh,
khắc phục các vấn đề mất cân bằng trong quan hệ lợi ích đảm bảo sự hài
hòa, tập trung ở các lĩnh vực sở hữu, phân phối;
Ba là, Đảng, Nhà nước thông qua đường lối, chính sách giải quyết
các mâu thuẫn lợi ích cụ thể - trực tiếp tác động đến cá nhân và xã hội:


13

mâu thuẫn lợi ích giữa các chủ thể trong quá trình giải phóng mặt bằng,
đền bù, giải tỏa đất đai, trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa; mâu
thuẫn lợi ích giữa nhóm người đầu tư, s dụng lao động và người lao động
trong các doanh nghiệp;...
2.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC GIẢI QUYẾT QUAN
HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN
KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.2.1. Tác động của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
ở Việt Nam hiện nay
2.2.1.1. Những tác động tích cực của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội

nhập quốc tế tạo cơ sở để các chủ thể lợi ích thực hiện lợi ích một cách
tích cực, hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế tạo cơ sở để lành mạnh hóa các quan hệ kinh tế, quan hệ sở
hữu, quan hệ phân phối qua đó tạo lập tiền đề để giải quyết hài hòa quan
hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
2.2.1.2. Những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường
tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
Thứ nhất, mặt trái của kinh tế thị trường thúc đẩy nhanh quá trình phân
hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội và có u hướng tuyệt đối hóa lợi ích vật
chất, hiệu quả kinh tế, có thể làm méo mó quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã
hội theo hướng tiêu cực, mâu thuẫn lợi ích giữa cá nhân và xã hội ngày càng
phức tạp.
Thứ hai, mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế là môi
trường tốt để tạo ra những hiện tượng “lợi ích nhóm”, “tư bản thân hữu”
hay việc nhân danh xã hội chủ nghĩa để thực hiện lợi ích cá nhân gây
những tổn hại trực diện tới việc giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội, tạo ra những hành vi gây tổn hại đến lợi ích giữa
các chủ thể.
2.2.2. Chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà
nƣớc trong giải quyết lợi ích kinh tế, nhất là trong sở hữu và phân phối
Nhân tố này có thể tác động tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá
nhân và xã hội chủ nghĩa theo cách nó có thể tạo môi trường công bằng,
xây dựng cơ chế để tạo động lực để kích thích hoạt động của các chủ thể
lợi ích nhằm đạt được các mục tiêu phát triển nhất định.


14

2.2.3. Nhận thức của xã hội và các chủ thể lợi ích

Trình độ nhận thức của xã hội và các chủ thể lợi ích tác động rất lớn
đến việc ác định động cơ, lập trường tư tưởng, định vị lợi ích bản thân
trong quan hệ với các lợi ích khác và cách thức hành động, giải quyết quan
hệ lợi ích trong đời sống của mỗi chủ thể lợi ích.
2.2.4. Sự tác động của văn hóa, lối sống xã hội tới việc giải quyết
quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
Những yếu tố văn hóa có thể có những tác động tích cực hoặc tiêu
cực tới nhận thức và hành vi của mỗi chủ thể, nhất là chủ thể cá nhân
trong việc hình thành thói quen, lối sống và thực hiện lợi ích của bản
thân, qua đó góp phần giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội.
Chƣơng 3
GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH
XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN
VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

3.1.1. Những kết quả đạt đƣợc của việc giải quyết quan hệ giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trƣờng ở Việt
Nam hiện nay
3.1.1.1. Cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội bước đầu đã được quan
tâm giải quyết theo hướng thúc đẩy sự phát triển
Thứ nhất, lợi ích cá nhân chính đáng được tạo điều kiện phát triển
qua đ tạo cơ sở bước đầu giải quyết lợi ích xã hội phù hợp
Đời sống của mỗi cá nhân không ngừng được nâng lên, quyền và lợi
ích chính đáng được pháp luật bảo vệ, nhất là trong sở hữu và phân phối,
kinh tế tư nhân được coi là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Lợi
ích của các giai tầng cụ thể, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế

trong xã hội, đồng bào vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo được quan tâm
đúng mức, tỷ lệ hộ nghèo giảm, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội được
thực hiện tốt...
Lợi ích cá nhân dần dần được chú ý một cách thỏa đáng trong việc
giải quyết quan hệ lợi ích cá nhân và xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở
nhiều phương diện, song rõ nhất trong những thay đổi về sở hữu, chủ thể
sở hữu tư nhân được thừa nhận và tạo điều kiện phát triển, phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần, các vấn đề khác liên quan đến lợi ích cá nhân


15

được quan tâm như: thực hiện tốt chính sách óa đói, giảm nghèo, thực
hiện tốt các chương trình phát triển nông nghiệp - nông dân - nông thôn,
đầu tư cho vùng sâu, vùng a, thực hiện tốt phúc lợi xã hội và an sinh xã
hội, quan tâm đến những đối tượng chính sách, người yếu thế trong xã
hội...
Thứ hai, lợi ích xã hội bước đầu được thực hiện tốt đã tạo tiền đề,
điều kiện để lợi ích cá nhân chính đáng được thực hiện
Những kết quả tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội cùng việc
thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong những
năm qua đã tạo lập những giá trị mới của xã hội, tạo lập sự công bằng về
cơ hội trong việc hưởng thụ, tiếp cận các giá trị xã hội, tăng cơ hội phát
triển; tạo thêm các động lực phát triển cho các chủ thể khi các quyền và lợi
ích hợp pháp trên các lĩnh vực, nhất là trên lĩnh vực kinh tế được pháp luật
công nhận, bảo bộ; đào tạo lao động được tăng cường, số việc làm được
tạo ra ngày càng tăng; kết cấu hạ tầng dần hoàn thiện, an ninh - trật tự xã
hội được củng cố...
Thứ ba, từng bước khắc phục được tư duy tuyệt đối hóa lợi ích xã hội
trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội

Đó là việc chủ thể sở hữu tư nhân được thừa nhận và tạo điều kiện
phát triển, kinh tế tư nhân từ chỗ không được thừa nhận, đến chỗ thừa
nhận và hiện nay coi đó “là một động lực quan trọng của nền kinh tế”; dần
tạo lập môi trường bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế trong việc tiếp cận
các nguồn lực phát triển, các thành phần kinh tế thực sự bình đẳng trước
pháp luật; quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân được đảm bảo trong các
vấn đề cụ thể liên quan đến tài sản của công dân (sở hữu đất đai, sở hữu tài
sản khác).
3.1.1.2. Đảng và Nhà nước đã ban hành và tổ chức thực hiện ngày
một tốt hơn những chủ trương, chính sách đúng đắn về tạo cơ hội phát
triển của cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
Một là, sự thay đổi chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà
nước về sở hữu. Trước hết, về chủ thể sở hữu: chuyển từ việc chỉ thừa nhận
vai trò độc tôn của chủ thể sở hữu là Nhà nước đối với các tư liệu sản xuất cơ
bản sang công nhận nhiều chủ thể sở hữu (nhà nước, tư nhân, hỗn hợp). Về
đối tượng sở hữu, ngoài những đối tượng sở hữu truyền thống như đất đai, tài
nguyên, máy móc,... xuất hiện các đối tượng sở hữu mới như các sản phẩm
trí tuệ, thông tin, thị trường, thương hiệu, tên miền internet, tài nguyên số,
không gian vũ trụ, thậm chí là sở hữu cơ hội phát triển... đều được công nhận
và đóng vai trò to lớn hơn trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Về hình thức sở


16

hữu: nếu như trước đổi mới, chúng ta chỉ thừa nhận hai hình thức sở hữu là
sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, thì từ đổi mới đến nay, xây dựng trong
quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, các hình thức sở hữu ở Việt Nam
đã được ghi nhận bao gồm: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập
thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu tư bản nhà nước, sở hữu có
yếu tố nước ngoài và sở hữu hỗn hợp; tương ứng với nó là các thành phần

kinh tế.
Hai là, sự thay đổi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà
nước về phân phối đã có tác động rất lớn đến việc giải quyết quan hệ giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích xã hội ở nước ta hiện nay. Từ khi đổi mới đến nay,
Đảng, Nhà nước đã có những thay đổi chủ trương, chính sách về phân phối
một cách hợp lý hơn. Tại Đại hội IX, Đảng chỉ rõ: Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế; đồng thời phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực
khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Về chủ thể phân
phối, đã ác định rõ vai trò của ba chủ thể phân phối là Nhà nước, doanh
nghiệp và thị trường, trong đó, thị trường là một kênh phân phối nguồn lực
hiệu quả, phân phối thu nhập quan trọng và góp phần đắc lực vào phân phối
cơ hội phát triển cho mọi chủ thể kinh tế tự do làm giàu trong lĩnh vực mà
pháp luật không cấm nhằm tối đa hóa lợi ích riêng của mình, đồng thời góp
phần phát triển kinh tế - xã hội. Về khách thể phân phối, không chỉ là phân
phối về thu nhập, mà đó còn là phân phối nguồn lực, cơ hội phát triển, phân
phối phát triển. Đó còn là sự đa dạng về hình thức phân phối như Đại hội XII
khẳng định đó là: phân phối theo lao động, phân phối theo mức đóng góp
vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh, phân phối thông qua
phúc lợi xã hội, phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội.
3.1.2. Những hạn chế và nguyên nhân của việc giải quyết quan hệ
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trƣờng
ở Việt Nam hiện nay
3.1.2.1. Những hạn chế của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, tình trạng nhân danh lợi ích xã hội để vi phạm lợi ích cá
nhân chính đáng của nhân dân lao động vẫn tồn tại và tiềm ẩn nhiều vấn đề
phức tạp. Biểu hiện của tình trạng này đó là những hiện tượng tham ô, tham
nhũng, lãng phí, những biểu hiện của “lợi ích nhóm” tiêu cực, hay “tư bản
thân hữu”... trong rất nhiều lĩnh vực của xã hội, nhất là trong sở hữu, quản lý

tài sản của Nhà nước, lĩnh vực đất đai, ây dựng. Thực chất của những biểu
hiện này chính là việc đề cao lợi ích cá nhân không chính đáng, vi phạm đến


17

lợi ích xã hội, lợi ích của nhân dân lao động và của cá nhân khác. Những vụ
án về tham ô, tham nhũng, lãng phí thời gian được đưa ra ánh sáng là những
minh chứng cho điều đó.
Thứ hai, tình trạng đề cao lợi ích cá nhân không chính đáng, vi phạm
lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân khác gây ra những tổn hại cho sự phát triển
xã hội vẫn c xu hướng phức tạp. Hiện tượng buôn lậu, trốn thuế của nhiều
cá nhân, doanh nghiệp; các hiện tượng hàng giả, hàng kém chất lượng; thực
phẩm “bẩn”, cho đến những hành vi xây dựng nhà ở, khu đô thị, phá vỡ quy
hoạch chung của thành phố, xây nhà không phép, lấn chiếm lòng đường, vỉa
hè, hành lang an toàn, không gian công cộng, xây dựng các chung cư không
theo quy định, không đảm bảo tiện ích theo quy định xảy ra ở nhiều nơi, nhất
là ở thành phố lớn; những hiện tượng xe quá khổ, quá tải, xâm hại, lấn chiếm
các công trình công cộng, công trình Nhà nước… đang làm cho lợi ích xã
hội mà Nhà nước là đại diện bị những tổn hại rất lớn. Hay những vấn đề
phức tạp khác về an ninh, trật tự từ thành thị đến nông thôn trong thời gian
qua… đang gây những hệ lụy không nhỏ đối với cuộc sống của nhiều cá
nhân, gia đình, gây phức tạp tình hình kinh tế - xã hội.
Thứ ba, nhiều lợi ích xã hội chưa được thực hiện một cách phổ quát,
song lại vẫn còn tồn tại những biểu hiện đề cao lợi ích xã hội, trong khi lợi
ích cá nhân chính đáng chưa được chú ý một cách đúng mức. Cụ thể khoảng
cách giàu nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn, đời sống một bộ phận
nhân dân còn nhiều khó khăn; thu nhập, đời sống của người lao động còn
thấp; lương của cán bộ, công chức, viên chức chưa cao; tỷ lệ hộ nghèo và cận
nghèo ở vùng sâu, vùng xa, nhất là trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao

(một số huyện, ã lên đến 50%), cả nước có khoảng 1% số người vẫn trong
tình trạng thiếu đói. Một số nội dung của an sinh xã hội (chính sách bảo đảm
việc làm, thu nhập và giảm nghèo; chính sách bảo hiểm xã hội; chính sách
trợ giúp xã hội nhằm hỗ trợ đột xuất và thường uyên cho người dân; chính
sách dịch vụ xã hội cơ bản) và phúc lợi xã hội chưa được thực hiện tốt, vẫn
diễn ra “nghịch lý an sinh xã hội”, thể hiện đặc biệt rõ qua việc so sánh tỷ
trọng trợ cấp an sinh xã hội mà các hộ gia đình giàu và nghèo nhận được.
Ở khía cạnh khác, mặc dù, Đảng ta khẳng định: các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật, tuy nhiên
có thể thấy lĩnh vực kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp
cận các nguồn lực, thậm chí gặp những rào cản trong quá trình phát triển
(nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà, nhận thức về kinh tế tư nhân còn
chưa thông suốt, tình trạng tham nhũng, tham ô, sách nhiễu đối với kinh tế tư
nhân còn nhiều...). Chính vì vậy, trong năm 2018, số doanh nghiệp tư nhân


18

thành lập mới chưa đáp ứng nhu cầu đề ra, hoạt động của kinh tế tư nhân dù
có những khởi sắc, nhưng chưa tương ứng với tiềm năng, lợi thế của thành
phần kinh tế này đối với quá trình phát triển đất nước.
3.1.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc giải quyết
quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, quan điểm, chính sách về sở hữu, phân phối còn bất cập
Đó là việc ác định thành phần kinh tế chủ đạo chứa đựng những mâu
thuẫn, việc ác định chế độ sở hữu, hình thức sở hữu, thành phần kinh tế/khu
vực kinh tế bất cập, thiếu thống nhất. Đi cùng với nó là cơ chế quản lý kinh
tế yếu kém ở một số lĩnh vực, khu vực kinh tế, nhất là đối với doanh nghiệp
nhà nước…

Thứ hai, cơ chế, phương thức để giải quyết lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội chưa linh hoạt, hài hòa, nhất là trong lĩnh vực phân phối.
Các chính sách trong phân phối ở nước ta hiện nay chưa thực sự đảm
bảo tính công bằng, bình đẳng giữa đóng góp và hưởng thụ, giữa các chủ thể
kinh tế, tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn giữa các chủ thể, có nguy cơ gây bất ổn xã
hội, kìm hãm sự phát triển. Đó là sự thể hiện tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu
Nhà nước” trong quản lý, điều tiết, phân phối. Chính sách tiền lương còn
nhiều bất hợp lý; chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội không theo kịp
đòi hỏi của thực tiễn; tính công khai, minh bạch trong quản lý tài chính, tài
sản còn yếu; công tác thanh tra, kiểm tra chưa đáp ứng yêu cầu...
Thứ ba, năng lực, phẩm chất của các chủ thể lợi ích bộc lộ trong quá
trình giải quyết một số nội dung của quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội xuất hiện những yếu kém, lệch lạc
Bộ máy của Nhà nước vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu
mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ;
những biểu hiện quan liêu, lợi ích nhóm, tham ô, tham nhũng, lãng phí...
của đội ngũ cán bộ công quyền là vấn đề phức tạp... làm giảm động lực
của sự phát triển gây cản trở đến việc thực hiện lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội. Nhận thức và hành động của mỗi cá nhân đề cao quá mức lợi ích
bản thân, vi phạm lợi ích của cộng đồng, của cá nhân khác...
3.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT
QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU
KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.2.1. Nhận thức của các chủ thể lợi ích chƣa thống nhất, tồn tại
nhiều khác biệt về vị trí, vai trò của các loại lợi ích
Trong quá trình thực hiện lợi ích của mình, mỗi chủ thể luôn có xu
hướng bảo vệ lợi ích thiết thân, khó chấp nhận từ bỏ lợi ích bản thân, dù



19

điều đó có thể tạo mâu thuẫn, ung đột với các chủ thể lợi ích khác. Các
chủ thể nhận thức, trong khi nhận thức, giải quyết lợi ích này không đặt nó
trong một trạng thái vận động, có quan hệ mật thiết với các lợi ích khác, bỏ
quên lợi ích khác. Do vậy, vấn đề đặt ra đối với chủ thể lợi ích, chủ thể
giải quyết quan hệ lợi ích đó là phải nhận thức đúng để x lý hài hòa quan
hệ lợi ích này, tạo ra một trạng thái cân bằng năng động, thúc đẩy việc
thỏa mãn các lợi ích. Vấn đề đặt ra này xuất hiện trong tất cả các chủ thể
giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, song biểu hiện rõ
nét ở chủ thể cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước.
3.2.2. Hệ thống chính sách chủ yếu tác động tới việc giải quyết lợi ích
giữa cá nhân và xã hội về sở hữu còn nhiều mâu thuẫn, thiếu thống nhất
Một trong những vấn đề đặt ra hiện nay trong việc giải quyết quan hệ
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội đó là hệ thống chính sách chủ yếu tác
động tới việc giải quyết quan hệ lợi ích này còn nhiều mâu thuẫn, thiếu
tính thống nhất, trong đó thể hiện rõ nhất trong quá trình thực thi quan
điểm, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân hay mức độ phù hợp, thích
ứng của những chính sách liên quan đến sở hữu vào thực tiễn cuộc sống.
Cùng với đó, nhiều chính sách liên quan đến sở hữu khác chậm thay đổi,
không tổ chức thực hiện được, đưa chính sách vào cuộc sống chậm trễ,
không kịp thời, bản thân chính sách chưa hợp lý, nhất là các chính sách
trong lĩnh vực bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất
thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội...
3.2.3. Phƣơng thức chủ yếu tác động tới việc giải quyết lợi ích
giữa cá nhân và xã hội về phân phối còn nhiều bất cập, chậm thay đổi
Nhiều chính sách trong lĩnh vực phân phối còn có những bất cập,
chưa hoàn thiện, chậm thay đổi so với yêu cầu của thực tiễn. Trên thực tế,
nhiều chính sách đúng nhưng không thực hiện được trên thực tế, như chính
sách tiền lương không thực hiện được, tiền lương chưa đáp ứng nhu cầu

của người lao động, chính sách thu hút nhân tài không giữ chân được
người giỏi, có năng lực; chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội còn
nhiều bất cập, chồng chéo, nhất là chính sách đối với đồng bào dân tộc.
Xuất hiện nhiều mâu thuẫn lợi ích trong xã hội, tạo nên những vấn đề phức
tạp, nan giải, như: mâu thuẫn lợi ích giữa người lao động và người s dụng
lao động; giữa các giai cấp, tầng lớp lao động xảy ra những tranh chấp lợi
ích kinh tế cục bộ; mâu thuẫn rất phức tạp giữa doanh nghiệp với người
dân địa phương liên quan đến lĩnh vực đất đai; mâu thuẫn lợi ích giữa nhân
dân với những cán bộ lãnh đạo ở cơ sở thoái hóa biến chất, tham ô, tham
nhũng, chiếm đoạt lợi ích của nhân dân...


20

Chƣơng 4
GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA
LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN
KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA CÁC CHỦ THỂ LỢI ÍCH TRONG
VIỆC GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI

Thứ nhất, cần phải tăng cường công tác giáo dục cho các chủ thể của
các nhóm lợi ích nhằm tạo sự đồng thuận, tạo động lực để thúc đẩy sự
tham gia của các chủ thể vào tất cả các quá trình phát triển kinh tế - văn
hóa - xã hội của đất nước. Do vậy, cần:
Một là, tập trung tuyên truyền cho các chủ thể thấy lợi ích lâu dài của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Hai là, phải đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền và sự tuyên
truyền cần tiến hành một cách chủ động, thường xuyên trong các vấn đề
liên quan đến lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.

Ba là, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, các cấp ủy
đảng, chính quyền góp phần định hướng, giải quyết quan hệ lợi ích giữa cá
nhân và xã hội.
Thứ hai, nâng cao nhận thức đối với chủ thể cá nhân, tập trung ở vấn
đề nhận thức và hành động liên quan đến lợi ích kinh tế căn bản là thu
nhập, việc làm, đào tạo nghề và chuyển đổi hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Một là, thực hiện đào tạo nghề cho lao động cả nước, đáp ứng yêu cầu
đào tạo lao động của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hai là, nâng cao nhận thức, quan tâm đào tạo, chuyển đổi ngành nghề
cho người dân, người nông dân, nhất là ở những nơi thực hiện việc thu hồi
đất để phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng,
mục đích quốc gia.
Ba là, nâng cao nhận thức đối với công nhân về thu nhập, việc làm,
gắn nội dung tuyên truyền với các vấn đề liên quan đến lợi ích thiết thực
khác và đời sống của người công nhân.
4.2. TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH VỀ SỞ HỮU, PHÂN PHỐI
NHẰM ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN TỐT TRÊN
THỰC TẾ ĐỂ GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI
ÍCH XÃ HỘI

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, chế độ phân phối,
phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp tạo điều
kiện bình đẳng giữa các chủ thể lợi ích


21

Một là, cần tiếp tục thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh
doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành
phần kinh tế.

Hai là, tiếp tục xóa bỏ cơ chế tập trung bao cấp về sở hữu và tiếp cận
các nguồn lực phát triển và thành quả phát triển.
Ba là, tạo sự bình đẳng về cơ hội phát triển, tiếp cận các giá trị xã hội
cho mỗi cá nhân trong xã hội.
Bốn là, trong việc hoàn thiện chế độ phân phối, cần hoàn thiện pháp
luật, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại
theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã
hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ các yếu tố thị
trường và các loại thị trường nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện
lợi ích
Một là, phát triển đồng bộ các loại thị trường, như: thị trường hàng
hóa, dịch vụ; thị trường bất động sản; thị trường lao động; thị trường
chứng khoán; thị trường khoa học, công nghệ; thị trường một số dịch vụ
công cộng cơ bản (giáo dục, y tế...).
Hai là, thực hiện bình đẳng trong tiếp cận các yếu tố đầu vào của các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đặc biệt trong tiếp cận các
nguồn lực vốn, tài nguyên.
Ba là, nâng cao năng lực tự chủ của các chủ thể trong việc thực hiện
nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh, thực hiện các nhiệm vụ được giao trên cơ
sở đảm bảo các nguyên tắc của thị trường, công khai, minh bạch trong lĩnh
vực tài chính, quản lý tài sản công, nhất là đối với các doanh nghiệp nhà
nước, đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ ba, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đủ mạnh để ngăn
chặn những hành vi phá hoại quan hệ sở hữu, phân phối và thị trường
Một là, Nhà nước cần cụ thể hóa các quy định và x lý nghiêm minh
những hành vi gian dối, phi pháp trong quá trình tham gia vào thị trường;
hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đến xã hội.
Hai là, hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm của Nhà
nước trong việc bảo đảm những điều kiện về pháp lý, vật chất đối với cá

nhân, tập thể.
Ba là, hoàn thiện những quy định liên quan làm căn cứ giải quyết tốt
và có hiệu quả quan hệ lợi ích giữa cá nhân - tập thể và nhà nước.
Thứ tư, thực hiện các giải pháp đảm bảo công khai, minh bạch nhằm
ngăn chặn những hành vi tiêu cực như tham ô, tham nhũng, lợi ích nhóm


22

Đối với các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp nhà nước cần thực
hiện thực chất các biện pháp công khai về tự chủ, nâng cao năng lực, hiệu
quả s dụng tài sản công, phát huy tốt trách nhiệm giải trình, thực hiện tốt
các biện pháp công khai tài chính, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ,
công chức, viên chức... Trên phạm vi toàn xã hội, cần phải tiến tới một xã
hội minh bạch, trên cơ sở quản lý tốt việc sở hữu tài sản của mỗi cá nhân,
xây dựng một xã hội hạn chế dùng tiền mặt, quản lý chặt chẽ các nguồn
tiền trong thanh toán; công khai, minh bạch các thông tin liên quan đến đời
sống kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước, nhất là các thông tin về
quy hoạch đất đai, giá cả đền bù đất đai khi Nhà nước thu hồi đất,... Mặt
khác, cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
lý nghiêm minh những
trường hợp vi phạm tội tham ô, tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, trốn thuế,
hàng giả, hàng kém chất lượng... đây là những hành vi phá hoại nghiêm
trọng các quan hệ lợi ích, gây tổn hại tới cả lợi ích cá nhân và các mục tiêu
của lợi ích xã hội.
4.3. KHUYẾN KHÍCH CÁ NHÂN THỰC HIỆN LỢI ÍCH CHÍNH ĐÁNG
CỦA MÌNH ĐỒNG THỜI THỰC HIỆN LỢI ÍCH XÃ HỘI

Thứ nhất, tiếp tục thực hiện tốt và cụ thể h a các quan điểm của
Đảng, chính sách của Nhà nước làm giàu hợp pháp

Thứ hai, tạo môi trường pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu, quyền phân
phối hợp pháp và khuyến khích các chủ thể cá nhân làm giàu chính đáng
Thứ ba, thực hiện tốt các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của kinh tế
tư nhân, thực sự coi đây là một động lực quan trọng của nền kinh tế .
Cần phải thực hiện tốt các giải pháp cụ thể sau:
Một là, thể chế hoá đầy đủ và bảo đảm thực hiện nghiêm minh quyền
tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, các quyền, nghĩa vụ dân sự của các
tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
Hai là, có các cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập doanh
nghiệp tư nhân một cách thiết thực; tạo những cơ hội thực sự để các doanh
nghiệp tư nhân tham gia các dự án kinh tế, hạ tầng lớn của quốc gia.
Ba là, khuyến khích, tạo điều kiện bằng các biện pháp cụ thể, thiết
thực cho các hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt
động, liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc chuyển đổi
sang hoạt động kinh doanh theo mô hình doanh nghiệp thông qua nhiều
chính sách.
Bốn là, hoàn thiện pháp luật về đất đai, tài nguyên và môi trường, tạo
điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân tiếp cận thị trường đất đai, tài
nguyên một cách minh bạch, bình đẳng theo cơ chế thị trường.


×