Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Đề tài: Giới thiệu về năng lượng hạt nhân sử dụng cho mục đích hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.97 KB, 15 trang )

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG                                       LỚP K20M

ĐẠI HỌC DÂN LẬP VĂN LANG
KHOA CÔNG NGHỆ & QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG

Môn học

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI
TRƯỜNG
BTKN
CHỦ ĐỀ : GIỚI THIỆU VỀ NĂNG LƯỢNG HẠT NHÂN
          SỬ DỤNG CHO MỤC ĐÍCH HÒA BÌNH

LỚP K20M
Sinh viên

Mã số sinh viên

1

Đinh Duy Mẫn

M144067

2

Bùi Ngọc Sơn

M146210

3



Trần Thị Hương Linh

M144321

4

Dương Văn Đình Lai

M145624

5

Kiều Đại Dũ

M145513

6

Huỳnh Văn Tân

M145892

Nộp bài: 15g30 ngày 01/03/2017
1


ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG                                       LỚP K20M

TP. HỒ CHÍ MINH 01 tháng 03/2017


CHƯƠNG 1: 
NĂNG LƯỢNG HẠT NHÂN
1.KHÁI NIỆM :
  Năng lượng hạt nhân hay năng lượng nguyên tử  là một loại công nghệ 
hạt   nhân được   thiết   kế   để   tách năng   lượng hữu   ích   từ hạt   nhân   nguyên 
tử thông qua các lò phản  ứng hạt nhân có kiểm soát. Phương pháp duy nhất 
được sử  dụng hiện nay là phân hạch hạt nhân, mặc dù các phương pháp 
khác có thể  bao gồm tổng hợp hạt nhân và phân rã phóng xạ. Tất cả  các lò 
phản  ứng với nhiều kích thước và mục đích sử  dụng khác nhau đều dùng  
nước được nung nóng để  tạo ra hơi nước và sau đó được chuyển thành cơ 
năng để  phát điện hoặc tạo lực đẩy. Năm 2007, 14% lượng điện trên thế 
giới được sản xuất từ năng lượng hạt nhân. Có hơn 150 tàu chạy bằng năng  
lượng hạt nhân và một vài tên lửa đồng vị phóng xạ đã được sản xuất.

Lò phản ứng hạt nhân.
2.

QÚA TRÌNH PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG HẠT NHÂN TRÊN 
THẾ GIỚI:

Nhà máy điện hạt nhân đầu tiên trên thế giới
Điện   lần   đầu   tiên   được   sản   xuất   bằng   năng   lượng   hạt   nhân   vào   ngày  
20/12/1951 tại lò thử  nghiệm EBR­1 của Mỹ  và thắp sáng được bốn bóng 
2


ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG                                       LỚP K20M

đèn nhưng các nhà máy điện hạt nhân thương mại đầu tiên trên thế giới bắt 

đầu hoạt động vào thập niên 1950.
Ngày 26/6/1954, tổ  máy điện hạt nhân đầu đầu tiên với công suất 5MW(e) 
được đưa vào vận hành tại tại Obninsk thuộc Liên Xô cũ. Nhà máy điên hat
̣
̣ 
nhân đầu tiên trên thế  giới  ở  Obninsk không chi la xi nghiêp s
̉ ̀ ́
̣ ản xuất điện 
ma con co m
̀ ̀ ́ ột mục đích khác là đao tao các chuyên gia điêu khiên lo phan
̀ ̣
̀
̉
̀ ̉  
ứng hat nhân trên tàu ng
̣
ầm. Tuy nhiên, sau khi nguy cơ chiến tranh hạt nhân  
đã giam đi, nhi
̉
ệm vụ của nha máy đi
̀
ện hạt nhân Obninsk đa thay đ
̃
ổi. Cơ sở  
nay t
̀ ừ đó đã trở thành phòng thí nghiệm khoa học co đong gop vô gia vao s
́ ́
́
́ ̀ ự 
phat triên nên khoa h

́
̉
̀
ọc Nga.
Nha máy đi
̀
ện hạt nhân Obninsk đã phục vụ cho nên khoa h
̀
ọc và nganh năng
̀
 
lượng trong thơi gian 48 năm. Ngày 29/4/2002, lò ph
̀
ản ứng ngưng hoat đông.
̀
̣
̣  
Nha may biên thanh Viên b
̀ ́
́
̀
̣ ảo tàng của ngành công nghiệp hạt nhân Nga.
Sơ lược về quá trình phát triển điện hạt nhân trên thế giới
Sau nhà máy điện hạt nhân đầu tiên tại Obnisk, Liên Xô cũ, trên thế  giới đã 
xuất hiện các lò phản  ứng hiện đại hơn va cac sang chê đ
̀ ́ ́
́ ược sử  dung t
̣
ại  
nha may điên hat nhân đ

̀ ́
̣
̣
ầu tiên đa mang lai nh
̃
̣
ưng kinh nghi
̃
ệm bô ich trong
̉ ́
 
linh v
̃ ực phat triên nganh năng l
́
̉
̀
ượng hạt nhân. Có thể sơ lược quá trình phát 
triển điện hạt nhân trên thế giới qua những giai đoạn như sau:
­ Giai đoạn những năm 1950­1960: Đây là giai đoạn khởi đầu, khi công nghệ 
gần như chưa được thương mại hóa. Sau tổ máy điện hạt nhân đầu đầu tiên  
tại Obninsk thuộc Liên Xô cũ, năm 1956, Nhà máy điện nguyên tử  Calder  
Hall thuộc Vương quốc Anh có quy mô công nghiệp đầu tiên trên thế  giới 
được vận hành. Tại Mỹ, dựa trên kinh nghiệm thành công xây dựng lò phản 
ứng PWR cho tàu ngầm nguyên tử, Công ty Mỹ  Westinghouse cũng đã xây 
dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên dùng lò PWR tại Shippingport bang 
Pensylvania với công suất 60MW, bắt đầu hoạt động vào năm 1957. Nhìn 
chung, trong giai đoạn này, phát triển điện hạt nhân chủ yếu nhằm mục tiêu 
phát triển khoa học, công nghệ  và xây dựng tiềm lực hạt nhân bảo đảm an 
ninh quốc gia.
­ Giai đoạn 1970­1980: Giai đoạn công nghệ điện hạt nhân đã được thương 

mại hóa cao. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ trên thế  giới xảy ra vào thời gian  
này đã làm cho nhiều quốc gia đẩy nhanh tốc độ  phát triển điện hạt nhân,  
nâng tỷ trọng điện hạt nhân trong sản lượng điện toàn cầu tăng gần hai lần, 
từ   9%   lên   17%.   Đây   là   giai   đoạn   hoàng   kim   của   điện   hạt   nhân.   Lò 
Unterweser 1.350 MW ở Đức bắt đầu sản xuất điện từ năm 1978 và đến nay  
tổng sản lượng điện là 221,7 tỷ KWh, nhiều hơn so với bất kỳ lò nào khác.
­ Giai đoạn cuối thập niên 1980 và những năm 1990: Sau sự  cố  Chernobyl 
(1986), sự  phản đối của công chúng, các yếu tố  chính trị  và sự đòi hỏi tăng 
cường các yêu cầu về  an toàn đã làm cho tốc độ  xây dựng điện hạt nhân  
giảm mạnh.
3


ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG                                       LỚP K20M

­ Giai đoạn từ đầu thế kỷ XXI tới nay: Xu hướng phát triển điện hạt nhân có 
những thay đổi tích cực khi an ninh năng lượng có ý nghĩa quyết định và  
công nghệ  điện hạt nhân ngày càng được nâng cao. Mỹ  có kế  hoạch đến 
năm 2020 sẽ tăng thêm 10.000 MW điện hạt nhân. Vương quốc Anh quay trở 
lại phát triển điện hạt nhân. Trung Quốc dự  kiến phát triển điện hạt nhân 
đến năm 2020 đạt 70 GW.
Trải qua 60 năm phát triển nhiều thăng trầm, điện hạt nhân đã trở  thành bộ 
phận cấu thành quan trọng của ngành công nghiệp điện lực  ở  nhiều quốc  
gia. Điện hạt nhân đã góp phần giải quyết nhu cầu năng lượng đối với phát  
triển kinh tế ­ xã hội, đảm bảo anh ninh năng lượng, thực hiện đa dạng hóa  
nguồn năng lượng và bảo vệ môi trường.
Hiện nay có trên 430 lò phản  ứng năng lượng hạt nhân thương mại đang  
hoạt động  ở  31 nước, với công suất trên 370.000 MW. Khoảng 70 lò phản  
ứng đang được xây dựng. Dự  kiến điện hạt nhân toàn cầu đến giữa thế  kỷ 
XXI đạt công suất 1.000.000 MW, giữ  vững tỷ  trọng 19% tổng sản lượng  

điện chung của toàn thế  giới. Trong đó, tỷ  trọng điện hạt nhân của nhiều 
nước đạt  ở  mức rất cao như: Mỹ: 50%; Pháp: 85%; Nhật Bản: 60%; Hàn  
Quốc:   70%;   Trung   Quốc:   30%;   Indonesia:   40%   và   Thái   Lan,   Philippines,  
Malaysia, Việt Nam: 20%.

4


ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG                                       LỚP K20M

CHƯƠNG 2:
NĂNG LƯỢNG HẠT NHÂN SỬ DỤNG 
CHO MỤC ĐÍCH HOÀ BÌNH:
1. ỨNG DỤNG TRONG Y TẾ.
Các nguồn bức xạ Co­60 hoạt độ cao dùng trong xạ trị được sử dụng tại 
một số  bệnh viện trong nước từ  những năm 1960. Năm 1971, Khoa Y học  
hạt nhân được hình thành với một số  thiết bị  đo và chuẩn đoán bệnh đơn  
giản. Từ   tháng 3/1984, Lò phản  ứng hạt nhân Đà Lạt được đưa vào hoạt  
động, cho phép sản xuất các chất đồng vị  và dược chất phóng xạ  thì số 
lượng các Khoa Y học hạt nhân tăng nhanh và đến nay, trong cả  nước trên 
30 khoa được hình thành, nhiều thiết bị hiện đại được trang bị như máy hiện 
hình Gamma Camera, máy chụp cắt lát CT. 
Trung bình hàng tháng khoảng 100 bệnh nhân đối với các khoa có quy mô  
nhỏ và gần 1.000 bệnh nhân với các khoa có quy mô lớn được chẩn đoán và  
điều trị bệnh.
Các loại đồng vị  chính được sản xuất tại Lò phản ứng hạt nhân là tấm  
áp P­32 để điều trị  các bệnh ngoài da; dung dịch I­131 dưới dạng tiêm hoặc 
uống để  chẩn đoán và điều trị  bệnh tuyến giáp; Tc­99m và các dược chất 
dưới dạng kit in­vivo đánh dấu với Tc­99m để hiện hình tìm các khối u bất 
thường trong não, chẩn đoán chức năng và bệnh lý các cơ quan nội tạng của  

cơ thể như thận, gan, phổi, hệ tiêu hóa.
 Các kit in­vitro miễn dịch học phóng xạ  T3, T4 cũng được sản xuất và  
sử dụng tại một số bệnh viện. Hàng năm, khoảng 150Ci chất phóng xạ  các 
loại được sản xuất tại Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, cung cấp cho ngành Y  
tế.

5


ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG                                       LỚP K20M

Ứng dụng năng lượng hạt nhân trong y tế.
2. ỨNG DỤNG TRONG CÔNG NGHIỆP
Sử  dụng các nguồn phóng xạ  và các thiết bị  hạt nhân để  xây dựng các 
hệ đo và tự động hóa trong các dây chuyền sản xuất của các nhà máy như đo  
mức của các bể  đựng phối liệu của các nhà máy xi măng và nhà máy giấy; 
xác định mức trong các hộp bia và nước giải khát; xác định độ ẩm và mật độ 
giấy trong các nhà máy giấy; các hệ đo phóng xạ trong các giếng khoan của  
công nghiệp dầu khí... 
Ưu điểm của phương pháp hạt nhân là không làm  ảnh hưởng đến quá 
trình làm việc của các hệ công nghệ, cho phép đo trong điều kiện nhiệt độ, 
áp suất cao và với các dung dịch hóa chất độc hại.
 Kỹ thuật đồng vị xạ đánh dấu cũng được sử dụng phổ biến, chẳng hạn, 
việc tối ưu hóa quy trình và thời gian pha trộn phế liệu trong các dây chuyền  
của các nhà máy. 
Trong lĩnh vực khai thác dầu khí, kỹ  thuật đánh dấu phóng xạ  được sử 
dụng để xác định mặt cắt nước bơm ép trong các giếng bơm ép, hiện tượng 
ngập lụt trong các giếng khai thác của mỏ dầu Bạch Hổ.
Kỹ thuật kiểm tra không phá hủy mẫu cũng là một trong các hướng đặc  
thù, chẳng hạn sử  dụng phương pháp bức xạ  truyền qua để  chụp kiểm tra  

chất lượng mối hàn các đường  ống kim loại, kiểm tra đánh giá tình trạng 
bên trong của các tháp công nghiệp với đường kính đến 4m và chiều cao đến 
30m, kiểm tra chất lượng các cọc nhồi của các công trình xây dựng; sử dụng  
phương pháp bức xạ  tán xạ  ngược để  xác định chất lượng của các công 
trình đường giao thông...

6


ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG                                       LỚP K20M

Ứng dụng năng lượng hạt nhân trong công nghiệp: Điện hạt nhân

3. ỨNG DỤNG KỸ THUẬT HẠT NHÂN TRONG NÔNG NGHIỆP.
Nếu  ứng dụng tốt kỹ  thuật hạt nhân trong nông nghiệp sẽ  có ý nghĩa lớn  
trong đảm bảo an ninh lương thực cho một quốc gia. Nhiều nhà khoa học 
cho rằng, Nhà nước cần quan tâm hơn để có những chính sách khuyến khích  
việc triển khai các kỹ thuật này hơn nữa.
Nhiều ứng dụng từ chiếu xạ
"Nhiều nước trên thế  giới hiện nay yêu cầu nông sản nếu muốn vào thị 
trường họ, bắt buộc phải chiếu xạ. Ví dụ, nếu không chiếu xạ, thanh long 
Việt Nam không thể xuất khẩu sang thị trường Mỹ", Viện trưởng Viện Di  
truyền Nông nghiệp Việt Nam ­ Lê Huy Hàm cho biết.
Không chỉ  riêng với hoa quả, phương pháp này còn rất tốt đối với các mặt  
hàng hải sản. Chiếu xạ để tiệt trùng, tiêu diệt các mầm bệnh, nấm mốc, vi  
khuẩn…, tăng thời gian bảo quản nông sản. Ứng dụng thứ hai của kỹ thuật  
hạt nhân là chiếu xạ  để  tiệt sản côn trùng, các loài sâu gây bệnh cho cây  
trồng.
Trên thế  giới, nhiều nước đã xây nhà máy sản xuất côn trùng tiệt sản. Côn 
trùng đã tiệt sản do nhà máy sản xuất ra được tung vào các vùng sản xuất  

rau, quả, giao phối với côn trùng trên đồng ruộng, kết quả là làm tiệt giống 
gây hại mà không phải dùng đến thuốc bảo vệ  thực vật. Phương pháp này 
thân thiện với môi trường, hiệu quả cao.
Một số   ứng dụng khác quan trọng của kỹ  thuật này là  ứng dụng đồng vị 
phóng xạ  đánh dấu các phần tử  trong phân bón, từ  đó đánh giá được hiệu 
7


ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG                                       LỚP K20M

quả  sử  dụng phân bón, giảm ô nhiễm môi trường, tăng hiệu quả  kinh tế.  
Hay có thể sử dụng đồng vị phóng xạ để xác định lượng và phương thức xói  
mòn của đất. Với cách này, có thể xác định được đất sườn đồi bị rửa trôi đi  
đâu, bao nhiêu, từ đó đề xuất các phương pháp phòng chống xói mòn.

Hình ảnh minh họa.
4. KỸ  THUẬT HẠT NHÂN TRONG NGHIÊN CỨU VÀ BẢO VỆ  MÔI 
TRƯỜNG
Nghiên cứu ô nhiễm môi trường sử dụng các kỹ thuật phân tích hạt nhân  
và liên quan cho phép theo dõi biến động của phóng xạ và tình trạng ô nhiễm 
môi trường không khí, đất, nước và biển trên một số địa bàn trong nước.
Hiện nay cả nước ta đã có 3 trạm quan trắc môi trường phóng xạ  thuộc  
mạng lưới của 18 trạm quan trắc môi trường quốc gia cho phép theo dõi 
thường xuyên tình trạng phóng xạ  môi trường của một số địa dư  điển hình  
trong nước. 
Bên cạnh đó, các nghiên cứu khảo sát nồng độ  các nhân phóng xạ  nhân 
tạo Cs­137 sinh ra do các vụ  thử vũ khí và sự cố hạt nhân trên thế  giới ảnh 
hưởng đến Việt Nam cũng được thực hiện trong thời gian qua.

8



ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG                                       LỚP K20M

5.  ỨNG DỤNG KỸ  THUẬT HẠT NHÂN TRONG KHỬ  TRÙNG, BẢO  
QUẢN VÀ BIẾN TÍNH VẬT LIỆU
Công nghệ  khử  trùng dụng cụ  y tế  (DCYT) và thanh trùng thực phẩm (TP)  
bằng bức xạ  iôn hóa là một công nghệ  tiên tiến hiện đang được  ứng dụng  
phổ  biến trên thế  giới. Công nghệ  này đã được Ngành Hạt nhân nước ta  
nghiên cứu từ  năm 1981, được  ứng dụng triển khai từ  năm 1991 và đã đạt  
đến ứng dụng quy mô công nghiệp từ năm 1999 tại Trung tâm Nghiên cứu và  
Triển khai Công nghệ Bức xạ (VINAGAMMA). 
Hiện nay  ở Việt Nam, 06 máy chiếu xạ thuộc 5 đơn vị  (02 nhà nước, 03 tư 
nhân) đang hoạt động với mục đích khử trùng DCYT và chiếu xạ TP. Trong  
năm 2011 sẽ có thêm 02 thiết bị  chiếu xạ được đưa vào hoạt động (01 máy  
gia tốc chùm tia điện tử, 01 máy chiếu xạ nguồn Cobalt­60). Bài viết này đề 
cập đến một số kiến thức cơ bản về chiếu xạ khử trùng DCYT và chiếu xạ 
TP nhằm phổ  biến đến người đọc các thông tin khoa học bổ  ích và mong  
muốn khích lệ ứng dụng một công nghệ tiên tiến vào nền kinh tế quốc dân.
Sự  phát triển của việc  ứng dụng bức xạ  iôn hóa trong lĩnh vực khử  trùng 
DCYT và chiếu xạ  TP Ý tưởng dùng bức xạ  iôn hóa để  diệt vi sinh gây  
bệnh đã nẩy sinh ngay sau khi Henri Becquerel phát hiện ra phóng xạ  và 
Wihelm Conrad Roentgen phát minh ra tia X vào năm 1895. Cũng từ  đó hàng  
loạt các nghiên cứu về  tác dụng diệt vi sinh của tia X và tia phóng xạ  đã 
được tiến hành. Năm 1905 hai sáng chế  đã đăng ký ở  Mỹ  và Anh về  diệt vi 
sinh bằng tia X. Tuy nhiên, do vào thời gian đó nguồn phóng xạ duy nhất chỉ 
là Radium nên các ứng dụng thực tế vẫn chưa thể thực hiện được. 
Những nghiên cứu về lĩnh vực này chỉ được áp dụng và trở nên thương mại  
khi công nghệ chế tạo máy gia tốc đã được phát triển và khi người ta đã sản 
xuất được chất phóng xạ  hoạt độ  cao từ  các lò phản  ứng hạt nhân. Năm 

9


ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG                                       LỚP K20M

1955 công ty Johnson&Johnson, lần đầu tiên trên thế  giới, đã đưa vào sử 
dụng máy gia tốc chùm tia điện tử  dùng cho chiếu xạ  khử  trùng chỉ  phẫu  
thuật quy mô thương mại và đến năm 1960 máy chiếu xạ  nguồn Cobalt­60 
với công suất xử  lý 15.000 tấn khoai tây trong một năm được đưa vào hoạt  
động ở Canada. 
6.   PHÁT   TRIỂN   NĂNG   LƯỢNG   HẠT   NHÂN   PHỤC   VỤ   CÔNG 
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Chính sách phát triển năng lượng bền vững mà nội dung cơ  bản là đa  
dạng hóa các nguồn năng lượng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Ngành 
Hạt nhân đã tham gia nghiên cứu xây dựng nhà máy điện nguyên tử trong quy 
hoạch dài hạn. 
Trên   cơ   sở   phân   tích   một   cách   khoa   học   và   đã   khẳng   định   rằng 
Việt Nam hoàn toàn có đủ điều kiện để thực thi chương trình điện hạt nhân  
trong những năm đầu của thế kỷ 21...
Sau gần 25 năm hình thành và phát triển, ngành Hạt nhân nước ta đang  
phấn đấu để bước sang một giai đoạn mới. Với khả  năng và tiềm lực hiện 
có, với nhu cầu của đất nước đối với khoa học kỹ thuật hạt nhân ngày càng 
cao; trong tương lai ngành Hạt nhân nước ta sẽ có đóng góp ngày càng hữu 
hiệu và thiết thực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.  
Chính kiến của nhóm về sử dụng năng lượng hạt nhân:
Theo quan điểm nhóm, qua những ứng dụng cơ bản trên, bên cạnh đó khi  
những nguồn năng lượng hoá thạch như  than đá ,dầu mỏ… đang ngày càng 
cạn kiệt, chúng ta phải  đứng trước thách thức tìm ra những nguồn năng 
lượng mới để  thay thế  và nhóm nhận thấy năng lượng hạt nhân là nguồn  
năng lượng mới để  thay thể  và nhóm nhận thấy năng lượng hạt nhân là 

nguồn năng lượng sang giá góp ích nhiều cho việc cản thiện đời sống, cơ sở 
vật chật. 

CHƯƠNG 3:
TẠI SAO CẦN SỬ DỤNG NĂNG 
LƯỢNG HẠT NHÂN

10


ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG                                       LỚP K20M

 Trong những lợi ích cơ bản từ việc sử dụng năng lượng hạt nhân, có nhiều 
lý do để  chọn năng lượng hạt nhân làm nguồn năng lượng để  phát triển 
trong tương lai:
1. Năng lượng hạt nhân là một giải pháp kinh tế, an toàn và là nguồn năng 
lượng sạch đảm bảo sự  phát triển bền vững trong việc thỏa mãn nhu cầu 
điện năng đang tăng mạnh trên toàn cầu.
­ Vào năm 2005, tiêu thụ  năng lượng của thế  giới sẽ  gấp đôi và nhu cầu  
điện năng sẽ  gấp ba. Mức tiêu thụ  ghê gớm đó, mà phần lớn  ở  các nước 
đang phát triển, không thể  thỏa mãn được nhờ  “năng lượng mới” như  gió,  
mặt trời cho dù các nguồn này có thể đóng vai trò quan trọng ở một số vùng  
nào đó.
­ Rất hiện thực, năng lượng hạt nhân là một công nghệ  sạch, có khả  năng 
mở  rộng trên quy mô lớn để  cung cấp nguồn điện ổn định liên tục. Nguồn  
tài nguyên uranium còn phong phú và triển vọng cung cấp nhiên liệu với giá 
ổn định rất sáng sủa.
­ Một phần ba dân số trên thế  giới chưa được dùng điện, một phần ba nữa 
chỉ dùng điện một cách hạn chế. Trong cuộc vật lộn đáp ứng nhu cầu năng  
lượng của mình, một số nước đang phát triển đông dân có thể làm tăng phát 

thải CO2 ở tầm toàn cầu.
­ Uranium là nguyên tố  tự  nhiên và phóng xạ  tự  nhiên của nó vẫn  ở  quanh  
chúng ta trong cuộc sống hàng ngày.
­ Nhiều nước có chính sách năng lượng gắn chặt với năng lượng hạt nhân, 
trong số đó có Trung Quốc,  Ấn Độ, Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc với  
tổng số  dân chiếm một nửa dân số  toàn cầu. Hiện có 440 tổ  máy điện hạt 
nhân đang hoạt động ở 31 quốc gia tạo cho sản lượng chiếm 16% tổng điện 
năng thế giới và 30 tổ máy nữa đang xây dựng.
2.  Lò phản ứng hạt nhân thực sự không phát thải, sử dụng chúng để phát 
điện có thể giúp kiềm chế  được mối nguy hiểm nóng lên toàn cầu và thay  
đổi khí hậu. Bất kỳ  một chiến lược nào thực sự  muốn ngăn chặn mối đe  
dọa chưa từng có này đều cần đến năng lượng hạt nhân.
­ Carbon dioxide (CO2) là chất chính yếu gây lên hiệu  ứng nhà kính và hiện 
tượng  ấm lên toàn cầu.  Nhiên liệu hoá thạch (than, dầu, khí đốt) khi được  
dùng để  sản xuất điện hay dùng trong động cơ  xe cộ  và máy móc, sẽ  phát  
tán khí CO2 trực tiếp vào không khí. Năng lượng hạt nhân hầu như  không 
thải khí CO2 hay bất kỳ khí gây hiệu ứng nhà kính nào.

11


ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG                                       LỚP K20M

­ Các chuyên gia khí hậu cảnh báo rằng chúng ta cần cắt giảm phát thải  
CO2  toàn cầu từ  25 tỷ  tấn hàng năm xuống 10 tỷ  tấn, thậm chí cả  khi tăng 
sản xuất năng lượng.
­ Các nhà máy điện hạt nhân hàng năm giúp tránh thải 2,5 tỷ  tấn CO 2  một 
lượng tương đương một nửa số  khí thải của ngành vận tải thế  giới. Mở 
rộng công suất hạt nhân đồng nghĩa giảm thải chất gây hiệu  ứng nhà kính 
được nhiều hơn.

­ Năng lượng hạt nhân còn giúp giảm bớt ô nhiễm không khí và bề mặt trái  
đất. Lò phản ứng hạt nhân không thải ra khói (nguyên nhân gây ra sương mù  
và các bệnh về đường hô hấp) và các chất khí tạo nên mưa a xit (huỷ  hoại  
rừng và ao hồ).
­ Khi đánh giá tác động sinh thái của toàn bộ chu trình bằng các trọng số sử 
dụng tài nguyên,  ảnh hưởng đến sức khỏe, hậu quả  của chất thải thì năng  
lượng hạt nhân vượt lên trên các phương án năng lượng thông thường khác 
và ngang bằng với năng lượng mới.
3.  Điện hạt nhân  có thành tích an toàn xuất sắc hơn hẳn so với các công  
nghiệp năng lượng khác trong quãng kinh nghiệm vận hành trên 110.000 lò.
­  Tại nạn Chernobyl năm 1986 tại Ukraine, tai nạn duy nhất gây chết người 
đã bôi nhọ  hình  ảnh năng lượng hạt nhân. Loại lò này thiếu hẳn cấu trúc 
tường ngăn có tác dụng chặn chất phóng xạ không cho rò thoát ra ngoài trong  
trường hợp khẩn cấp và chắc chắn ngày nay nó sẽ không bao giờ được cấp 
giấy phép hoạt động.
­  Vụ Chernobyl thúc đẩy thành lập Liên đoàn các nhà vận hành hạt nhân thế 
giới, một tổ  chức nghề  nghiệp quan tâm tới từng lò phản  ứng thương mại 
trên thế  giới và thông qua nó, chủ  các công ty điện lực áp dụng những tiêu 
chuẩn thực tiễn tốt nhất như một phần văn hoá an toàn hạt nhân toàn cầu.
­  Trong bất cứ hoàn cảnh nào, một lò phản ứng hạt nhân không bao giờ xảy  
ra nổ như bom nguyên tử.
­  Hồ  sơ cho thấy rằng điện hạt nhân thương mại an toàn hơn rất nhiều so 
với các hệ thống dùng nhiên liệu hoá thạch cả về mặt rủi ro cho con người  
trong khi sản xuất nhiên liệu, cả về mặt ảnh hưởng sức khoẻ và môi trường 
khi tiêu thụ. Những tai nạn chết người xảy ra thường xuyên trong các vụ vỡ 
đập thuỷ điện, nổ mỏ than hay cháy ống dẫn dầu.
­ Chế  độ  quy phạm hạt nhân nghiêm ngặt cả   ở  tầm quốc gia và quốc tế 
đảm bảo an toàn cho người lao động, công chúng và môi trường. Mỗi nhà 
máy điện hạt nhân được yêu cầu dành ưu tiên hàng đầu cho các biện pháp an  
12



ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG                                       LỚP K20M

ninh và những kế hoạch cứu hộ nhằm bảo vệ công chúng trong tình huống  
xấu.
­  Ngày nay, các lò phản ứng hạt nhân áp dụng triết lý “phòng thủ theo chiều  
sâu” nghĩa là gồm nhiều lớp bảo vệ vững chắc và các hệ an toàn dự phòng ­ 
để ngăn chặn rò rỉ phóng xạ thậm chí trong điều kiện tai nạn xấu nhất.
4. Vận chuyển vật liệu hạt nhân, đặc biệt là nhiên liệu mới, nhiên liệu đã 
qua sử  dụng và chất thải, trong suốt bốn thập kỷ qua hiếm khi gây rò thoát 
phóng xạ, thậm chí cả khi có tai nạn.
­ Nguyên, vật liệu hạt nhân đã và đang được chuyên chở  bằng đường bộ, 
đường sắt và đường biển. Ngành công nghiệp hạt nhân đã thực hiện trên 
20.000   chuyến   hàng,   chở   hơn   50.000   tấn   trên   quãng   đường   tổng   cộng 
khoảng 30 triệu kilomet.
­ Những quy định quốc gia và quốc gia khắt khe đòi hỏi việc vận chuyển  
phải sử dụng những thùng chứa được thiết kế  đặc biệt có lớp vỏ  thép dày, 
chịu được những va chạm mạnh và chống được đập phá.
­ Do có năng lượng khổng lồ  trong khối lượng nhiên liệu uranium nhỏ  nên 
năng lượng hạt nhân cần chuyển rất ít. Trái lại những chuyến hàng nhiên 
liệu hoá thạch là một gánh nặng của hệ thống chuyên chở  quốc tế  với mối 
đe doạ môi trường, nhất là hiểm họa ô nhiễm dầu.
5. Nhà máy điện hạt nhân  là thiết bị  công nghiệp vững chắc, an toàn và 
được bảo vệ tốt nhất trên thế giới.
­ Kể từ  cuộc tấn công khủng bố tháng 9/2001, những người vận hành lò và 
giới chức chính phủ trên khắp thế  giới đã xem xét lại vấn đề  an ninh và đã  
nâng cấp hệ thống an ninh nhà máy điện hạt nhân.
­ Nhà máy điện hạt nhân ở Hoa Kỳ sẽ không là hiểm họa đối với cư dân địa  
phương, thậm chí cả  khi một máy bay cố tình đâm vào. Lớp vỏ  thép và lớp  

bê tông được gia cố  cùng cấu trúc bên trong hạn chế  tối thiểu khả  năng rò 
thoát phóng xạ trong trường hợp như vậy.

7. Phát điện bằng năng lượng hạt nhân không làm tăng nguy cơ phổ biến 
vũ khí hạt nhân. Chế độ thanh sát quốc tế mà Liên hiệp quốc được uỷ quyền 
thi hành và được hỗ  trợ  bởi hoạt động thanh tra đột xuất có thể  phát hiện  
được mọi ý đồ  muốn chuyển thiết bị  và nhiên liệu hạt nhân dân sự  sang 
mục đích quân sự.
13


ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG                                       LỚP K20M

 
Kết Luận: 
Thực tế đã chứng minh, năng lượng hạt nhân là một trong những nguồn năng 
lượng thần kỳ, thiết thực trong thời đại công nghiệp hoá hiện đại hoá làm 
cho các nguồn năng lượng tự nhiên cạn kiệt. Nó đem lại lợi ích to lớn về 
năng lượng đặc biệt cho các quốc gia không có nhiều tài nguyên để sản xuất 
năng lượng như Nhật chẳng hạn. Nó đem lại sức mạnh, sự vượt trội của 
hải quân Mỹ, Nga, giúp con người và kĩ thuật vươn xa hơn.
Năng lượng hạt nhân còn có nhiều lợi ích cho y học giúp y học tìm ra con 
đường chữa trị ung thư căn bệnh ác liệt bằng cách dùng phóng xạ để tiêu 
diệt tế bào ung thư.Ngoài ra nâng lượng hạt nhân còn mang đến những cải 
tiến trong công nghiệp, nông nghiệp như sử dụng năng lượng hạt nhân để 
sản xuất điện…
Vậy tại sao chúng ta không sử dụng năng lượng hạt nhân để giúp ích cho 
cuộc sống và nếu sử dụng nên có sự kiểm soát và có những chính sách để 
không lạm dụng nguồn năng lượng hạt nhân cho mục tiêu chiến tranh hay 
phản động như thế đảm bảo được nhân loại sẽ có được một nguồn năng 

lượng mới thay thế cho nguồn năng lượng tự nhiên và cho những quốc gia 
nghèo tài nguyên năng lượng đảm bảo nhu cầu năng lượng cho tượng lai.

Nguồn tài liệu tham khảo:
/>dung­ky­thuat­hat­nhan­trong­nong­nghiep.
/>_kt_dcyt_va_bao_quan_lt_updated_on_29102010­newest.pdf
/>hinh­o­nuoc­ta.html
/>%E1%BA%A1t_nh%C3%A2n

14


ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG                                       LỚP K20M

/>ban­ve­nang­luong­hat­nhan.html
/>53648

15



×