Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Chuyên đề cuối khóa: Nghiên cứu và phân tích thực trạng của hoạt động trách nhiệm xã hội tại Công ty cổ phần may Sài Gòn 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.74 KB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG & XàHỘI
LỚP CĐ07NL
MÔN HỌC : CHUYÊN ĐỀ CHUYÊN SÂU

BÀI CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHÓA
TÊN ĐỀ TÀI

NGHIÊN CỨU VÀ PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG
CỦA HOẠT ĐỘNG TRÁCH NHIỆM XàHỘI
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN MAY SÀI GÒN 3

GVHD : NGUYỄN NGỌC TUẤN
SVTH : PHẠM THỊ LAN HƯƠNG
LỚP CĐ07NL


                                 Cảm ơn thầy Nguyễn Ngọc Tuấn đã tận tình giúp chúng
                                     em hoàn thành tốt bài chuyên đề này. Xin cảm ơn thầy!


MỤC LỤC
Phần I:     MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu

Phần II:    NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM XàHỘI CỦA DOANH
 NGHIỆP
1. Một số khái niệm


a. Trách nhiệm xã hội ở doanh nghiệp.
b. Tiêu chuẩn SA8000.
           2. Tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội ở nước ta.
c. Áp dụng ở Việt Nam
d. Áp dụng ở Doanh nghiệp
    

      II. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN SA8000 Ở CÔNG TY CỔ 
PHẦN MAY SÀI GÒN 3
          1. Thực trạng áp dụng tại công ty.
a. Quy trình áp dụng
b. Phân tích thực trạng
c. Các bước triển khai của SA8000.
d. Kinh phí thực hiện.
e. Lợi ích đem lại
f. Khó khăn, trở ngại.
         2. So sánh các bộ tiêu chuẩn với quy định của Pháp luật ở Việt Nam.
         3. Nhận xét.
      
 III. GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ
1. Một số điểm cần lưu ý
2. Kiến nghị


Phần III:    KẾT LUẬN

PHẦN I : MỞ ĐẦU
I.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

     Ngày nay, khi đất nước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa đất nước thì buộc nước ta phải có nhiều thay đổi về các mặt như: 
kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh… để hòa nhập với sự phát triển của 
thế giới.
     Toàn cầu hoá kinh tế là một xu hướng khách quan tạo nhiều cơ hội 
phát triển cho các quốc gia, nhất là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế 
cao, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, trước hết là nguồn nhân lực, tạo 
nhiều công ăn việc làm, giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, cải thiện 
đời sống nhân dân. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình hợp tác, đấu 
tranh và cạnh tranh, tạo ra nhiều cơ hội và thách thức.
    Với chính sách đổi mới và mở cửa, chủ động gia nhập vào nền kinh 
tế quốc tế của Đảng và Nhà nước đã đưa lại những thành tựu lớn trong 
việc phát triển kinh tế ­ xã hội ở nước ta, làm thay đổi bộ mặt của 
nước ta trên thị trường quốc tế.
Cùng với việc ban hành Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài và một 
loạt
các văn bản pháp luật hỗ trợ quá trình hội nhập, Việt Nam đã thực hiện
AFTA trong khối ASEAN, gia nhập diễn đàn APEC, mở rộng quan hệ 
thương mạivà đầu tư với EU, Nhật Bản, kí hiệp định Thương mại 
Việt Nam ­ Hoa kỳ và đang trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức 


Thương mại Thế giới (WTO). Điều này đã mang lại cho các doanh 
nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội cũng như thách thứcmới cùng với 
những "luật chơi" mới. Một trong những luật chơi mới đó là thực hiện 
"Trách nhiệm của Xã hội của Doanh nghiệp" liên quan đến một số nội 
dung chủ yếu thuộc lĩnh vực lao động và môi trường, thông qua những 
"Bộ Quy tắc ứng xử" (Code of Conduct).
    Thời gian gần đây, dư luận đang quan tâm chặt chẽ và bức xúc đối 
với hàng

loạt vụ vi phạm đạo đức kinh doanh, xâm hại môi trường và sức khỏe 
con người ở mức độ nghiêm trọng; đặc biệt là vụ xả trực tiếp chất 
thải không qua xử lý ra sông Thị Vải của công ty Vedan ở Việt Nam. 
Sự đúng – sai trong những vụ việc trên là rõ ràng. Tuy nhiên, đối với xã 
hội và hàng ngàn doanh nghiệp đang hoạt động khác, bài toán về. Trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) lại được đặt ra và cần được 
thảo luận nghiêm túc cả về mặt lý luận chính sách và thực tiễn.
    Hiện nay, ở Việt Nam đã có 25 doanh nghiệp được cấp chứng nhận 
đạt tiêu
chuẩn SA 8000, như: Công ty Dệt may Việt Thắng, Công ty dệt may 
Thành Công, Công ty Xuất nhập khẩu dệt may Việt Tiến, Castrol 
Vietnam, Legamex...Chính vì vậy nên em muốn tìm hiểu xem thực 
trạng của các công ty trên đã áp dụng tiêu chuẩn SA8000 này ra sao 
nhằm tìm hiểu những kết quả tích cực trong thời gian qua cũng như 
những mặt hạn chế, những điểm khó khăn cần giải quyết trong lĩnh 
vực này.
II.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
­ Bộ tiêu chuẩn thực hiện Trách Nhiệm Xã Hội (TNXH).
­ Quy định Pháp luật ở Việt Nam. 
2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
­ Không gian : ở tại Công ty cổ phần may Sài Gòn 3.
­ Thời gian : 9/4 đến 15/5/2010. 
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
­ Sưu tầm, thống kê tài liệu trên internet.
­ Phỏng vấn giám đốc công ty.
­ Phỏng vấn người lao động.
­ Phỏng vấn công ty dịch vụ cung ứng.
­ Hỏi ý kiến chuyên gia.


PHẦN II. NỘI DUNG


I.

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM XàHỘI CỦA 
DOANH NGHIỆP
i.

MỘT SỐ KHÁI NIỆM
a.   Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

Năm 1973 Keith Davis đã đưa ra một khái niệm khá 
rộng: “CSR là sự quan tâm và phản ứng của doanh nghiệp 
với các vấn đề vượt ra ngoài việc thoả mãn những yêu 
cầu pháp lý, kinh tế, công nghệ”.
Archie Carroll (1999) còn cho rằng CSR có phạm vi 
rộng lớn hơn: “CRS bao gồm sự mong đợi của xã hội về 
kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ 
chức tại một thời điểm nhất định”.
Theo Matten và Moon (2004) lại cho rằng: “CSR là 
một khái niệm chùm bao gồm nhiều khái niệm khác nhau 
như đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp là từ thiện, công 
dân doanh nghiệp, tính bền vững và trách nhiệm môi 
trường. Đó là một khái niệm động và luôn được thử thách 
trong từng bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù”…
Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp là điều kiện ràng 
buộc đối với các hợp đồng xuất khẩu sang các nền kinh 
tế phát triển, buộc phải tuân thủ khi ký kết hợp đồng.

Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp thể hiện qua các 
yêu cầu về tuân thủ chế độ lao động tốt, an toàn vệ sinh 
thực phẩm, sản phẩm sạch và bảo vệ môi trường.
Hội đồng Doanh nghiệp thế giới vì sự phát triển bền 
vững: "CRS là sự cam kết trong việc ứng xử hợp đạo lý 
và đóng góp vào sự phát triển kinh tế, đồng thời cải thiện 
chất lượng cuộc sống của lực lượng lao động và gia đình 
họ, cũng như của cộng đồng địa phương và của toàn xã 
hội nói chung” 


Phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng Thế giới 
(WB): “CRS là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp 
cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những 
việc làm nâng cao chất lượng đời sống của người lao 
động và các thành viên trong gia đình họ; cho cộng đồng 
và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng 
như phát triển chung của xã hội”… 
Diễn giải cụ thể tất cả nội dung trên về CSR trong 
thời hội nhập toàn cầu hoá kinh tế hiện nay có thể hiểu 
như sau về nội hàm yêu cầu của nó:
1. Trách nhiệm với thị trường và người tiêu dùng 
2. Trách nhiệm về bảo vệ môi trường
3. Trách nhiệm với người lao động 
4. Trách nhiệm chung với cộng đồng. 
 Một số chứng chỉ quốc tế về trách nhiệm xã hội của DN
                         + SA 8000: tiêu chuẩn lao động trong các nhà máy sản xuất.
                         + WRAP: trách nhiệm toàn cầu trong ngành sản xuất may mặc.
                         + ISO 9001: hệ thống quản lý chất lượng.
                         + ISO 14001: hệ thống quản lý môi trường trong DN.

                         +CSR: cam kết của DN đóng góp cho sự phát triển bền vững,    
thông qua những việc làm nâng cao chất lượng đời sống người lao động và 
các thành viên gia đình họ. 
Ngoài ra, những tập đoàn lớn như: Nike, Timberland, Gap, IKEA... đều có các 
bộ quy tắc ứng xử (COC) riêng.
b. Khái niệm về SA8000
                            Trong tình hình các vụ tai tiếng ở một số công ty chưa phai 
nhòa từ nhiều năm qua, một luồng gió thay đổi bền bĩ đang buộc các công ty 
phải xem xét lại tác động toàn diện từ các chính sách và hoạt động của công 
ty mình, đặc biệt là từ quan điểm của khách hàng / người tiêu dùng.
                            Công ty nào muốn giữ cho diện mạo công ty mình được 
đánh giá cao thì không những phải xem xét lại ảnh hưởng về mặt xã hội từ 
các hoạt động của chính công ty mình mà còn phải xem xét lại ảnh hưởng 
toàn diện về mặt xã hội của điều kiện làm việc cho các nhà cung cấp và các 


đối tác kinh doanh của mình. Thực chất, điều này có nghĩa là kiểm soát và 
thực hiện việc tôn trọng cũng như đẩy mạnh nhân quyền của toàn thể nhân 
viên trong suốt chuỗi cung cấp, sản xuất và phân phối.
Vậy, SA8000 là gì? 

SA 8000 la tiêu chuân quôc tê ban hanh năm 1997, đ
̀
̉
́
̀
ưa cac yêu câu v
́
̀ ề 
Quan lý Trách nhiêm Xã hôi nhăm cai thiên điêu kiên lam viêc trên toan câu. SA 

̉
̣
̣
̀
̉
̣
̀
̣ ̀
̣
̀ ̀
8000 được Hôi đông Công nhân Quyên 
̣
̀
̣
̀ ưu tiên Kinh tế thuôc Hôi đông 
̣
̣
̀ Ưu tiên 
kinh tế (CEP) xây dựng dựa trên cac Công 
́
ươc cua T
́ ̉ ổ chưc lao đông Quôc t
́
̣
́ ế, 
Công ươc cua Liên Hiêp Quôc v
́ ̉
̣
́ ề Quyên Tr
̀ ẻ em và Tuyên bố Toan câu v

̀ ̀ ề Nhân 
quyên. Hôi đông Công nhân Quyên 
̀
̣
̀
̣
̀ ưu tiên Kinh tế la môt t
̀ ̣ ổ chưc Phi chinh ph
́
́
ủ, 
chuyên hoat đông v
̣
̣
ề cac linh v
́ ̃ ực hợp tac trach nhiêm xã hôi, đ
́ ́
̣
̣ ược thanh lâp 
̀
̣
năm 1969, co tr
́ ụ sở đăt tai New York
̣ ̣
.
SA 8000 có 9 điều khoản gồm:
1. Lao động trẻ em : Không có công nhân làm việc dưới 15 tuổi, tuổi tối thiểu  
cho các nước đang thực hiện công  ước 138 của ILO là 14 tuổi, ngoại trừ  các  
nước đang phát triển; cần có hành động khắc phục khi phát hiện bất cứ trường  
hợp lao động trẻ em nào.



2. Lao động cưỡng bức  : Không có bất kỳ  hình thức lao đông bắt buộc, bao  
gồm các hình thức lao động trả nợ hoặc lao động nhà tù, không yêu cầu đặt cọc  
giấy tờ tuỳ thân hoặc bằng tiền khi được tuyển dụng; 
3. Sức khỏe và sự an toàn : Môi trường làm việc phải đảm bảo an toàn và lành 
mạnh, đưa ra những biện pháp phòng ngừa tai nạn và tổn hại đến sức khoẻ,  
tiến hành các khóa đào tạo thường xuyên cho công nhân viên về an toàn lao động  
và sức khỏe, các hệ thống nhằm bảo vệ những mối nguy hại đối với sức khỏe 
và sự an toàn; 
4.  Tự  do  đoàn thể  và quyền thương lượng tập thể  :  Người làm việc có 
quyền thành lập và tham gia công đoàn theo sự  lựa chọn và có quyền thương 
lượng tập thể theo sự lựa chon của người lao động;
5. Phân biệt đối xử : Không phân biệt đối xử về các vấn đề chủng tộc, địa vị 
xã hội, nguồn gốc, tôn giáo, người khuyết tật, giới tính, quan niệm về giới tính,  
thành viên công đoàn hay quan điểm chính trị, hay tuổi tác, không quấy rối tình 
dục... 
6.  Hình thức kỉ  luật  :   Không áp dụng các hình phạt về  thể  xác, tinh thần,  
không lăng mạ, sỉ nhục;
7. Thời giờ làm việc : Phải tuân thủ theo luật pháp hiện hành, trong mọi trường 
hợp­ thời gian làm việc không vượt quá 48 giờ/tuần, có ít nhất một ngày nghỉ 
trong bảy ngày; làm thêm ngoài giờ  phải được  ưu đãi và không vượt quá 12 
giờ/tuần trong ngày thường; làm ngoài giờ có thể bắt buộc nếu trong hợp đồng 
có thỏa thuận.
8. Tiền lương :  Lương của người lao động phải đáp ứng các tiêu chuẩn và quy  
định của pháp luật và phải đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người lao động và 
gia đình của họ; không trừ lương do bị kỷ luật;
9. Các hệ thống quản lý : Tạo điều kiện thuận lợi để áp dụng và duy trì chứng  
nhận nhằm hoà hợp với tiêu chuẩn trong hệ thống quản lý và thực hành của họ.
 Điều 9 đưa ra yêu cầu về hệ thống quản lý các vấn đề liên quan 

tới trách nhiệm xã hội của cơ sỏ. Hệ thống quản lý này được xây 
dựng tương thích với hệ thống quản lý chất lượng, nghĩa là cũng 
có các yêu cầu về hoạch định chính sách, xem xét của lãnh đạo, 
hành động khắc phục, kiểm soát người cung ứng, trao đổi thông 
tin...


 Tiêu chuân nay co th
̉
̀ ́ ể ap dung cho các Công ty 
́ ̣
ở mọi qui mô lớn, 

nhỏ ở cả cac n
́ ươc công nghiêp phát tri
́
̣
ển và cac n
́ ươc đang phat 
́
́
triên̉ . Tiêu chuân SA 8000 la c
̉
̀ ơ sở cho cac công ty cai thiên đ
́
̉
̣ ược 
điêu kiên lam viêc. 
̀
̣ ̀

̣
 Muc đich cua SA 8000 không phai đ
̣ ́
̉
̉ ể khuyên khich hay châm d
́
́
́ ứt 
hợp đông v
̀ ơi cac nhà cung câp, ma cung câp h
́ ́
́
̀
́ ỗ trợ về kỹ thuât và 
̣
nâng cao nhân th
̣
ưc nhăm nâng cao điêu kiên sông và lam viêc.
́
̀
̀
̣
́
̀
̣
 SA 8000 giúp cac doanh nghiêp đ
́
̣ ạt được muc tiêu đăt ra và đam 
̣
̣

̉
bao l
̉ ợi nhuân liên tuc. Công viêc chi co th
̣
̣
̣
̉ ́ ể được thực hiên tôt khi 
̣
́
co môt môi tr
́ ̣
ương thuân l
̀
̣ ợi, và sự ra đời cua tiêu chuân quôc t
̉
̉
́ ế 
SA 8000 chinh la đ
́
̀ ể tao ra môi tr
̣
ường đó.

 SA 8000 là một tiêu chuẩn quốc tế khuyến khích các công ty sản 
xuất và các tổ chức khác xây dựng, duy trì và áp dụng các việc 
thực hành tại nơi làm việc mà xã hội có thể chấp nhận. Tiêu 
chuẩn SA 8000 do Tổ chức Trách nhiệm Xã hội Quốc tế (SAI) ­ là 
một thành viên của Hội đồng về Quyền ưu tiên Kinh tế­ xây dựng 
năm 1998.  Tiêu chuẩn này được xem là tiêu chuẩn về nơi làm 
việc có thể được chấp nhận toàn cầu nhất và có thể được đánh 

giá ở mọi quy mô công ty, ở bất kỳ nơi đâu và cho bất kỳ ngành 
công nghiệp nào.
Cùng với việc thiết lập các tiêu chuẩn liên quan đến quyền của 
người lao động, SA 8000 tuân theo các thõa ước quốc tế hiện hành, bao 
gồm các công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế, bản Tuyên ngôn 
Quốc tế về Nhân quyền, và Công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ 
em.
Thực hiện lập trường phù hợp với đạo đức và minh bạch thông qua 
việc chứng nhận công ty và các đối tác kinh doanh của bạn đang hoạt 
động theo các yêu cầu của tiêu chuẩn SA 8000 sẽ mang lại các lợi ích lâu 
dài:
Việc thực hiện quản lý theo tiêu chuẩn SA 8000 mang lại lợi ích cho từ người 
lao động đến công ty và các bên hữu quan khác co th
́ ể phân loai nh
̣
ư sau: 
a. Lợi ich đ
́ ứng trên quan điêm cua ng
̉
̉
ười lao động, các tổ chức công đoàn 
và tổ chức phi chính phủ
Tạo cơ hội để thành lập tổ chức công đoàn và thương lượng tập thể.


Là công cụ đào tạo cho người lao động về quyền lao động.
Nhận thức của công ty về cam kết đảm bảo cho người lao động được làm việc 
trong môi trường lành mạnh về an toàn, sức khoẻ và môi trường.
b. Lợi ich đ
́ ứng trên quan điêm cua khach hang

̉
̉
́
̀ :
• Có niềm tin về sản phẩm được tạo ra trong môt môi tr
̣
ương lam viêc an toan 
̀
̀
̣
̀
và công băng
̀
• Giảm thiểu chi phí giám sát
• Các hành động cai tiên liên tuc và đanh giá đinh k
̉
́
̣
́
̣
ỳ cua bên Th
̉
ứ Ba la c
̀ ơ sở để 
chứng tỏ uy tin cua công ty
́ ̉
c. Lợi ich đ
́ ứng trên quan điêm cua chính doanh nghi
̉
̉

ệp:
• Cơ hôi đê đat đ
̣ ̉ ̣ ược lợi thế canh tranh, thu hut nhiêu khach hang h
̣
́
̀
́
̀ ơn và xâm 
nhâp đ
̣ ược vao thi tr
̀ ̣ ương m
̀
ơi có yêu c
́
ầu cao
• Nâng cao hình ảnh công ty, tạo niềm tin cho các bên trong “Sự yên tâm về măt 
̣
trach nhiêm xã hôi”
́
̣
̣
• Giam chi phi quan lý cac yêu câu xã hôi khac nhau.
̉
́ ̉
́
̀
̣
́
• Co v
́ ị thế tôt h

́ ơn trong thi tr
̣ ương lao đông và th
̀
̣
ể hiện cam kêt rõ rang v
́
̀ ề cac 
́
chuân m
̉
ực đao đ
̣ ức và xã hôi giup cho công ty d
̣
́
ễ dang thu hut đ
̀
́ ược cac nhân 
́
viên giỏi, co k
́ ỹ năng. Đây la yêu t
̀ ́ ố được xem la “Chia khoá cho s
̀
̀
ự thanh công” 
̀
trong thơi đai m
̀ ̣ ơi.
́
• Tăng long trung thanh va cam kêt cua ng
̀

̀
̀
́ ̉
ười lao động đôi v
́ ới công ty.
• Tăng năng suât, t
́ ối ưu hiệu quả quản lý
• Co đ
́ ược môi quan hê tôt h
́
̣ ́ ơn với khach hang va co đ
́
̀
̀ ́ ược cac khach hang trung 
́
́
̀
thanh.
̀
         Nhưng cho đến đây kinh doanh vẫn chưa có ý nghĩa xấu và cử chỉ xấu khi 
xuất hiện mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân của nhà doanh nghiệp với các lợi ích 
chung của cộng đồng, xã hội, và nhà doanh nghiệp quyết định đánh đổi lợi ích 
chung để tối đa hóa lợi ích cá nhân. Mâu thuẫn loại này khá phổ biến trong đời 
sống xã hội, biểu hiện ở các hình thức như trốn thuế, sản xuất gây ô nhiễm 
môi trường, sản xuất sản phẩm kém chất lượng, hối lộ nhằm chiếm đoạt các 
lợi ích chung thành của riêng mình, lừa gạt khách hàng, người tiêu dùng…
        Thật ra, không chỉ  ở Việt Nam, các vấn đề này thu hút sự  chú ý và tranh  
luận của hầu hết quốc gia trên thế  giới, nó dẫn đến các nghiên cứu lý luận và 
thực nghiệm  ở  nhiều quốc gia về vấn đề  này. Từ  đây hình thành một trào lưu 



trong khoa học quản trị  và tiếp thị  ­ trào lưu trách nhiệm xã hội trong kinh  
doanh. Nội hàm chính của trào lưu này là để  có thể  phát triển lâu dài và thịnh 
vượng, các doanh nghiệp không chỉ  hướng đến phục vụ  thật tốt khách hàng ­ 
mục tiêu của mình ­ mà còn phải tuân thủ tốt các giá trị, qui định (tập quán, luật  
pháp) của cộng đồng/xã hội, đồng thời đóng góp cho sự  phát triển lành mạnh 
của cộng đồng/xã hội mà doanh nghiệp đang là thành viên. Rất nhiều quan sát 
và nghiên cứu đều chỉ ra mối quan hệ dương tính giữa trách nhiệm xã hội và lợi  
nhuận, mức độ phát triển của doanh nghiệp.
         Tuy nhiên, cách đặt vấn đề  của các nhà kinh doanh thành đạt lại không 
phải là liệu chúng ta có thể  dung hòa lợi ích doanh nghiệp với lợi ích xã hội 
(như  cách đặt vấn đề   ở  trên) mà là chỉ  khi các doanh nghiệp cam kết và thực 
hiện tốt trách nhiệm với khách hàng và cộng đồng thì khi đó doanh nghiệp phát 
triển và thịnh vượng. Nghĩa là trách nhiệm xã hội đã không còn là trách nhiệm,  
nó trở thành sứ mệnh (mission) và mục tiêu định hướng cho các hoạt động của 
doanh nghiệp. Đến đây rất nhiều doanh nghiệp băn khoăn, đành rằng các giá trị 
cộng đồng/xã hội là điều tốt, nên làm, nhưng thực hiện chúng liệu có cải thiện 
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp hay chỉ làm gia tăng các chi phí cho doanh 
nghiệp? Kinh nghiệm của các doanh nghiệp cho thấy trong ngắn hạn chi phí có  
thể  gia tăng, nhưng về  lâu dài chi phí giảm xuống đi kèm theo sự  gia tăng của 
các lợi ích.
Doanh nghiệp nhận  được lợi ích gì từ  việc thực hiện các 
trách

 

nhiệm

 




 

hội?

                 Đầu tiên và quan trọng nhất là xây dựng một hình  
ảnh tốt về  doanh nghiệp trong cộng đồng ­ một nền tảng  
quan trọng của lợi thế cạnh tranh. Một hình  ảnh tốt chính là 
cơ   sở   để   hình  thành  và   xây  dựng  các   thương  hiệu  mạnh.  
Thực hiện nghiêm túc các giá trị, qui định của xã hội giúp  
doanh nghiệp có được một môi trường kinh doanh (bên trong  


và bên ngoài) lành mạnh, một đội ngũ nhân viên tận tụy, cam  
kết và đạo đức ­ yêu cầu tất yếu của phát triển. Các yêu cầu  
về  trách nhiệm xã hội hiện nay đã trở  thành các tiêu chuẩn  
phải có  trong kinh doanh chẳng hạn như  SA8000 của dệt  
may. Thực hiện các tiêu chuẩn này là điều kiện để  tham gia 
các thị trường lớn như EU, Nhật, Mỹ. Thực tiễn  ở các doanh 
nghiệp ban đầu khi chưa quen các tiêu chuẩn thì còn nhiều  
khó chịu và khúc mắc, nhưng khi đi vào vận hành thì các tiêu  
chuẩn này còn giúp gia tăng năng suất lao động và cải tiến 
chất lượng sản phẩm, vì các tiêu chuẩn này liên quan rất 
nhiều đến quyền lợi người lao động, vệ sinh môi trường làm 
việc, an toàn lao động…
      (1) nền kinh tế thị trường chưa phát triển một cách hoàn chỉnh với đầy  
đủ cơ chế, thể chế, tác nhân và nguồn lực của nó (luật pháp chưa đầy đủ, đồng 
bộ, thị  trường còn phân tán, qui mô nhỏ, thông tin thị  trường chưa minh bạch,  
can thiệp quá sâu của chính phủ  vào thị  trường thông qua các mệnh lệnh hành 

chính…).
(2) đi kèm với sự non trẻ của cơ chế thị trường là nhận thức chưa chính xác 
và đầy đủ (một số trường hợp thì cố tình lợi dụng để trục lợi) của các nhà kinh 
doanh và cả xã hội về chức năng và trách nhiệm kinh doanh. 
Vậy để  giải quyết các hiện tượng không lành mạnh hiện nay, yêu cầu đầu 
tiên là đầu tư  phát triển đồng bộ  nền kinh tế  thị  trường. Một thị  trường lành 
mạnh, khỏe khoắn chính là một cơ chế hoàn thiện để nhận diện các khối u và  
loại trừ chúng.
Thực tế  chúng ta có thể  tự  hào và tự  tin về  những đóng góp của các doanh 
nghiệp cho các hoạt động xã hội. Rõ ràng chúng ta không thiếu những tấm lòng.  


Nhưng trách nhiệm xã hội không đơn thuần là lòng từ  thiện. Trách nhiệm xã  
hội phải gắn với một tầm nhìn xa để tạo ra những cơ hội phát triển.
  
TA.

2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM  XàHỘI Ở NƯỚC 
a. Áp dụng ở Việt Nam

      Những năm gần đây, ở  nước ta đã có một số doanh nghiệp chủ động thực 
hiện CSR và nhờ đó thương hiệu của họ càng được xã hội biết đến như các tập  
đoàn Mai Linh, Tân Tạo, Duy Lợi, ACB, Sacombank, Kinh Đô…
      Từ năm 2005, nước ta đã có giải thưởng "CSR hướng tới sự phát triển bền  
vững" được tổ chức bởi Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI),  
Bộ  Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ  Công Thương cùng các hiệp hội Da  
giày, Dệt may tổ chức, nhằm tôn vinh các doanh nghiệp thực hiện tốt công tác 
CSR trong bối cảnh hội nhập. Cho đến năm 2006 đã có 50 doanh nghiệp ngành 
dệt may và da giày tham dự  hoạt động này vì đã nhận thấy tính thiết thực của 
nó. Khảo sát do Viện Khoa học Lao động và Xã hội tiến hành gần đây trên 24 

doanh nghiệp thuộc hai ngành dệt may và da giầy đã chỉ ra rằng nhờ thực hiện 
các chương trình CSR, doanh thu của các doanh nghiệp này đã tăng 25%, năng  
suất lao động cũng tăng từ  34,2 lên 35,8 triệu đồng/lao động/năm, tỷ  lệ  hàng 
xuất khẩu tăng từ 94% lên 97%.4 Ngoài hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn  
có lợi từ  việc tạo dựng hình  ảnh với khách hàng, sự  gắn bó và hài lòng của  
người lao động, thu hút lao động có chuyên môn cao…
      Gần đây, Hội nghị Doanh nhân tiêu biểu toàn quốc năm 2008 diễn ra trong  
hai ngày 11 và 12/10/2008, đã có 100 doanh nhân Việt Nam tiêu biểu được trao 
tặng Cúp Thánh Gióng ­ biểu tượng cho tinh thần, sức mạnh của doanh nhân 
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Đồng thời, tại Lễ kỷ niệm Ngày Doanh nhân  
Việt Nam (13/10/2008) cũng đã có 100 doanh nhân được trao tặng danh hiệu  
Doanh nhân Việt Nam tiêu biểu năm 2008. Các doanh nhân này cùng với các  
doanh nghiệp của họ  bên cạnh các thành tích xuất sắc trong sản xuất ­ kinh  
doanh, đồng thời cũng đều là các điển hình thực hiện CSR đối với cộng đồng  
xã hội. Trước các doanh nhân đại diện cho gần 300.000 doanh nghiệp cả nước  
tham dự Hội nghị Doanh nhân tiêu biểu toàn quốc 2008, Thủ  tướng Chính phủ 
Nguyễn Tấn Dũng đã lưu ý các doanh nhân, doanh nghiệp phải nâng cao hơn  


nữa trách nhiệm xã hội, coi đó là một mục tiêu phấn đấu văn hóa kinh doanh,  
tăng cường sức cạnh tranh, từ đó  đóng góp nhiều hơn nữa cho đất nước.
      Theo chỉ đạo của Thủ tướng, các doanh nghiệp hãy thể hiện trách nhiệm xã  
hội, thể hiện văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh bằng việc tuân thủ  đúng 
quy định pháp luật. “Văn hóa kinh doanh không chấp nhận sự  gian lận, không 
chấp nhận việc gây ô nhiễm môi trường…”. Như  vậy, có thể  thấy CSR có sự 
gắn kết chặt chẽ với văn hoá kinh doanh, văn hoá doanh nghiệp, và cũng chính  
là văn hoá doanh nhân của tất cả các doanh nhân khi tham gia vào các hoạt động  
sản xuất ­ kinh doanh trên thương trường.
     Thực tiễn cho thấy, thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh Việt Nam  
thời kỳ  hội nhập toàn cầu hoá kinh tế  hiện nay và nhiều năm tới ngày càng 

được các doanh nhân nước ta nhận thức sâu sắc chính là những đóng góp của  
các doanh nghiệp, doanh nhân vào việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua 
những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và 
gia đình họ, có lợi cho cả  doanh nghiệp cũng như  phát triển chung của cộng  
đồng xã hội.
     Thực tiễn cũng đã cho thấy, trong tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu, CSR 
đã trở thành một trong những yêu cầu đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nếu 
doanh nghiệp nào đó không tuân thủ  CSR sẽ  không thể  tiếp cận được với thị 
trường thế giới…
     Như đã nêu trên, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội sẽ giúp nâng cao uy tín của  
doanh nghiệp, doanh nhân, từ đó sẽ mang lại nhiều lợi nhuận kinh tế và lợi ích 
chính trị  ­ xã hội cho họ. Tuy nhiên, cũng không nên đồng nhất việc cứ làm từ 
thiện giỏi đã là thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, cho dù làm từ  thiện là một  
hoạt động thể  hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực tế  là đã có 
doanh nghiệp tích cực làm từ  thiện nhưng vẫn vì chạy theo lợi nhuận mà vi  
phạm pháp luật, vi phạm sự  phát triển bền vững của cộng đồng xã hội. “Sự 
kiện Vê Đan” cùng một số  doanh nghiệp khác  ở  Đồng Nai đã “đầu độc” sông  
Thị  Vải làm huỷ  hoại môi trường mới đây là một minh chứng điển hình cho  
trường hợp này. 
     Đó là chưa thể kể hết còn biết bao trường hợp khác nữa “đã bị lộ” thì sự đã  
rồi, và chắc rằng còn nhiều trường hợp “chưa bị lộ” đã và đang vẫn xảy ra trên 
đất nước này… Người dân TP. Hồ Chí Minh đến nay vẫn đang bức xúc, lo ngại  
về tình trạng ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp của thành phố như các 
khu công nghiệp Lê Minh Xuân, Tân Tạo… và còn nhiều địa phương khác nữa 
trong cả nước cũng đang lâm vào tình trạng như vậy. Đến nay, chưa có cơ quan 


chức năng nào có thể  thống kê đầy đủ  con số  các doanh nghiệp thiếu trách 
nhiệm xã hội, thiếu văn hoá kinh doanh, đạo đức kinh doanh như  vậy. Từ  đó, 
càng cho thấy tính cấp thiết của việc cần tăng cường đề  cao hơn nữa tính tự 

giác, thậm chí đã đến lúc không chỉ dừng lại ở ý thức tự giác trong nhận thức và  
hoạt động của mỗi doanh nghiệp mà cần luật pháp hoá vấn đề  trách nhiệm xã 
hội của doanh nghiệp theo đúng các yêu cầu đã phản ánh trong nội hàm của nó 
như đã nêu ở bài viết của tác giả đã đăng ngày 10/4/2009.
     Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, khái niệm CSR vì còn tương đối mới ở Việt  
Nam nên việc thực hiện nó cho đến nay vẫn còn hạn chế. Theo nghiên cứu mới 
đây của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, rào cản và thách thức cho việc 
thực hiện CSR bao gồm: 1) Nhận thức về khái niệm CSR còn hạn chế; 2) Năng  
suất bị ảnh hưởng khi phải thực hiện đồng thời nhiều bộ quy tắc ứng xử COC  
(Code of Conduct); 3) Thiếu nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn 
mực CSR (đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ  và vừa); 4) Sự  nhầm lẫn  
do khác biệt giữa qui định của CSR và Bộ  luật Lao động; 5) Những quy định 
trong nước  ảnh hưởng tới việc thực hiện các COC. Diễn giải cụ  thể  hơn về 
một số rào cản, thách thức đó như sau:
­ Trước hết, đó là sự hiểu biết của không ít các doanh nghiệp về CSR chưa đầy  
đủ. Nhiều doanh nghiệp chỉ hiểu đơn thuần là làm từ  thiện mà chưa hiểu rằng 
việc thực hiện CSR là phải thể hiện trực tiếp trong toàn bộ các hoạt động sản  
xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì thế, trên thực tế đã có những doanh 
nghiệp một mặt vẫn tham gia tích cực các hoạt động nhân đạo, từ thiện nhưng 
mặt khác vẫn lao vào vòng quay lợi nhuận kinh doanh không lành mạnh theo  
kiểu buôn bán lòng vòng, chụp giật, tranh thủ các khe hở của cơ chế, chính sách 
thị trường do Nhà nước ban hành để kiếm lời. Tình trạng lợi dụng thương hiệu 
của nhau để  làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng vẫn phổ  biến  ở 
nước ta. Đó là chưa kể đến tình trạng đã có nhiều doanh nghiệp lớn, kể cả một  
số các tập đoàn nhà nước đã không chỉ lợi dụng thương hiệu nhà nước mà còn 
lợi dụng ngân sách nhà nước (thực chất là chiếm dụng vốn nhà nước) để  kinh  
doanh buôn bán lòng vòng cả những mặt hàng không đúng chức năng được giao 
để khi thu lời lớn thì đem chia chác nội bộ, còn khi bị lỗ thì ngân sách nhà nước  
phải gánh chịu…
­ Thứ  hai,  một rào cản khác tác động bất lợi đến việc thực hiện CSR là do 

nhiều doanh nghiệp hiện nay bị thiếu hụt nguồn tài chính và kỹ  thuật để  thực 
hiện các chuẩn mực CSR, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ  và vừa, mà phần  
lớn doanh nghiệp Việt Nam hiện đều là doanh nghiệp nhỏ và vừa. 


­ Thứ ba, tính pháp lý của việc đánh giá thực hiện CSR ở nước ta hiện nay còn 
nhiều hạn chế, bất cập. Trên thực tế, mặc dù đã được quy định theo các quy  
tắc của  các  bộ  quy tắc  ứng xử  COC  và các  tiêu chuẩn chế   định khác như 
SA8000, WRAP, ISO 14000, GRI..., tuy nhiên các tiêu chuẩn này lại không phải  
là thoả  thuận giữa các chính phủ  hay quy định của các công  ước quốc tế  mà 
thường vẫn chỉ  là ràng buộc giữa các nhà xuất nhập khẩu hoặc do chính các 
doanh nghiệp tự đặt ra, vì thế  còn thiếu tính pháp định quốc gia và càng thiếu  
tính pháp định thông lệ quốc tế. Từ đó, nếu xảy ra các vi phạm dù sơ ý hay chủ 
ý đáng tiếc nào đó mà dẫn đến khiếu kiện nhau thì rất khó phân xử.
      Cho đến nay, chúng ta đã có các doanh nghiệp sản xuất sạch: sản xuất rau  
sạch, nuôi trồng thủy sản sạch, sản xuất than sạch... Nhưng những việc làm 
này hầu như  mang nhiều tính bắt buộc hoặc là tự  phát hơn là một việc làm tự 
nguyện gắn liền với hoạt động kinh doanh và hình ảnh của doanh nghiệp. Điều  
lưu ý nữa, do thói quen tiêu dùng và nhất là do “túi tiền” còn hạn hẹp của đa số 
người tiêu dùng Việt Nam nên thường sản phẩm sạch của các doanh nghiệp 
này chủ  yếu chỉ phục vụ cho các đối tượng khách hàng từ  tầng lớp trung lưu, 
khá giả  trở  lên. Lợi nhuận và vòng quay lợi nhuận thu được cho các doanh  
nghiệp này vì thế  cũng chưa phải là hấp dẫn khiến cho không phải bất cứ 
doanh nghiệp nào cũng có thể  chuyên tâm vào sản xuất, kinh doanh các sản  
phẩm này. Đó là còn chưa kể cá biệt đã có doanh nghiệp sản xuất hoặc siêu thị 
kinh doanh đã lợi dụng uy tín thương hiệu để  đưa cả  hàng “bẩn”, hàng nhái, 
hàng giả vào để bán lẫn cùng hàng sạch cho người tiêu dùng.
      Biểu hiện rõ nhất gần đây ở nước ta về tình trạng thiếu trách nhiệm xã hội,  
thiếu đạo đức, văn hoá trong sản xuất ­ kinh doanh của không ít các doanh 
nghiệp là đã để  xảy ra hàng loạt các sự  kiện liên quan đến các mặt hàng nông 

sản thực phẩm không bảo đảm vệ  sinh an toàn thực phẩm, như  nước tương 
đen chứa 3­MCPD (một chất có thể  gây ung thư), thực phẩm bảo quản bằng 
foocmon, hàn the, rau được tưới các chất kích thích tăng trưởng, cá nuôi trong 
môi trường bị  ô nhiễm, nông sản thực phẩm chế  biến sử  dụng các chất bảo 
quản độc hại, dư  lượng kháng sinh hay thuốc bảo vệ  thực vật vượt quá tiêu 
chuẩn cho phép và gần đây nhất là việc hàng loạt các sản phẩm sữa nhiễm  
melamine ­ một chất độc hại gây ra sạn thận ở trẻ em, có thể dẫn tới tử vong.  
Theo kết quả  kiểm tra của Vụ  Khoa học và Công nghệ, Bộ  Nông nghiệp và  
Phát triển nông thôn: năm 2007, tỷ  lệ  dư  lượng thuốc trừ  sâu trong các sản 
phẩm rau muống, cải, đậu... tại Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng mức thấp nhất là 
15%, cao nhất 30%; đặc biệt, đối với sản phẩm nho, có nơi phun tới 30 lần và  
tỷ  lệ  thuốc trừ  sâu vượt ngưỡng cho phép lên tới trên 60%; có tới khoảng  
32,54% tổng số mẫu nông sản phân tích phát hiện thấy dư lượng thuốc bảo vệ 
thực vật, trong đó gần 70% đã vượt quá ngưỡng giới hạn tối đa cho phép trong 


thực phẩm (tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới ­ WHO). Đó là những con số 
đáng báo động và cũng chính là nguyên nhân gây ảnh hưởng không nhỏ tới sức 
khỏe, thậm chí là tính mạng của người tiêu dùng. 
      Cần thấy rằng, trong thời gian qua, mặc dù công luận và các phương tiện  
thông tin đại chúng đã thường xuyên đưa tin về  những vi phạm gây ô nhiễm 
môi trường của nhiều doanh nghiệp, nhưng dường như  là đa số  các cơ  quan  
chức năng của các địa phương đều chưa có những biện pháp đủ mạnh để xử lý  
các trường hợp đó, trong khi phần lớn các doanh nghiệp thì tìm mọi biện pháp  
để né tránh trách nhiệm. Nhiều người cho rằng, nói về ý thức tự giác của doanh 
nghiệp trong việc bảo vệ  môi trường trong thời điểm hiện nay dường như  là 
một câu chuyện xa vời và không thực tế! Nhưng rõ ràng ô nhiễm môi trường từ 
hoạt động sản xuất, chế biến các sản phẩm của các doanh nghiệp hiện nay đã  
lên tới mức báo động, thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nói chung, 
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng nông sản thực phẩm nói riêng đối 

với việc bảo vệ môi trường còn rất hạn chế.
      Từ đó cho thấy tính cấp thiết của việc có một hệ thống các giải pháp đồng  
bộ  khả  thi, hiệu quả  cao giữa các cấp, các ngành, các địa phương, cơ  sở  (bao  
gồm   cả   các   giải  pháp  chế   định   được   luật   pháp  hoá)  nhằm  giúp   các   doanh 
nghiệp Việt Nam và cả các doanh nghiệp nước ngoài đã và đang liên doanh đầu  
tư  dưới mọi hình thức với các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện tốt hơn  
nữa trách nhiệm xã hội của mình.
SA 8000 do tổ chức Trách nhiệm xã hội quốc tế (Social Accountability 
International ­ SAI) công bố là tiêu chuẩn đưa ra các yêu cầu đối với các điều 
kiện làm việc mà một tổ chức phải cung cấp cho các nhân viên của mình. Tiêu 
chuẩn được xây dựng dựa trên các nguyên tắc chung về quyền con người. Các 
yêu cầu của tiêu chuẩn phù hợp với những qui định trong các công ước của Tổ 
chức lao động thế giới (ILO), Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và 
Tuyên bố chung về nhân quyền. 
Trước khi tiêu chuẩn SA 8000 ra đời, rất nhiều hãng lớn trên thế giới đã 
xây dựng các qui phạm đạo đức, một hình thức qui định nội bộ trong việc cung 
cấp các điều kiện làm việc cho nhân viên cũng như các cách thức đối xử với 
nhân viên. Hội đồng ưu đãi kinh tế ­ một viện nghiên cứu các vấn đề về trách 
nhiệm xã hội của công ty, một cơ quan trực thuộc SAI, đã nghiên cứu rất nhiều 
qui phạm đạo đức như vậy. Kết quả các cuộc nghiên cứu cho thấy, các qui 
phạm kiểu đó rất khác nhau, thiếu tính nhất quán, đặc biệt là khi so sánh với 
những qui định pháp luật sở tại và khó đánh giá vì không có chuẩn mực cụ thể. 


Về phía xã hội, người tiêu dùng ngày càng quan tâm hơn tới những yếu 
tố xã hội của sản phẩm như môi trường, lao động... Các nhà sản xuất gặp phải 
một sức ép xã hội trong vấn đề đối xử với người lao động. Nhu cầu chứng tỏ 
một nền sản xuất sạch, cả về góc độ môi trường và xã hội, lớn lên, đòi hỏi 
một sự thống nhất trong các nhà sản xuất, các nhà quản lý và giới chủ về các 
dạng qui định chung về trách nhiệm xã hội.

SA 8000 được xây dựng trên mô hình quản lý chất lượng theo ISO 9000 
phục vụ cho việc đánh giá theo tinh thần ISO: phát hiện và tiến hành các hành 
động khắc phục phòng ngừa, khuyến khích cải tiến thường xuyên, tập trung 
vào hệ thống quản lý, cung cấp các tài liệu làm bằng chứng cho hiệu lực của 
hệ thống quản lý đó. Ngoài ra SA 8000 bao gồm 3 yếu tố bắt buộc cho việc 
đánh giá về mặt xã hội:
∙ Bộ các tiêu chuẩn áp dụng trong các lĩnh vực đặc thù với các yêu cầu tối 
thiểu; 
∙ Các chuyên gia đánh giá phải tham khảo ý kiến của các bên quan tâm như các 
tổ chức phi chính phủ, nghiệp đoàn và người lao động; 
∙ Cơ chế phàn nàn và khiếu nại cho phép các cá nhân người lao động, các tổ 
chức và các bên quan tâm khác phản ánh các vấn đề không phù hợp tới tổ chức 
chứng nhận.  
2. Áp dụng ở Doanh nghiệp ( Công ty cổ phần may Sài Gòn 3)

     Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh tranh toàn cầu, trách 
nhiệm xã hội doanh nghiệp đang trở thành một trong những điều kiện ràng 
buộc đối với các hợp đồng xuất khẩu sang các nền kinh tế phát triển, buộc các 
doanh nghiệp xuất khẩu phải tuân thủ khi ký kết hợp đồng. Trách nhiệm xã hội 
doanh nghiệp thể hiện qua các yêu cầu về tuân thủ chế độ lao động tốt, an toàn 
vệ sinh thực phẩm, sản phẩm sạch và bảo vệ môi trường.
Theo TS Nguyễn Đình Cung ­ Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh 
tế TƯ, thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp không chỉ giúp doanh nghiệp 
giảm chi phí, tăng doanh thu, tăng giá trị thương hiệu, giảm tỷ lệ nhân viên thôi 
việc, cải thiện năng suất và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh 
đó, việc thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp cũng có thể tăng thu nhập, 
nâng cao chất lượng cuộc sống và sức khỏe cho người lao động và gia đình họ. 
     Hiểu được giá trị của việc thực hiện tốt trách nhiệm xã hội công ty cổ phần 
may Sài Gòn 3 đã chủ động đưa trách nhiệm xã hội doanh nghiệp vào trong 



chiến lược phát triển của mình. Doanh nghiệp cũng đã tham gia tích cực vào các 
hoạt động từ thiện. Việc ủng hộ nạn nhân bão lụt, thiên tai, đóng góp cho Quỹ 
Vì Người nghèo hay các đợt phát động ủng hộ từ thiện của Ủy ban Trung ương 
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều có sự ủng hộ tích cực và thực chất của doanh 
nghiệp. 
     Dù còn có nhiều đánh giá khác nhau về động cơ của việc đóng góp này và 
liệu có thể đồng nhất sự đóng góp với trách nhiệm xã hội hay không, nhưng 
những đóng góp tài chính của khu vực kinh tế tư nhân cho cộng đồng có thể 
xem là một nguồn lực đáng kể góp phần “đồng cam cộng khổ” với Nhà nước 
thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo trên cả nước.
   Vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cũng phải được đặt và giải 
quyết theo cùng một logic. Xã hội, tức là người tiêu dùng, đòi hỏi doanh 
nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ có chất lượng, an toàn và với giá cả hợp 
lý; về phần mình, doanh nghiệp xác định mục tiêu tối hậu là lợi nhuận. Đòi 
hỏi của xã hội sẽ được doanh nghiệp đáp ứng thoả đáng, nếu việc đó đồng 
thời cho phép doanh nghiệp giải được bài toán lợi nhuận.
      Chiến lược thực hiện dự  án trách nhiệm xã hội cần linh hoạt nhưng đảm  
bảo một nguyên tắc quan trọng là cân bằng lợi ích xã hội và doanh nghiệp. Các  
nhu cầu của cộng đồng như  phát triển giáo dục, tạo công ăn việc làm, bảo vệ 
môi trường ... phải song hành với các nhu cầu của doanh nghiệp như tạo động 
cơ  cho nhân viên, phát triển quan hệ đối tác, tạo danh tiếng và thương hiệu ...  
Ngoài ra, các yêu cầu về năng lực điều hành, tính minh bạch và sự tham gia của  
các bên liên quan cũng là những yêu cầu cho việc đảm bảo sự bền vững của dự 
án trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
    Hầu hết doanh nghiệp cho rằng họ sẵn sàng thực hiện các chương trình trách 
nhiệm xã hội nhưng làm thế nào cho có hiệu quả  lại là câu trả  lời đang bị  bỏ 
ngỏ. Như vậy, vấn đề mục đích là đã rõ ràng nhưng để tạo ra phương tiện tốt  
cần có những đơn vị  tiên phong thử  nghiệm để  xây dựng những mô hình khả 
dụng, hiệu quả và có thể nhân ra trên diện rộng đáp ứng nhu cầu của xã hội. Và  

công ty cổ phần may Sài Gòn 3 đang áp dụng các chỉ tiêu về trách nhiệm xã hội 
vào doanh nghiệp, góp phần thực hiện muc đích vì lợi ích chung cho người lao  
động, người sử dụng lao động, và Nhà nước ta.


III.

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN SA 8000 Ở CÔNG TY 
CỔ PHÀN MAY SÀI GÒN 3.
1. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY
a. Quy trình áp dụng

      Trong bối cảnh toàn cầu hoá, các doanh nghiệp luôn phải quan tâm đến môi 
trường xã hội trong công việc sản xuất kinh doanh của mình. Ngày nay xu 
hướng trên toàn thế giới là người ta ngày càng chú ý nhiều hơn tới những nhân 
tố khuyến khích doanh nghiệp đối xử có trách nhiệm, nhất là trách nhiệm trong 
cải thiện quan hệ xã hội, môi trường và đạo đức, văn hoá ở doanh nghiệp.

    Công ty cổ phần may Sài Gòn 3 là một trong những công ty sản xuất hàng 
may mặc hàng đầu Việt Nam, đặc biệt chuyên về nhiều chuẩn loại quần 
khác nhau, sản phẩm chủ yếu là hàng quần jeans, quần kaki với tổng sản 
lượng hơn 9 triệu chiếc mỗi năm. 
     Sài Gòn 3 đã phát triển và ổn định hơn 20 năm nhờ vào tinh thần đoàn kết 
của tập thể năng động và không ngừng học hỏi cùng 
với sự đầu tư công nghệ mới trong thiết kế và quản 
lý tổ chức sản xuất. Chính điều này đã giúp Sài Gòn 3 
trở thành một trong những đơn vị sản xuất hàng may 
mặc uy tín của cả nước.
Sự phát triển công nghệ và duy trì chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc 
tế luôn là nền tảng cho hoạt động của công ty vì Sài Gòn 3 luôn coi đó là sự 

thuận lợi cho những cơ hội phát triển và thành công hơn nữa.
Thông qua đội ngũ quản lý trong công ty và sự động viên nhân viên của mình, 
công ty đã có được cam kết chắc chắn cho chương trình phát triển nhằm tới 
sự gia tăng và cải thiện văn hóa doanh nghiệp, thúc đẩy thành nơi làm việc 
sáng tạo và hiệu quả, tạo ra một nơi làm việc với tinh thần đoàn kết của 2800 
công nhân viên với sự hỗ trợ của các đoàn thể nhằm đến mục tiêu chung của 
doanh nghiệp.
Doanh nghiệp duy trì các phong trào thi đua lao động sản xuất, phong trào phát 
huy ý kiến, phong trào bàn tay vàng, phong trào tiết kiệm,… thật sự đã phát 
huy và có hiệu quả giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn và phát triển. từ đó 


phong trào thi đua trở thành một hoạt động truyền thống lâu dài của công ty 
được tổ chức liên tục hàng năm dưới nhiều hình thức và nội dung phong phú.
Doanh nghiệp áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng :
­
­
­

­

ISO 9001: 2000
SA 8000
Hệ thống quản lý 5S, Kaizen Nhật Bản 
Factoty Improvement Program

“Tất cả cho chất lựợng sản phẩm vì sự phát triển bền vững của công ty.”
Chất lượng cao ổn định là một trong những điểm cơ bản của cả chu trình sản 
xuất từ khâu kiểm vải cho đến thành phẩm. Cam kết ổn định về chất lượng và 
điểm mạnh của mình, tham vọng để phát triển luôn là đặc trưng của tổ chức 

doanh nghiệp và hệ thống sản xuất của chúng tôi. Các lưu ý đặc biệt đã đưa ra 
cho phát triển và sản xuất nơi mà các hệ thống và thiết bị được bảo dưỡng 
điều đặn.
b. Phân tích thực trạng
Công ty Cổ phần may Sài Gòn 3­ cam kết sẽ đem lại lợi ích cho cộng 
đồng, các cổ đông và cán bộ công nhân viên của Công ty, đồng thời cũng cam 
kết cung cấp sản phẩm, dịch vụ thỏa mãn yêu cầu, mong đợi về chất lượng và 
tạo giá trị cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người.
<> Chính sách chất lượng cụ thể của công ty được xác định cụ thể 
như sau:
1. Công ty áp dụng HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và HTQL 
TNXH theo tiêu chuẩn SA 8000: 2000, đảm bảo chất lượng sản phẩm 
đáp ứng yêu cầu khách hàng. 
2. Hệ thống chất lượng ISO 9001:2000, HTQL TNXH SA 8000 của công ty 
được huấn luyện, được thấu hiểu và là trách nhiệm trong công việc của 
mỗi thành viên. 
3. Chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao, đảm bảo độ đồng 
đều và ổn định. 


4. Tất cả sản phẩm do công ty sản xuất trong môi trường làm việc phù hợp 

với các yêu cầu về trách nhiệm xã hội và điều kiện lao động của pháp 
luật nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và các Công Ước 
quốc tế.

CÔNG TY LÀM VIỆC VỚI:
Khách hàng Mang đến lợi ích cho khách hàng bằng sản phẩm và dịch vụ 
chất lượng cao.
Nhà Đầu Tư Mang đến lợi nhuận cho nhà đầu tư tin tưởng vào tri thức và 

tính chính trực của chúng tôi.
Nhân Viên Mang đến sự tự tin trong cuộc sống cho nhân viên thông qua sự 
đóng góp đầy ý nghĩa của họ.
Nhà Cung Cấp Mang đến sự hài lòng cho nhà cung cấp qua các giao dịch 
công bằng và minh bạch.
.
LÝ DO DOANH NGHIỆP LÀM VIỆC…
  ­    Duy trì lợi nhuận bền vữngcho nhà đầu tư cũng như nâng cao vị thế của 
Công ty. 
­     Trung thực trong môi trường kinh doanh.
­     Nơi làm việc cũng là trường học về tri thức và tính cách.
­     Cung cấp lợi ích cho khách hàng qua các sản phẩm và dịch vụ chất lượng 
cao.
­     Sứ mệnh này được xác định và được thấu hiểu trong tập thể.
 CÔNG­ NHÂN VIÊN LÀM VIỆC VỚI MỤC TIÊU:

Mang đến lợi ích cho khách hàng bằng sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao
Mang đến lợi nhuận cho nhà đầu tư tin tưởng vào tri thức và tính chính trực 
của chúng tôi.
Mang đến sự tự tin trong cuộc sống cho nhân viên thông qua sự đóng góp đầy 
ý nghĩa của họ.


Mang đến sự hài lòng cho nhà cung cấp qua các giao dịch công bằng và minh 
bạch.



ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG: 


        ­  Mục tiêu công ty hướng tới là mang lại lợi ích cho cộng đồng, ý 
thức sâu sắc về tầm quan trọng của bảo vệ môi trường và cộng đồng.
                  ­  Sài Gòn 3 đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn 
người lao động với chế độ đãi ngộ thỏa đáng. 

 ĐỐI VỚI NHÂN VIÊN:
Sài Gòn 3 là một doanh nghiệp uy tín trong lĩnh vực Dệt May. Với chứng 
nhận Hệ thống Quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và Hệ thống 
trách nhiệm xã hội theo SA 8000; công ty là một trong những công ty tạo được 
một môi trường làm việc tốt với tác phong công nghiệp. Tạo bầu không khí tâm 
lý ổn định,đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, sự quan tâm đến nhân viên một cách 
nhiệt tình của bộ phận lãnh đạo đối với nhân viên đó là một trong các yếu tố 
góp phần đến sự thành công của công ty.
Doanh nghiệp đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn 
người lao động với chế độ đãi ngộ thỏa đáng. 

 ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG:

Sài Gòn 3 hướng tới hình ảnh của một công ty thân thiện với môi trường. 
Công ty tôn trọng, thực hiện và cam kết kiểm soát nghiêm ngặt quy trình sản 
xuất để không vi phạm các tiêu chuẩn về môi trường. 
Cùng với quá trình phát triển sản xuất, Sài Gòn 3 vẫn tiếp tục thực hiện 
các biện pháp giảm thiểu tối đa những ảnh hưởng tác động xấu đến môi 
trường. Về lâu dài, công ty có kế hoạch di dời một số nhà máy đến các khu 
công nghiệp được quy hoạch cho ngành công nghiệp nhuộm, không ảnh hưởng 
đến khu vực dân cư xung quanh. Trước mắt, công liên tục đầu tư và ứng dụng 


các chương trình nâng cấp hệ thống xử lý nước thải và khói thải để đạt được 
sự ổn định và kết quả tốt hơn.

­ Kí hợp đồng.
­ Nâng cao chất lượng sản phẩm, uy tín Doanh nghiệp.
­ Cải thiện điều kiện làm việc của người lao động.
­ Thực hiện theo yêu cầu của đối tác : mua sản phẩm, đặt hàng gia 
công,…
Các nhà đầu tư nước ngoài (bên mua ) thường quan tâm tới những yếu tố 
cơ bản như kinh tế vĩ mô, quản trị đất nước và uy tín của doanh nghiệp họ trên 
những thị trường với những tiêu chuẩn cao. Từ đó thực hiện trách nhiệm xã hội 
của doanh nghiệp với động lực của thị trường trên cơ sở nâng cao tiêu chuẩn 
lao động có thể mang lại lợi ích kinh tế, sự cân bằng hài hoà giữa mục tiêu kinh 
tế và xã hội và như vậy sẽ nâng cao được thương hiệu của mình. Còn đối với 
các nhà cung cấp (bên bán ) lợi ích trong thực hiện trách nhiệm xã hội là duy trì 
được các hợp đồng hoặc thu hút thêm được các hợp đồng mới.
c. Các bước triển khai của SA8000:
­ Lãnh đạo cam kết. 
­ Đánh giá và lập kế hoạch. 
­ Thiết lập hệ thống trách nhiệm xã hội và tài liệu. 
­ Áp dụng hệ thống. 
­ Đánh giá, cải tiến. 
­ Chứng nhận.
d. Kinh phí thực hiện
DN, nhà máy để đạt được SA 8000 sẽ phải tốn thêm chi phí ( khoảng 
10.000USD và cứ 3 năm làm lại một lần). Nhưng chi phí này trước tiên phục vụ 
cho lợi ích của chính DN, nhà máy và nó cũng thể hiện trách nhiệm của họ đối 
với xã hội.


×