Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Kết cục thai kỳ của thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường nhiễm sắc thể trên siêu âm tại Bệnh viện Hùng Vương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.44 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017

Nghiên cứu Y học

KẾT CỤC THAI KỲ CỦA THAI PHỤ CÓ DẤU CHỈ ĐIỂM BẤT THƯỜNG
NHIỂM SẮC THỂ TRÊN SIÊU ÂM TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
Võ Kim Cát Tuyền*, Tô Mai Xuân Hồng*

TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể (NST) thai nhi ở thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường
NST trên siêu âm tại bệnh viện Hùng Vương trong năm 2015.
Phương pháp: Nghiên cứu báo cáo loạt ca được tiến hành trên toàn bộ thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường
NST trên siêm âm (soft-markers) khám tại bệnh viện Hùng Vương từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2015. Các thai
kỳ có dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm được tính toán nguy cơ và chọc ối nếu kết quả nguy cơ cao với
bất thường NST. Tất cả thai nhi có dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm đều được theo dõi đến lúc sanh để
đánh giá kết cục thai kỳ.
Kết quả: Tỷ lệ bất thường NST: 8,7%, trong đó hội chứng Down là dạng bất thường NST thường gặp nhất
với tỷ lệ 7,3%. Dấu chỉ điểm siêu âm thường gặp nhất là nang đám rối mạch mạc và nốt phản âm sáng ở tim, với
tỷ lệ lần lượt là 46,4% và 34,5%. Tỷ lệ có kết cuc thai kỳ không tốt (bao gồm sinh con DTBS, CDTK vì DTBS,
bất thường hình thái học, sẩy thai, thai lưu) là 9,5%.
Kết luận: Nên áp dụng thường quy siêu âm tìm dấu chỉ điểm bất thường NST ở các thai phụ thuộc nhóm
nguy cơ bất thường NST trung bình nhằm phát hiện sớm bất thường NST và tiên đoán kết cục thai kỳ không
mong muốn.
Từ khóa: aneuploidy, Down Syndrome, soft – marker, ultrasound.

ABSTRACT
FETAL OUTCOMES IN PREGNANCIES PRESENTED POSITIVE SOFT – MARKERS
IN ULTRASOUND AT HUNG VUONG HOSPITAL.
Vo Kim Cat Tuyen, To Mai Xuan Hong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 1 - 2017: 102 - 107
Objective: The study is aimed to identify the incidence of fetal aneuploidy and adversely outcomes in


pregnant women who were detected positive soft – markers following detailed ultrasound at
Hung Vuong hospital.
Methods: A case - studies was carried out from July 1st to November 30, 2015 at Hung Vuong hospital. All
pregnant women being intermediate risks were performed a detailed ultrasound at 16-20 weeks of gestation for
evaluating soft-markers. Amniocentesis was indicated in case of the recalculated risk being high for fetal
aneuploidies. All pregnant women were followed until the delivery.
Results: The incidence of fetal aneuploidy was 8.7%, and Down Syndrome was the most common
chromosomal abnormalities (7.3%). Choroid plexus and echogenic foci in fetal heart are two frequent soft-markers
detected in detailed ultrasound (46.4% and 34.5%, respectively). Pregnancies with adversely outcomes that
included childbirth with congenital defects, termination of pregnancy, morphological abnormalities, miscarriage,
stillbirth were found in 9.5% of cases.
Conclusions: It is necessary to implement routinely the detailed ultrasound for evaluating fetal soft - marker
* Bộ môn Sán, Đại học Y dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Võ Kim Cát Tuyền

102

ĐT: 0168.819.3223

Email:

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017

Nghiên cứu Y học

in pregnant women being intermediate risks in order to earlier detect fetal aneuloidies and predict the possibility of
fetal adversely outcome.

Key words: aneuploidy, Down Syndrome, soft – marker, ultrasound.
không nhỏ lên kết quả tiên đoán nguy cơ bất
ĐẶT VẤN ĐỀ
thường NST và đôi khi gây hoang mang cho thai
Hội chứng Down là một dạng bất thường
phụ và gia đình. Bên canh đó, hiện tại vẫn chưa
NST thường gặp nhất, xảy ra ở 0,1% đến 0,2% trẻ
có nghiên cứu hay báo cáo nào về giá trị của việc
sinh sống và thường gây ra những ảnh hưởng
đánh giá các dấu chỉ điểm bất thường NST trên
nặng nề không chỉ về mặt thể chất, tinh thần,
siêu âm trong chẩn đoán sớm các DTBS, đặc biệt
tâm lý cho bản thân trẻ, mà còn ảnh hưởng về
là trong hội chứng Down. Chính vì thế, chúng
chi phí cho gia đình và xã hội(4). Vì vậy, việc phát
tôi thực hiện nghiên cứu này với câu hỏi nghiên
hiện sớm các dị tật bẩm sinh (DTBS) thai nhi và
cứu “tỷ lệ thai bị bất thường NST ở các thai kỳ có
nhất là các DTBS do những bất thường NST là
dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm là bao
mục tiêu quan trọng hàng đầu của các đơn vị
nhiêu?” nhằm khẳng định vai trò của siêu âm
chăm sóc tiền sản.
đánh giá dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu
Trong số các phương tiện chẩn đoán tiền sản
âm ở các thai phụ có nguy cơ bất thường NST
đã và đang được áp dụng tại Việt Nam, siêu âm
trung bình.
hình thái học thai nhi là một công cụ tiên quyết
Mục tiêu nghiên cứu

và không thể thiếu được, vì đây là một phương
Mục tiêu chính
tiện chẩn đoán với các ưu điểm không xâm lấn,
có sẵn và có thể thực hiện nhiều lần. Khi thực
Xác định tỷ lệ thai bị bất thường NST ở các
hiện khảo sát hình thái học thai nhi qua siêu âm,
thai kỳ có dấu chỉ điểm bất thường NST trên
siêu âm tìm dấu chỉ điểm bất thường NST (soft –
siêu âm.
marker) như: nốt phản âm sáng ở tim, tăng phản
Mục tiêu phụ
âm ở ruột, nếp da gáy dày, xương đùi hay xương
Xác định tỷ lệ thai bị kết cuc không tốt:
cánh tay ngắn, dãn não thất, hay dãn bể thận,
sinh con DTBS, chấm dứt thai kỳ (CDTK) vì
nang đám rối mạch mạc, một động mạch rốn,
DTBS, bất thường hình thái học, sẩy thai, thai
bất sản xương mũi, thiểu sản đốt giữa ngón tay
lưu ở các thai kỳ có dấu chỉ điểm bất thường
thứ năm ở các thai kỳ nguy cơ cao được xem là
NST trên siêu âm.
rất có giá trị trong phát hiện sớm các bất thường
ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
NST, đặc biệt là dị tật Down(2,10,11).
Vai trò của việc đánh giá dấu chỉ điểm bất
thường NST trên siêu âm để chẩn đoán sớm các
bất thường NST đã được khẳng định tính lợi ích
qua nhiều nghiên cứu trên thế giới(2,1,11), và việc
áp dụng giá trị của từng dấu chỉ điểm bất
thường NST trên siêu âm lại thay đổi theo từng

chính sách chăm sóc tiền sản của mỗi quốc gia(3,6).
Tại Việt Nam, hiện nay có rất ít đơn vị tiền
sản ứng dụng giá trị của từng dấu chỉ điểm bất
thường NST trên siêu âm, và việc sử dụng tỉ số
khả dĩ (Likelihood: LR) của từng dấu chỉ điểm
bất thường NST trên siêu âm lại không đồng bộ
và không nhất quán. Điều này gây ảnh hưởng

Sản Phụ Khoa

Thiết kế nghiên cứu
Báo cáo loạt ca.

Dân số mục tiêu
Thai phụ ở tuổi thai 16 – 20 tuần có dấu chỉ
điểm bất thường NST trên siêu âm.

Dân số nghiên cứu
Tất cả những thai phụ ở tuổi thai 16 – 20 tuần
đến khám và theo dõi tại phòng di truyền có dấu
chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm tại Bệnh
Viện Hùng Vương.

103


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017

Nghiên cứu Y học
Dân số chọn mẫu


Tất cả những thai phụ ở tuổi thai 16 – 20 tuần
đến khám và theo dõi tại phòng di truyền có dấu
chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm tại Bệnh
Viện Hùng Vương từ tháng 07/2015 - 11/2015.

dấu trong quá trình theo dõi (thai phụ không
đến khám thai theo hẹn, không sinh tại bệnh
viện Hùng Vương và không liên lạc được).

Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu toàn bộ.

Tiêu chuẩn nhận bệnh

Cách tiến hành và thu thập số liệu

Thai phụ ở tuổi thai 16 – 20 tuần đến khám
thai tại bệnh viện Hùng Vương từ tháng 1 năm
2015 đến tháng 12 năm 2015 được siêu âm đánh
giá dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm từ
tuần 16 – 20 của thai kỳ và có bất kỳ dấu chỉ
điểm bất thường NST trên siêu âm nào.

Bước 1: Sàng lọc đối tượng
Những thai phụ đến khám thai tại bệnh viện
Hùng Vương, các thai phụ có kết quả sàng lọc
sinh hóa sau đây sẽ có chỉ định siêu âm tìm dấu
chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm:


Những dấu chỉ điểm bất thường trên siêu
âm gồm có(12):
1. Nốt phản âm sáng ở tim.
2. Tăng phản âm ở ruột (độ I- III).
3. Nếp da gáy dày (độ dày nếp da gáy
≥ 6mm).
4. Dấu dãn não thất (đường kính não thất
≥ 10mm).
5. Nang đám rối mạch mạc.
6. Dãn bể thận (đường kính bể thận ≥ 10mm,
một bên hoặc hai bên).
7. Một động mạch rốn.
8. Xương cánh tay ngắn (chiều dài xương
cánh tay 9. Xương đùi ngắn (chiều dài xương đùi
10. Thiểu sản – bất sản xương mũi (chiều dài
xương mũi 11. Thiểu sản đốt giữa ngón tay thứ 5.

Tiêu chuẩn loại trừ
Thai phụ mắc bệnh tâm thần.
Thai phụ không nghe và hiểu tiếng Việt.
không

đồng

ý

tham


gia

Thai phụ không trả lời đầy đủ câu hỏi trong
bảng phỏng vấn.
Không ghi nhận được kết cục thai kỳ do mất

104

Kết quả Tripple test nguy cơ trung bình là từ
1:250 đến 1:500.
Kết quả Double test nguy cơ trung bình là từ
1:250 đến 1:500.
Nhóm thai phụ này sẽ được chỉ định siêu âm
tại Phòng siêu âm hội chẩn (do bác sĩ có kinh
nghiệm siêu âm trên 5 năm thực hiện) tìm dấu
chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm trong thời
gian từ tuổi thai 16 – 20 tuần.

Bước 2: Thu nhận đối tượng
Các thai phụ có kết quả siêu âm có dấu chỉ
điểm bất thường NST sẽ được giải thích rõ
mục tiêu nghiên cứu và tiến hành phỏng vấn.
Nếu thai phụ không tham gia nghiên cứu thì
vẫn được khám thai và theo dõi như những
thai phụ khác.
Bước 3: Thu thập số liệu
Thu thập số liệu được tiến hành thông qua
bảng thu thập số liệu qua 2 phần:
Phần 1: phỏng vấn trực tiếp theo bảng câu

hỏi và sau đó tiến hành tư vấn về tình trạng thai
nhi cho thai phụ.

Thai phụ mang song thai.

Thai phụ
nghiên cứu.

Kết quả Combined test nguy cơ trung bình là
từ 1:250 đến 1:500.

Phần 2: ghi nhận các thông tin liên quan trên
kết quả siêu âm đánh giá dấu chỉ điểm bất
thường NST.

Bước 4: Theo dõi kết cục thai kỳ
Sau khi thai phụ có kết quả dấu chỉ điểm
bất thường NST trên siêu âm sẽ được tính lại

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
nguy cơ hiệu chỉnh. Việc tính lại nguy cơ hiệu
chỉnh dựa vào công thức sau:
Nguy cơ hiệu chỉnh = nguy cơ căn bản * Tỉ số
khả dĩ của dấu chỉ điểm bất thường NST trên
siêu âm TCN 1 * Tỉ số khả dĩ của dấu chỉ điểm
NST trên siêu âm TCN 2.
Tỉ số khả dĩ cùa các dấu hiệu bất thường NST

dựa trên bảng sau:
Bảng 1. Bảng tỉ số khả dĩ của các dấu chỉ điểm bất
thường NST trên siêu âm(12)
Dấu chỉ điểm bất thường NST
Nốt phản âm sáng ở tim
Dãn não thất
Nếp da gáy dày
Ruột tăng sáng
Nang đám rối mạch mạc
Dãn nhẹ bể thận
Xương đùi ngắn
Xương cánh tay ngắn
Một động mạch rốn
Bất sản – thiểu sản xương mũi
Thiểu sản đốt giữa ngón tay thứ 5

Tỉ số khả dĩ (LR)
2
3,8
17
6
7
1,9
2,7
7,5
1
51
5,6

Nếu sau khi tính nguy cơ hiệu chỉnh làm

thay đổi nguy cơ lệch bội từ trung bình hoặc
nguy cơ sang nguy cơ cao (>1:250), thai phụ sẽ
được tư vấn chọc ối. Nếu thai phụ đồng ý chọc
ối, thông tin về kết quả chọc ối và kết cục thai kỳ
sau đó sẽ được ghi nhận.
Các thai phụ có nguy cơ với bất thường NST
không thay đổi hoặc không đồng ý chọc ối, vẫn
được theo dõi cho đến lúc sanh và ghi nhận kết
cục thai kỳ.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Trong thời gian tiến hành nghiên cứu từ
ngày 01 tháng 07 năm 2015 đến ngày 30 tháng 11
năm 2015 tai bệnh viện Hùng Vương, có 84 thai
phụ đạt đủ tiêu chuẩn nhận vào nghiên cứu và
ghi nhận được các kết quả như sau.

Nghiên cứu Y học

siêu âm, tiền căn thai phụ… Độ tuổi 30 cũng là
độ tuổi sinh sản và dễ có thai nhất của người
phụ nữ, nên cũng rất hợp lý để đề ra vấn đề tầm
soát DTBS cho tất cả các thai phụ nhằm cho ra
đời một bé khỏe mạnh (Bảng 1).
Bảng 2. Các đặc điểm của dân số nghiên cứu
Đặc điểm
Tổng (N=84) Tỷ lệ (%)
<35 tuổi
59
70,2

Nhóm tuổi
≥ 35 tuổi
25
29,8
Công nhân
17
20,2
Nhân viên viên chức
22
26,2
Nghề nghiệp
Nội trợ
27
32,1
Khác
18
21,5
Tỉnh khác
50
59,5
Địa chỉ
TP HCM
34
40,5

Bảng 3. Đặc điểm tiền căn của dân số nghiên cứu
Đặc điểm
Số con hiện tại

Tiền căn

sẩy thai, thai lưu
Tiền căn sinh con
DTBS
Tiền căn
đái tháo đường
Tiền căn gia đình
trực hệ bị DTBS

Chưa con
1 con
≥ 2 con
Không
1 lần
≥ 2 lần
Không
1 lần
≥ 2 lần
Không

Không


Tổng (N=84) Tỷ lệ (%)
32
38,1
43
51,2
9
10,7
72

85,7
10
11,9
2
2,4
82
97,6
2
2,4
0
0
81
96,4
3
3,6
80
95,2
4
4,8

Đa số đối tượng trong nghiên cứu không có
tiền căn sẩy thai, thai lưu (chiếm 85,7%). Theo
kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ thai phụ
có tiền căn sinh con DTBS và tiền căn gia đình
trực hệ chiếm tỷ lệ thấp, với tỷ lệ lần lượt là 2,4%
và 4,8%. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu
của tác giả Lê Thị Mỹ Trinh, của tác giả Nguyễn
Vân Yến Nhi không có trường hợp nào có tiến
căn sinh con DTBS(7,8), có lẽ do tiêu chí chọn mẫu
khác nhau (Bảng 2).


Đặc điểm đối tượng nghiên cứu

Đặc điểm siêu âm tìm dấu chỉ điểm bất
thường NST

Phần lớn thai phụ tham gia nghiên cứu
thuộc nhóm dưới 35 tuổi. Tuy thai phụ thuộc
nhóm tuổi này ít có nguy cơ sinh bé dị tật Down,
nhưng nguy cơ DTBS còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác như xét nghiệm hóa sinh sàng lọc,

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự
của Nyberg và cs ở sự xuất hiện nốt phản âm
sáng ở tim, xem đây là dấu chỉ điểm bất thường
NST thường gặp thứ hai. Nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy nốt phản âm sáng ở tim có tỉ lệ là

Sản Phụ Khoa

105


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017

Nghiên cứu Y học

34,5%, cũng tương đồng với nhận xét của tác giả
Nyberg và cs(9).
Bảng 4. Tỷ lệ các dấu chỉ điểm bất thường NST trên

siêu âm
Dấu chỉ điểm bất thường NST
Nốt phản âm sáng ở tim
Tăng phản âm ở ruột
Nếp da gáy dày
Dãn não thất
Nang đám rối mạch mạc
Dãn bể thận
Một động mạch rốn
Xương đùi ngắn
Xương cánh tay ngắn
Thiểu sản – bất sản xương mũi
Thiểu sản đốt giữa ngón tay thứ 5

Tổng
(N=84)
29
10
2
6
39
2
3
1
1
10
7

Tỷ lệ
%)

34,5
11,9
2,4
7,1
46,4
2,4
3,6
1,2
1,2
11,9
8,3

Bảng 5. Kết cục thai kỳ chung cho các trường hợp có
dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm

Đánh giá trên ý nghĩa của sự xuất hiện dấu
chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm và nguy
cơ bị hội chứng Down như là một kết cục không
mong muốn của thai kỳ, chúng tôi nhận thấy 2
dấu hiệu sau đây là “dấu bất sản xương mũi” và
“dấu dãn não thất” làm tăng nguy cơ của DTBS
này lên lần lượt là 9,8 và 9,74 lần (OR= 9,8 (1,3869,71) và OR= 9,74 (1,04-91,50), p <0,05).
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, đa số
trường hợp chỉ có 1 dấu chỉ điểm bất thường
NST trên siêu âm (chiếm 71,4%). Kết quả của
chúng tôi tương đương với nghiên cứu của tác
giả Bromley và cs thực hiện trên 1272 trường
hợp siêu âm có dấu chỉ điểm bất thường NST
trên siêu âm cho thấy 95% trường hợp có 1 dấu
chỉ điểm bất thường NST, 4% trường hợp có 2

dấu chỉ điểm bất thường NST, và chỉ có 1% có
nhiều hơn 3 dấu chỉ điểm bất thường NST trên
siêu âm(5).

Kết cục thai kỳ
Sau khi hiệu chỉnh nguy cơ bất thường NST,
có 69 thai phụ trở thành nhóm nguy cơ cao và
được chỉ định chọc ối tìm bất thường NST. Kết
quả chọc ối ghi nhận 6 bất thường NST (gồm 5
trisomy 21 và 1 trisomy 18). Có 1 thai phụ không
đồng ý chấm dứt thai kỳ (CDTK), và phát hiện
vào chuyển dạ sinh non tại tuần thứ 34 của tuổi
thai. Còn lại 63 thai phụ không có bất thường

106

NST thì có 2 thai phụ có bất thường hình thái học
kèm theo gồm 1 trường hợp bất thường về tim
(tim một thất) và 1 trường hợp thai bị não úng
thủy, cả 2 trường hợp này cũng CDTK. 61 thai
phụ còn lại đều sinh con bình thường. Không có
thai phụ nào bị thai lưu hay sẩy thai.

Đặc điểm
Tổng (N=84) Tỷ lệ (%)
<28 tuần
7
8,3
28 – 36 tuần 6 ngày
4

4,8
Tuổi thai
37 tuần – 40 tuần
64
76,2
>40 tuần
9
10,7
Sinh con bình thường
76
90,5
Sinh con DTBS
1
1,2
Kết cục
CDTK vì DTBS
7
8,3
thai kỳ
Sẩy thai hay thai lưu
0
0
Cân nặng lúc sinh (gram)
2847,1 ± 857,0

Đối với 15 trường hợp không có chọc ối thì
tất cả các thai phụ đều được theo dõi và sinh con
bình thường, không có DTBS.
Với 76 trường hợp sinh con bình thường,
chiếm tỷ lệ 90,5% (Bảng 4), chúng tôi cho rằng (1)

việc thực hiện xét nghiệm xâm lấn như chọc ối
không quá nguy hiểm và không là yếu tố nguy
cơ sinh non (tỷ lệ sinh non trong nhóm đối
tượng này thấp chỉ chiếm khoảng 4,8%), và (2)
trong công tác tư vấn tiền sản, cần nhấn mạnh
việc siêu âm tìm dấu chỉ điểm bất thường NST
giúp gợi ý nguy cơ thai kỳ để đưa ra chiến lược
theo dõi phù hợp.
Theo nghiên cứu của tác giả Sylvie trên 19
thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường NST và
19 thai phụ không có dấu chỉ điểm bất thường
NST đã chỉ ra có sự khác nhau có ý nghĩa
thống kê giữa chỉ số trầm cảm giữa hai nhóm
trong khi mang thai và ảnh hưởng không tốt
đến sự gắn bó giữa thai phụ và trẻ sau sinh ở
nhóm thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường
NST(13). Do đó, khi tiếp cận một thai phụ có
dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm,
nhiệm vụ hàng đầu của bác sĩ sản khoa là cần
tư vấn cho các thai phụ rõ đây chỉ là dấu hiệu
gợi ý có bất thường NST, không có nghĩa là họ
sẽ sinh ra một bé sơ sinh có DTBS.

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Cân nặng trung bình của tất cả thai kỳ là
2847,1 ± 857,0 gram. Mức cân nặng trung bình
lúc sinh trong nghiên cứu của chúng tôi thấp

hơn trong nghiên cứu của tác giả Sylvie là
3483,95 ±376,3 gram(13). Sự khác biệt này có thể lý
giải là do nghiên cứu của tác giả Sylvie thực hiện
tại Brazil, các trẻ sơ sinh có tầm vóc cao lớn hơn
so với trẻ sơ sinh tại Việt Nam.

2.

3.

4.
5.

KẾT LUẬN
Trong thời gian 6 tháng thực hiện nghiên
cứu ở nhóm thai phụ có nguy cơ bất thường NST
trung bình và có dấu chỉ điểm bất thường NST
trên siêu âm, chúng tôi ghi nhận được:
Tỷ lệ bất thường NST: 8,7%, trong đó hội
chứng Down là dạng bất thường NST thường
gặp nhất với tỷ lệ 7,3%.
Tỷ lệ có kết cuộc thai kỳ không tốt (bao gồm
sinh con DTBS, CDTK vì DTBS, bất thường hình
thái học, sẩy thai, thai lưu) là 9,5%.
Từ kết quả đạt được, chúng tôi cho rằng
nên áp dụng thường quy việc siêu âm tìm dấu
chỉ điểm bất thường NST, đặc biệt đối với các
thai phụ có nguy cơ bất thường NST ở mức
trung bình, vì việc siêu âm này không chỉ giúp
phát hiện sớm các bất thường NST mà còn

giúp tiên đoán về khả năng của một thai kỳ
không khỏe mạnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Aagaard-Tillery KM, Malone F, Nyberg DA, et al (2009), “Role
of second-trimester genetic sonography after Down syndrome
screening”, Obstet Gynecol., 114 (6), pp.1189–1196

Sản Phụ Khoa

6.

7.

8.

9.

10.

11.
12.
13.

Nghiên cứu Y học

Agathokleous M, Chaveeva P, Poon LCY, Kosinski P, Nicolaid
es KH (2013), “Meta-analysis of second-trimester markers for

trisomy 21”, Ultrasound Obstet Gynecol., 41, pp. 247–261
Bethune M (2007), “Management options for echogenic
intracardiac focus and choroid plexus cysts: a review including
Australian Association of Obstetrical and Gynaecological
Ultrasonologists consensus statement”. Australas Radiol., 51(4),
pp. 324-329
Bộ môn phụ sản Đại học Y Dược TPHCM. “Trẻ dị tật bẩm
sinh”. Sản phụ khoa tập 2, NXB Y học, TPHCM, tr. 642-650.
Bromley B, Lieberman E, Shipp TD, Benacerraf BR. (2002), “The
genetic sonogram: a method of risk assessment for Down
syndrome in the second trimester”, J Ultrasound Med.;21, pp.
1087–1096
Chitayat, D., S. Langlois, and R.D. Wilson (2011), “Prenatal
screening for fetal aneuploidy in singleton pregnancies”, J
Obstet Gynaecol Can., 33(7), pp. 736-50
Lê Thị Mỹ Trinh (2014), “Kết cục thai kỳ có NT trên bách phân vị
95 tại bệnh viện Hùng Vương”, Luận văn tốt nghiệp nội trú, ĐH
Y dược TP. HCM, tr.16-18.
Nguyễn Vân Yến Nhi (2015), “Tỷ lệ từ chối sinh thiết gai
nhau/chọc ối ở các sản phụ có kết quả tầm soát trước sanh nguy cơ
cao”, Luận văn tốt nghiệp nội trú, ĐH Y dược TP. HCM, tr. 69
Nyberg DA, Souter VL, El-Bastawissi A, Young S, Luthhardt F,
Luthy DA (2001), “Isolated sonographic markers for detection
of fetal Down syndrome in the second trimester of pregnancy”,
J Ultrasound Med., 20, pp. 1053–1063
Raniga S, Desai PD, Parikh H. (2006), “Ultrasonographic soft
markers of aneuploidy in second trimester: are we lost?”,
Medscape Gen Med., 8, pp. 9
SOGC clinical practice guideline (2007), “Prenatal screening for
fetal aneuploidy”, J Obstet Gynecol Can., 29(2), pp. 146-161

SOGC clinical practice guideline (2013), “Fetal Soft Markers in
Obstetric Ultrasound”, 162, pp. 592 – 608
Viaux-Savelon S, Dommergues M, Rosenblum O, Bodeau N,
Aidane E, Philippon O, Mazet P, Vibert-Guigue C, VauthierBrouzes D, Feldman R, Cohen D (2012), “Prenatal Ultrasound
Screening: False positive soft markers may alter maternal
representations and mother-infant interaction”, 7(1), e30935

Ngày nhận bài báo:

18/11/2016

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

19/12/2016

Ngày bài báo được đăng:

01/03/2017

107



×