Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá kết quả điều trị bảo tồn gãy đầu dưới xương quay bằng nắn kín và cố định bằng bột tại Trung tâm Y tế thị xã Bến Cát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.21 KB, 6 trang )

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN GÃY ĐẦU DƯỚI XƯƠNG 
QUAY BẰNG NẮN KÍN VÀ CỐ ĐỊNH BẰNG BỘT
TẠI TRUNG TÂM Y TẾ THỊ XàBẾN CÁT  
                                                                 BS Phạm Văn Dũng

 CN Trần Thị Thùy Lam, BS Phạm Thị The
                  Trung tâm y tế Thị xã Bến Cát, Bình Dương
TÓM TẮT:
Đặt vấn đề: Gãy đầu dưới xương quay là loại gãy xương thường gặp nhất, chiếm 1/6 các  
gãy xương trong cấp cứu, điều trị đa số các gãy đầu dưới xương quay là nắn kín và cố định bằng  
bột do gãy xương thường gặp  ở người lớn tuổi .   Tuy   nhi ên   do   t ỷ   l ệ   tai nạn giao thông ngày 
càng tăng làm gia tăng số  người trẻ  bị  chấn thương do tốc độ  cao cho nên gãy đầu dưới xương  
quay ở người trẻ tăng lên và phức tạp hơn.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả lành xương bằng phương pháp điều trị bảo tồn nắn  
kín và cố định bằng băng bột.
Phương pháp nghiên cứu: Ti ế n c ứ u.
Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ nam (56,9%) nhiều hơn nữ (43,1%). Thường là độ  tuổi từ  16  
–45 (50,5%) . Nguyên nhân chính do tai nạn giao thông chiếm tỷ lệ cao ( 65,7%). Tay thường bị  
gãy là tay phải (64,3%). Đa số  trường hợp là kiểu gãy duỗi ngoài khớp (73,1%). Kết quả  phục  
hồi vận động cổ tay, sấp ngửa cẳng tay rất tốt chiếm tỷ lệ rất cao (79,9%). 
Kết luận:  Phương pháp điều trị  bảo tồn bằng nắn kín và cố  định bằng bột kết quả  của  
chúng tôi cho thấy nếu kéo tạ hết di lệch chồng ngắn, cố định đủ thời gian, tập vận động sớm, tái  
khám đúng hẹn thì kết quả lành xương với mức độ vận động khớp cổ tay và sấp ngửa cẳng tay sẽ  
được phục hồi rất tốt, tỷ lệ lành xương và phục hồi vận động cổ  tay rất tốt chiếm tỷ lệ khá cao  
79,9%.  Điều trị bảo tồn gãy đầu dưới xương quay bằng nắn kín và cố định bằng băng bột vẫn còn  
hữu hiệu,  chi phí thấp, áp dụng rộng rãi cho mọi tuyến y tế cơ sở.

ĐẶT VẤN ĐỀ:
  Gãy  đầu dưới  xương quay là loại gãy xương chi trên thường gặp nhất, chiếm 
khoảng 1/6 các gãy xương trong cấp cứu, điều trị  đa số  các gãy đầu dưới xương quay là  
nắn kín và cố định bằng băng bột do gãy xương thường gặp  ở người lớn tuổi. Tuy nhiên 


do tình hình  tốc độ  đô thị  hóa tại địa phương quá nhanh, cơ  sở  hạ  tầng giao thông chưa 
đáp ứng được với tốc độ phát triển của xã hội về  lĩnh vực giao thông và xây dựng vì vậy  
tỷ  lệ  tai nạn giao thông tăng cao làm gia tăng số  người trẻ  bị chấn thương do tốc độ  cao 
cho nên gãy đầu dưới xương quay ở người trẻ tăng lên và phức tạp hơn.
Do còn hạn chế về kỹ thuật, trang thiết bị và nhân sự nên có những loại gãy xương 
mà phương pháp điều trị  bảo tồn được  ưu tiên hàng đầu. Tuy nó chưa   hoàn toàn đưa  
người bệnh trở lại trạng thái chức năng vận động, sinh hoạt như ban đầu, nhưng ít nhiều 
cũng giúp người bệnh hòa nhập tốt với cộng đồng sau khi lành xương, đặc biệt là tiết  
kiệm được phần lớn về  tài chính cho bệnh nhân. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu 
này nhằm mục đích đánh giá kết quả lành xương bằng phương pháp điều trị bảo tồn nắn 
kín và cố định bằng bột .
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
1. Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu.
2. Đối tượng nghiên cứu:
­ 1 ­


 ­ Tiêu chuẩn chọn bệnh: Tất cả  những bệnh nhân  từ  16 tuổi trở  lên được chẩn 
đoán gãy đầu dưới xương quay   có chỉ  định điều trị  bảo tồn bằng nắn kín, cố  định bằng 
bột tại khoa Ngoại tổng hợp Trung tâm y tế Thị xã  Bến cát  từ  01/2016 đến 06/2019.
 ­ Tiêu chuẩn loại trừ: Gãy hở đầu dưới xương quay, Gãy đầu dưới xương quay có 
chèn ép thần kinh vùng cổ tay; Gãy xương cũ không lành xương, can lệch. 
3. Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu toàn bộ
4. Xử lý số liệu:  phần mềm Excel.
5. Phương pháp tiến hành:
Chuẩn bị  bệnh nhân và dụng cụ:  Giải thích cho bệnh nhân hiểu quá trình nắn 
xương và bó bột để bệnh nhân hợp tác, dụng cụ gồm: giàn khung nắn, thuốc tê, bột bó .
Kỹ thuật tiến hành: 
 ­  Gây tê ổ gãy từ 10 đến 20ml Novocain 2%.
 ­ Thứ tự nắn xương: Nắn di lệch chồng ngắn bằng cách kéo đoạn gãy xa dọc trục 

xương bởi rọ mây  ở  ngón 1 và ngón 2 kéo lên và treo tạ   ở  phần cánh tay kéo xuống ( hai  
lực kéo ngược chiều nhau)   Trọng lượng tạ  để  kéo hết di lệch chồng ngắn là: < 0,5cm 
14kg, 0,5­1cm 15kg, >1cm 16kg;  di lệch gập góc sẽ mất theo nhờ kéo xa đoạn gãy xa; nắn  
di lệch xoay bằng đặt cằng tay trung tính, theo Nguyễn Vĩnh Thống (2005) [9]; nắn di lệch  
sang bên bằng tay của thầy thuốc: trên phim thẳng thì nắn di lệch vào trong hay ra ngoài, 
trên phim nghiêng thì nắn di lệch ra trước hay ra sau; Kiểm tra lại các mốc xương: để biết  
nắn hết di lệch bằng kiểm tra vị trí các mốc xương về vị trí bình thường( mõm trâm quay  
thấp hơn mõm trâm trụ từ 1 ­ 1,5cm) .
 ­ Băng bột cánh bàn tay có rạch dọc bột.
6. Phương pháp đánh giá kết quả: 
 Đánh giá kết quả sau nắn xương bằng X­ Quang [4]
 ­ Ở phim thẳng: Mõm trâm quay nằm thấp hơn mõm trâm trụ từ  1 ­ 1,5cm. Đường 
thẳng nối 2 điểm mõm trâm tạo cùng đường thẳng nằm ngang một góc trị số bình thường  
khoảng  100 – 150   ( theo Russe).
­ Ở phim nghiêng: góc các xương cổ tay là góc tạo nên bởi các đường trục dọc của  
từng xương cổ tay một, cắt nhau từng đôi một hoặc cắt với trục dọc xương quay.
Đánh giá chức năng theo Gartland & Werley (1951) [11]
Biến dạng còn lại

Điểm

Lồi mấu trâm trụ

1

Lệch sau

2

Lệch ngoài


3

Cảm giác chủ quan của bệnh nhân
Rất tốt: không đau, không giới hạn vận động

0

Tốt: thỉnh thoảng đau, giới hạn ít

2

Trung bình: thỉnh thoảng đau, giới hạn vừa, yếu cổ tay

4

Xấu: đau thường xuyên, giới hạn vận động

6

­ 2 ­


Đánh giá khách quan
Mất nghiêng quay

1

Mất gập mặt lòng


1

Mất ngữa

2

Mất nghiêng trụ

3

Mất gập mặt lưng

5

Biến chứng
Thoái hóa khớp
Ít

1

Vừa

2

Ít kèm đau

3

Nặng


3

Vừa kèm đau

4

Nặng kèm đau

5

Chèn ép thần kinh giữa

1­3

Rất tốt: 0 – 2 điểm; Tốt: 3 – 8 điểm; Trung bình: 9 – 20 điểm; Xấu > 20 điểm 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN:
Theo số liệu thống kê của phòng bột  khoa Ngoại tổng hợp Trung tâm y tế thị xã Bến 
Cát, từ tháng 01/2016 đến tháng 06/2019 tổng cộng có 283 case gãy đầu dưới xương quay 
được điều trị bảo tồn bằng nắn kín và cố định bằng bột.
1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu: 
Bảng 1: Phân bố theo giới tính và độ tuổi.
Số lượng bệnh nhân 
N=283
161
122
143
76
64

Đặc điểm chung

Giới tính
Độ tuổi

Nam
Nữ
16 ­ 45
46 ­ 60
Trên 60

Tỷ lệ (%)
56,9
43,1
50,5
26,9
22,6

Nhận xét:  Có 161 bệnh nhân nam chiếm tỷ lệ 56,9%, nhiều hơn nữ, kết quả tương  
đồng với Nguyễn Hữu Phước (2018) trong 563 bệnh nhân có 316 bệnh nhân nam, chiếm tỷ 
lệ  56,13% [7]. Có sự  khác biệt với tác giả  Võ Văn Phúc (2013) trong 398 bệnh nhân cao 
tuổi, nữ chiếm 83,5% [6]. Nghiên cứu này khảo sát ở  tuổi từ 16 trở lên nên gãy đầu dưới 
xương quay gặp ở nam hơn nữ, có thể nam giới là người lao động chính trong gia đình nên 
thường xuyên đi làm việc, điều khiển xe máy thường chạy xe với tốc độ  cao hơn nữ giới  
nên xảy ra tai nạn nhiều hơn.
Đa số  thuộc nhóm tuổi 16 ­ 45, chiếm tỷ  lệ  50,5%; tiếp theo là nhóm tuổi 46­60  
chiếm 26,9%; có 22,6% thuộc nhóm tuổi Trên 60. Tuổi thường gặp có sự  tương đồng với 
tác giả  Nguyễn Hữu Phước (2018), nhóm tuổi 16­45 chiếm 53,28% [7], khác biệt với tác 
­ 3 ­


giả  Phạm Văn Vĩnh Lâm (2015) trong 45 bệnh nhân thì có 40 bệnh nhân trên 40 tuổi [3]. 

Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số rơi vào nhóm tuổi từ 16 ­ 45, có thể  vì đây là nhóm  
tuổi lao động, là trụ  cột trong gia đình phải làm việc đặc biệt là nghề  lao động chân tay,  
thường xuyên dùng xe gắn máy với tốc độ  cao nên dễ  bị  chấn thương do tai nạn giao  
thông.
2. Một số đặc điểm lâm sàng gãy đầu dưới xương quay:
  Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng
Đặc điểm lâm sàng

Nguyên nhân 
chấn thương

Tay gãy
Thời gian xử trí
Kiểu gãy đầu 
dưới xương 
quay

Tai nạn giao thông
Tai nạn sinh hoạt
Tai nạn lao động
Tai nạn thể dục thể 
thao
Tay phải
Tay trái
Dưới 12 giờ
Trên 12 giờ
Ngoài khớp kiểu duỗi
Ngoài khớp kiểu gập
Phạm khớp kiểu duỗi
Phạm khớp kiểu gập


Số lượng bệnh nhân  Tỷ lệ (%)
N=283
186
65,7
58
20,5
30
10,6
9

3,2

182
101
216
67
207
52
17
7

64,3
35,7
76,3
23,7
73,1
18,4
6
2,5


Nhận xét: Đa số  là do tai nạn giao thông chiếm tỷ  lệ  cao nhất 65,7%, tai nạn sinh  
hoạt 20,5%, thấp nhất là tai nạn thể  dục thể thao 3,2%. Kết quả này khác với tác giả  Lý  
Nhân và cộng sự  (2014) với nguyên nhân gãy đầu dưới xương quay do tai nạn sinh hoạt  
chiếm tỷ  lệ  cao nhất với 46,79% [5]. Từ đây có thể  thấy tỷ  lệ  tai nạn giao thông ở  Việt  
Nam còn cao do người dân sử dụng xe gắn máy là phương tiện giao thông chính, cơ sở hạ 
tầng giao thông và ý thức tham gia giao thông kém là các yếu tố dễ xãy ra tai nạn. 
 Gãy đầu dưới xương quay bên tay phải chiếm tỷ lệ 64,3% nhiều gần gấp 2 lần bên 
tay trái. Lý giải điều này có thể  tay phải là tay thuận, do đó khi bị  chấn thương, té ngã  
thường đập phần tay thuận xuống nên tay bên phải thường bị gãy hơn so với tay trái.
Phần lớn  bệnh nhân gãy đầu dưới xương quay đều đến sớm dưới 12 giờ chiếm tỷ 
lệ  76,3% cao gấp 3 lần bệnh nhân đến trên 12 giờ. Đến sớm dưới 12 giờ  sưng nề ít nên  
tạo điều kiện thuận lợi cho việc nắn xương gãy tốt, cho thấy bệnh nhân ý thức về  bệnh  
tật và quan tâm đến sức khỏe của mình ngày càng cao, hơn nữa hệ thống giao thông cũng 
thuận tiện nên việc đi lại được nhanh chóng, bên cạnh đó các cơ sở dịch vụ y tế ngày càng  
phát triển rộng khắp nên người dân sớm được tiếp cận và xử  trí y tế  ngay sau chấn  
thương.
Hầu hết là gãy đầu dưới xương quay ngoài khớp kiểu duỗi (73,1%), gãy ngoài khớp 
kiểu gập (18,4%), gãy phạm khớp kiểu duỗi (6%), ít nhất là gãy phạm khớp kiểu gập  
(2,5%). Nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với tác giả Lý Nhân (2014) trong 192 trường 
hợp gãy đầu dưới xương quay có 81,25% kiểu duỗi, 7,29% kiểu  gập, 6,77% gãy Barton 
[5] . Có thể đây là phản xạ tự nhiên của con người khi té chống tay thường là duỗi cổ ­ bàn  
tay.
3. Một số đặc điểm về điều trị bảo tồn gãy đầu dưới xương quay:
­ 4 ­


Bảng 3:  Đặc điểm về điều trị bảo tồn gãy đầu dưới xương quay:
Đặc điểm về điều trị bảo tồn gãy đầu dưới 
Số lượng bệnh 

xương quay
nhân N=283

Tỷ lệ 
(%)

Lần 1
Lần 2

237
46

83,7
16,3

Dưới 0,5 cm # 14kg
0,5 ­ 1cm # 15kg
Trên 1 cm # 16kg
04 tuần
05 tuần
06 tuần

156
102
25
52
174
57

55,1

36
8,9
18,4
61,5
20,1

Số lần nắn xương
 Di lệch chồng 
ngắn(cm) và trọng 
lượng tạ kéo(kg)
Thời gian cố định 
(tuần)

Nhận xét: Đa số các gãy xương được nắn vào ngay lần nắn đầu tiên (83,7%), nắn 
lần 2 (16,3%). Phần lớn bệnh nhân đến sớm sau gãy xương, sưng nề ít, người nắn xương  
phải nắm rõ cơ  chế  và giải phẫu cũng như  áp dụng đúng quy trình và thứ  tự  nắn xương 
như kéo hết di lệch chồng ngắn thì mới nắn các di lệch còn lại được và sự  phối hợp tốt  
của bệnh nhân nên đưa đến kết quả  nắn thành công ngay trong lần nắn đầu tiên, nếu kỹ 
thuật nắn chưa tốt, người nắn  không tuân thủ  đúng quy trình nắn xương và bệnh nhân  
không hợp tác thì phải nắn lại lần 2.
Với di lệch chồng ngắn  dưới 0,5cm chiếm tỷ lệ cao nhất (55,1%); 0,5­1cm (36%), ít  
nhất là di lệch chồng ngắn trên 1cm (8,8%). Qua bảng phân loại này ta thấy vùng đầu dưới  
xương quay có ít cơ co kéo nên khi gãy thường di lệch chồng ngắn ít. Tỷ lệ di lệch chồng  
ngắn trên 1cm chỉ chiếm 8,8% gặp khi té với lực va chạm rất mạnh thường gặp ở lứa tuổi  
16 ­ 45 tuổi.
Trọng lượng tạ 14 kg chiếm tỷ lệ 55,1% tương đương với di lệch chồng ngắn dưới 
0,5cm.
Trọng lượng tạ  15 kg chiếm tỷ  lệ  36% tương đương với di lệch chồng ngắn từ 
0,5cm ­ 1cm.
Trọng lượng tạ  16 kg chiếm tỷ  lệ  8,8% tương đương với di lệch chồng ngắn trên  

1cm.
Điều này khá phù hợp với di lệch chồng ngắn nhiều thì trọng lượng tạ kéo cũng phải  
nhiều hơn.
Thời gian cố  định 5 tuần chiếm tỷ  lệ  61,5%, tiếp đến là thời gian cố  định 6 tuần  
chiếm 20,1% và thời gian cố  định 4 tuần chiếm 18,4%. Kết quả  tương đồng với tác giả 
Nguyễn Hữu Phước(2018) thời gian cố  định 5 tuần chiếm 61,46% [7]. Trong bảng này  
cũng phản ánh phù hợp với thời gian lành xương  ở  vùng xương xốp của gãy đầu dưới  
xương quay.
Bảng 4: Mức độ vận động cổ tay khi lành xương.
Vận động cổ tay
Số lượng bệnh nhân N=283
Rất tốt
226
Tốt
27
Trung bình
20
Xấu
10

Tỷ lệ (%)
79,9
9,5
7
3,6

Nhận xét:  Chức năng vận động khớp cổ  tay, sấp ngửa cẳng tay và sự  than phiền,  
dựa trên bảng điểm Gartland và Werley [11],  có 79,9% đạt rất tốt, chiếm tỷ lệ cao nhất;  
vận động cổ tay tốt đạt tỷ lệ 9,5%; vận động trung bình đạt tỷ lệ 7%, và có 10 bệnh nhân  
mức độ  vận động khớp cổ  tay loại xấu (3,6%) phải chuyển mỗ  kết hợp xương. Trong  

­ 5 ­


nghiên cứu của chúng tôi lành xương rất tốt cao hơn so với kết quả  của Võ Văn Phúc 
(2013) lành xương rất tốt đạt 70,8%; tốt 20,8% và xấu 8,4% [6] . Nguyễn Hữu Phước 
(2018) với chức năng vận động cổ tay rất tốt là 80,11% [7].
KẾT  LUẬN:
Phương pháp điều trị  bảo tồn bằng nắn kín và cố  định bằng bột kết quả của chúng  
tôi cho thấy nếu kéo tạ hết di lệch chồng ngắn, cố định đủ  thời gian, tập vận động sớm, 
tái khám đúng hẹn thì kết quả lành xương với mức độ vận động khớp cổ tay và sấp ngửa  
cẳng tay sẽ được phục hồi rất tốt, tỷ lệ lành xương và phục hồi vận động cổ  tay rất tốt  
chiếm tỷ  lệ  khá cao 79,9%. Vì vậy  phương pháp điều trị  bảo tồn gãy đầu dưới xương  
quay bằng nắn kín và cố  định bằng băng bột vẫn còn hữu hiệu, phù hợp với quy luật tự 
nhiên, phù hợp với tâm lý người bệnh, chi phí thấp, có thể áp dụng rộng rãi cho mọi tuyến  
y tế cơ sở.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.  Nguyễn Phương Á, “Gãy đầu dưới xương quay”, Thực hành kỹ thuật bột  (2009), trang 91­112.
2.  Bùi Văn Đức, “Gãy đầu dưới xương quay”, Chấn thương chỉnh hình chi trên, Nhà xuất bản Lao động Xã 
hội (2003), trang 406 ­ 424.
3. Phạm Văn Vĩnh Lâm và Cộng sự, Kết quả bước đầu điều trị gãy đầu dưới xương quay, nắn bằng tay và 
băng bột cẳng bàn tay, Báo cáo Hội thảo khoa học kỹ thuật điều trị bảo tồn lần thứ XXI , Thành phố Hồ Chí 
Minh (2015).
4.  Nguyễn Quang Long, Triệu chứng học cơ quan vận động, Nhà xuất bản Y học Hà Nội  (2005), trang 25­
34 .
5.  Lý Nhân và Cộng sự, Điều trị bảo tồn gãy đầu dưới xương quay kiểu duỗi tại Bệnh viện Vĩnh Long, báo 
cáo Hội thảo khoa học kỹ thuật điều trị bảo tồn lần thứ XX, Thành phố Hồ Chí Minh (2014).
6.  Võ Văn Phúc và Cộng sự, Đánh giá kết quả điều trị bảo tồn gãy đầu dưới xương quay tại Khoa ngoại 
Bệnh viện đa khoa Ba Tri, Báo cáo Hội thảo khoa học điều trị bảo tồn cơ xương khớp lần thứ XIX, Bến Tre 
(2013).
7. Nguyễn Hữu Phước và Cộng sự, Đánh giá kết quả điều trị bảo tồn gãy đầu dưới xương quay, Báo cáo 

Hội nghị điều trị bảo tồn Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình Thành phố Hồ Chí Minh (2018)
8.  Nguyễn Văn Quang, Điều trị bảo tồn gãy đầu dưới xương quay, Sinh hoạt học tập lần thứ VIII kỹ thuật 
bột, Thành phố Hồ Chí Minh (2002), trang 66­74.
9.  Nguyễn Vĩnh Thống,  Gãy xương vùng cổ tay, Bài giảng bệnh học chấn thương chỉnh hình và phục hồi 
chức năng, Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (2005).
10.  Cohen MS, Mc Murtry RY, Jupiter JB, “Fractures of the distal radius”, Skeletal Trauma  (1998), Volum 2, 
pp. 1383 ­ 1417.
11. Gartland JJ, Werley CW:“Evaluation of healed Colles fractures J.Bone Joint Surg 33A ” (1951), page 895­
907.

­ 6 ­



×