LỜI CAM KẾT
Tôi xin cam kết toàn bộ nội dung của đề tài là kết quả nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả, số liệu trong đề tài là trung thực và hoàn toàn khách
quan.Tôi sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm với lời cam kết của mình.
Người cam kết
1
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường được sự quan tâm và giúp đỡ
của Thầy(cô), trường Đại học Nội vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam và
dưới sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Thanh Tuấn tôi đã tiến hành đề tài:
“Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả việc sử dụng Internet của sinh
viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam”.Đến đây tôi
đã hoàn thành đề tài. Để hoàn thành đề tài này ngoài nổ lực của bản thân tôi
đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của nhiều cá nhân, tập
thể đã giúp đỡ tôi trong thời gian học tập vừa qua. Đặc biệt, tôi xin gửi lời
cảm ơn chân thành đến giảng viên Th.s Nguyễn Thanh Tuấn là người đã trực
tiếp giảng dạy, hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này. Để
thực hiện đề tài này một cách hoàn chỉnh nhất, măc dù đã rất cố gắng, song
trong những ngày đầu làm quen, tiếp cận và học hỏi để nghiên cứu khoa học
sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót về mặt kiến thức cũng như kinh
nghiệm mà tôi chưa nhận thấy được. Chính vì điều đó tôi rất mong được sự
chỉ đạo đóng góp ý kiến từ các thầy, cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
2
MỤC LỤC
LỜI CAM KẾT................................................................................................... 1
LỜI CẢM ƠN..................................................................................................... 2
MỤC LỤC ...........................................................................................................3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT............................................................................ 6
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài ..............................................................................7
2.
Lịch sử nghiên cứu ...........................................................................8
3.
Mục tiêu nghiên cứu .........................................................................8
4.
Câu hỏi nghiên cứu ...........................................................................8
5.
Giả thuyết nghiên cứu..................................................................... 9
6.
Phương pháp nghiên cứu................................................................. 9
7.
Bố cục đề tài .....................................................................................9
NỘI DUNG
Chương1
3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET CỦA SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI TẠI MIỀN TRUNG
1.1.
Khái niệm......................................................................................... 10
1.1.1.Khái niệm Internet .........................................................................10
1.1.2.Khái niệm nghiện Internet ...........................................................10
1.2.
Tổng quan tình hình nghiên cứu ...................................................10
Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG INTERNET CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI PHÂN HIỆU TẠI QUẢNG NAM
2.1.
Thực trạng sử dụng Internet của giới trẻ ở Việt Nam............ 12
2.2. Tình hình truy cập Internet của sinh viên trường Đại học Nội Vụ
Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam......................................................... 15
2.2.1. Thời lượng, thời điểm truy cập Internet.................................. 15
2.2.1.1.Thời lượng online trung bình mỗi ngày ...................................15
2.2.1.2. Thời điểm ................................................................................16
2.2.2. Mục đích sử dụng....................................................................... 17
2.3. Mức độ chi phối của Internet đối với công việc học tập của sinh
viên…………………………………………………………………………18
4
2.4. Sự tác động của môi trường sống lên hành vi truy cập mạng.... 19
2.5. Sự tự nhận thức của sinh viên về hành vi sử dụng Internet của bản
thân ........................................................................................................... 20
2.6. Hiện tượng nghiện Internet............................................................. 22
2.6.1. Biểu hiện..................................................................................... 23
2.6.2.Tác hại ...........................................................................................24
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC SỬ DỤNG INERNET CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI PHÂN HIỆU TẢI
QUẢNG NAM
KẾT LUẬN ........................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................ 28
PHỤ LỤC.......................................................................................................... 29
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tên viết tắt
Xin đọc là
TS
Tiến sĩ
Th.S
Thạc sĩ
KTX
Kí túc xá
5
Trung học cơ sở
THCS
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, người ta chứng kiến những bước thay đổi
mạnh mẽ chưa từng thấy của các phương tiện thông tin đại chúng, một trong
những dịch vụ hàng đầu hiện nay là sự xuất hiện của Internet. Nó là một
phương tiện không thể thiếu của nhân loại, một dịch vụ “nhanh, gọn, tiện
ích”, không những thế, Internet đã và đang thâm nhập vào hầu như mọi lĩnh
vực từ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và mọi hoạt động sống của con
người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Internet là một hệ thống thông tin toàn
cầu có thể được truy cập công cộng gồm các mạng máy tính được liên kết
với nhau.
Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống mạng Internet đã góp phần đưa Việt
Nam tiến nhanh vào con đường hội nhập và giúp cho mọi người dân Việt trở
thành những “Công dân quốc tế” bình đẳng trên mạng. Đối với sinh viên Đại
học Nội Vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam trong bối cảnh của nền kinh tế
xã hội phát triển như hiện nay, với môi trường học tập, giải trí phong phú và
đa dạng.Sự ra đời của của Internet đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống
6
tinh thần cũng như đời sống học tập của họ trong môi trường sống luôn năng
động và bận rộn này. Do đó, nhu cầu sử dụng Internet của sinh viên trường
Đại học Nội Vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam nói riêng và sinh viên toàn
quốc nói chung đang có xu hướng ngày càng cao và không ngừng phát triển.
Sự ra đời của Internet đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh
thần cũng như đời sống học tập của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà
Nội phân hiệu tại Quảng Nam trong môi trường sống luôn năng động và bận
rộn hiện nay. Tuy nhiên, việc đáp ứng nhu cầu này ngoài những mặt tích cực,
Internet còn mang đến rất nhiều tác động tiêu cực làm ảnh hưởng đến việc
học tập và cuộc sống của họ.
Chính vì những lí do trên, tôi đã chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp
nâng cao hiệu quả việc sử dụng Internet của sinh viên Trường Đại học Nội
vụ phân hiệu tại Quảng Nam” với mong muốn tìm hiểu và có cái nhìn khách
quan về việc sử dụng Internet của sinh viên.
2.
Lịch sử nghiên cứu
Liên quan đến vấn đề này, chúng ta tìm ra một số tác giả để nghiên cứu
liên quan đến đề tài. Cụ thể là Th.S Dương Hiền Hạnh ( Đại học Bình
Dương) “ Tìm hiểu nhu cầu sử dụng Internet của sinh viên hiện nay” (2010).
Đề tài này đã chỉ ra quá trình hình thành và phát triển, đưa ra các số, số liệu
thống kê, qua đó cho thấy nhu cầu của việc sử dụng Internet trong học tập.
Tiếp theo là đề tài của Trần Phương Thùy “ Hành vi sử dụng Internet của sinh
viên Hà Nội” (2012). Đề tài này đã tìm hiểu rõ hơn về thái độ, nhu cầu sử
7
sụng của sinh viên Hà Nội nhưng qua đó cũng có những hạn chế cơ bản là
không thấy được tầm quan trọng của Internet, không áp dụng vào học tập.
3.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tình trạng sử sụng và nghiện Internet của sinh viên Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam
Tìm ra những điểm mạnh cần phát huy trong việc sử dụng Internet áp
dụng vào học tập
Đề xuất những biện pháp nâng cao chất lượng sử dụng Internet một
cách hiệu quả
4.
Câu hỏi nghiên cứu
Tại sao sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng
nam có nhu cầu sử dụng Internet
Tại sao cần phải đưa ra những biện pháp nâng cao việc sử dụng
Internet một cách hiệu quả
Làm thế nào để sinh viên biết tầm quan trọng của Internet và áp dụng
nó có hiệu quả
5.
Giả thuyết nghiên cứu
Số lượng sinh viên sử dụng Internet nhiều mà không đem lại hiệu quả
học tập cao
Đưa ra những biện pháp nâng cao nhầm để hoàn thiện quy mô, cung
cấp nhiều trí thức sử dụng Internet
8
Đưa ra những ý kiến của sinh viên, đề xuất biện pháp khuyến khích tạo
điều kiện tốt nhất để sinh viên tới thư viên nhiều hơn.
6.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chung: nghiên cứu tư liệu, tài liệu có sẵn từ đa dạng các
nguồn. Sử dụng bảng hỏi để điều tra khách quan các vấn đề đã đặt ra.
Phương pháp cụ thể: Tổng hợp, phân tích tài liệu đã được chọn lọc,
điều tra bằng bảng hỏi và tiến hành thống kê, phân tích các dữ liệu thu thập
được.
7.
Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận thực tiễn về thực trạng sử dụng Internet của sinh
viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam
Chương 2. Thực trạng sử dụng Internet của sinh viên trường Đại học Nội Vụ
Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam và kết quả nghiên cứu thực tiễn
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả việc sử dụng Internet của sinh viên
trường Đại học Nội Vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam
9
NỘI DUNG
Chương1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET CỦA SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI TẠI MIỀN TRUNG
1.1.
Khái niệm
1.1.1.Khái niệm Internet
Internet là “một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công
cộng, gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền
thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một
giao thức liên mạng đã được chuyển hóa ( giao thức IP). Hệ thống này bao
gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn các doanh nghiệp, của các viện
nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân và các chính phủ
trên toàn cầu” [7].
1.1.2.Khái niệm nghiện Internet
Theo TS. Kimberly Young, nghiện Internet được định nghĩa là “hành vi
sử dụng Internet quá mức, đến mức độ khó có thể kiểm soát được. Nó ảnh
hưởng đến cuộc sống hằng ngày, người thân, gia đình, bạn bè và môi trường
làm việc của người nghiện mà trong đó, Internet trở thành mối ưu tiên hàng
đầu. Nghiện internet cũng có thể được hiểu giống như nghiện ma túy, nghiện
rượu, hay nghiện cờ bạc những mối quan hệ chiếm ưu thế hơn trong các
khía cạnh đời sống người dùng” [4,tr218].
10
1.2.
Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hiện nay, ở Việt Nam cũng có nhiều bài nghiên cứu, báo cáo liên quan
tới thực trạng sử dụng Internet ở người dùng Internet.Trong báo cáo tổng kết
về “Thực trạng sử dụng Internet trong giảng dạy, học tập của sinh viên” đã
nêu rõ những đánh giá của sinh viên và giáo viên về tầm quan trọng và mức độ
sử dụng Internet của sinh viên tại các trường đại học. Đa số các sinh viên đều
có nhu cầu sử dụng Internet rất nhiều và đa dạng trên nhiều lĩnh vực. Phần
lớn là do chưa biết cách sử dụng Internet như một công cụ học tập hiệu quả
và dành nhiều thời gian để giải trí thay vì học tập. Dựa trên việc đánh giá về
những thuận lợi và khó khăn trong việc sử dụng Internet trong dạy và học của
sinh viên và giáo viên, tác giả đưa ra nguyện vọng và phương hướng cụ thể
để cải tiến việc sử dụng Internet một cách hiệu quả cho cả giáo viên và sinh
viên.
Trong kết quả cuộc điều tra “Tìm hiểu ảnh hưởng của Internet đối với
học sinh, sinh viên Việt Nam hiện nay trên 647 học sinh do Viện Văn hóa
Nghệ thuật Việt Nam tổ chức cho thấy nhiều điều bất ngờ. Phần trăm sử
dụng Internet để gửi và nhận thư điện tử là 87,8%, tán gẫu là 80,7%. Số
người sử dụng internet để tìm những thông tin liên quan đến công việc chỉ
chiếm 1,4%” [3,tr146].
Các bài viết, báo cáo trên đề cập chủ yếu về mục đích sử dụng Internet
của người dùng Internet. Tuy nhiên, với đề tài nghiên cứu thực trạng sử dụng
Internet, các nghiên cứu trên chỉ dừng ở việc nêu lên mục đích sử dụng
Internet, chứ chưa nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về các khía cạnh khác như:
11
Thời gian sử dụng Internet cũng như mức độ nghiện Internet của người dùng,
hay làm rõ vấn đề như thế nào là sử dụng Internet hiệu quả. Vì vậy, đề tài
này được tôi chọn thực hiện nhằm tìm hiểu sâu các vấn đề trên, làm cơ sở cho
các nghiên cứu liên quan sau này.
Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG INTERNET CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI PHÂN HIỆU TẠI QUẢNG NAM
2.1.
Thực trạng sử dụng Internet của giới trẻ ở Việt Nam
Theo số liệu năm 2012 của trung tâm Internet Việt Nam, ngày 19/11/1997
là dấu mốc đáng nhớ của Internet Việt Nam khi được chính thức kết nối với
mạng toàn cầu. Một thực tế được công bố phát hành: “ Tính đến năm 2013,
nước ta có hơn 33 triệu người dùng Internet, tăng từ 31 triệu năm 2012, chiếm
37 % tổng dân số. Việt Nam đứng thứ 3 Đông Nam Á, thứ 7 châu Á và thứ 18
toàn cầu về sốngười dùng Internet” [1,tr205]. Trong một bài báo cáo: “Bộ
Thông tin và Truyền thông đã ước tính để đạt mục tiêu khoảng ½ số dân Việt
Nam sử dụng Internet trong giai đoạn 2011 2015 cần có thêm 20 triệu người
sử dụng Internet” [2,tr107]. Đó là những thực tế về Internet đang diễn ra ở
Việt Nam.Tuy nhiên, dựa trên những kết quả được khảo sát, ta thấy người
Việt dùng Internet mỗi ngày chủ yếu phục vụ cho mục đích giải trí.
12
Mặt khác, Internet là một trong những phương tiện tiếp nhận thông tin
phổ biến nhất ở Việt Nam, vượt qua báo, tạp chí và radio để trở thành
phương tiện tiếp cận thông tin phổ biến đứng thứ 2, chỉ sau Tivi (theo kết quả
nghiên cứu về thị trường Internet Việt Nam năm 2011).
Những con số cũng như những dẫn chứng trên đã phần nào khái quát
hóa, mang lại bức tranh toàn cảnh về thực trạng sử dụng Internet của người
dân Việt Nam.Và người trẻ lại là những người thích trào lưu Internet
nhất.Vậy thực trạng sử dụng Internet của thanh, thiếu niên Việt Nam như thế
nào?
Theo chungta.com, người trẻ dùng Internet một cách tự phát, thiếu định
hướng. Đa số chúng ta tự tìm hiểu chẳng được ai hướng dẫn.Chúng ta thường
quan tâm tới vai trò thiết yếu của Internet, tầm quan trọng của việc sử dụng
Internet để hội nhập và phát triển.Tuy nhiên, khi được hỏi “Bạn học cách
dùng Internet như thế nào?” có lẽ câu trả lời nhiều nhất vẫn là tự mày mò, bắt
chước người khác. Chúng ta rất tin tưởng vào khả năng tự tìm tòi công nghệ
thông tin của mình, luôn châm ngôn “cái gì không biết thì tra Google”. Ở lứa
tuổi THCS, các em bắt đầu đua nhau tìm hiểu công nghệ mới nhưng trường
lớp không có chương trình giảng dạy cho các em những thứ đó. Nước ta hầu
như chưa có những kế hoạch đào tạo, định hướng sử dụng máy tính và
Internet một cách cơ bản và rộng rãi cho học sinh sinh viên, chỉ trừ các ngành
đào tạo chuyên sâu về mạng máy tính trong các trường đại học kĩ thuật.
Nhờ đa dạng phương tiện truy cập Internet từ chiếc máy tính bàn ở nhà,
máy tính cá nhân, máy tính công ty, điện thoại thông minh… mà chỉ cần có kết
13
nối mạng, việc sử dụng Internet trở nên thật dễ dàng.Việc sẵn có của Internet
đã phần nào giúp cho thanh niên chủ động hơn, làm cho tần suất sử dụng
Internet của họ ngày càng tăng cao. Chúng ta dễ bắt gặp hình ảnh những thanh
niên ngồi thưởng thức ly cà phê nhưng mắt ko vẫn không rời khỏi màn hình
điện thoại vì đoạn video đang xem dở hay chàng sinh viên đang lướt trang
mạng xã hội trao đổi bài học với bạn của mình. Trong thời đại công nghệ
đang phát triển như hiện nay, những hình ảnh đó đã trở nên rất quen thuộc với
mỗi chúng ta.
Từ những năm 20102011, Facebook bắt đầu có mặt tại Việt Nam và chỉ
sau 5 năm xuất hiện nó đã phủ sóng khắp mọi nơi trên đất nước ta.Nó luôn là
trang mạng có số người sử dụng nhiều nhất. Sau đó là Zingme – một trang
mạng xã hội nhưng có kèm các tiện ích khác như nghe nhạc, đọc báo, chia sẻ
tin tức, video… cũng là sự lựa chọn khá phổ biến của giới trẻ hiện nay. Khi
mới bắt đầu sử dụng mạng xã hội, thanh niên thường dùng vào mục đích giao
lưu, kết bạn và trò chuyện sau đó là chia sẻ cảm xúc, cá tính và khẳng định
bản thân. Không những thế, đối với sinh viên thì mạng xã hội còn một
phương tiện hỗ trợ trong việc học tập, giao tiếp và tìm kiếm cơ hội nghề
nghiệp… để những người có cùng sở thích, quan tâm có thể gặp gỡ và trao
đổi với nhau từ đó tiến tới sinh hoạt offline và hình thành nhiều nhóm cộng
đồng có tính chất tích cực để tổ chức các hoạt động nhân đạo, từ thiện; trao
đổi tranh luận về những vấn đề khác nhau hay nâng cao nhận thức của mọi
người như tuyên truyền về Biển – Đảo Việt Nam…
14
Vào những ngày bình thường, thanh niên dành khá nhiều thời gian để
truy cập Internet (khoảng từ 4h tới 5h mỗi ngày).Đối với sinh viên thì thời
gian truy cập Internet còn cao hơn nữa với tỉ lệ tăng dần từ nông thôn, ngoại ô
đến trung tâm thành phố. Trong đó nhìn chung thì sinh viên và thanh niên đi
làm thường sử dụng Internet nhiều nhất để cập nhật thông tin phục vụ cho
học tập và công việc rồi mới đến giải trí trong đó nhóm học sinh thì thường
ngược lại. Trong hội thảo “Nghiện Internet: Những thách thức mới của xã hội
hiện đại”, Th.S Trần Minh Trí cho biết có hơn 75% sinh viên truy cập Internet
hằng ngày và sinh viên càng về năm cuối thì mức độ truy cập càng nhiều. Tuy
nhiên, mặc dù 99% sinh viên cho rằng Internet là cần thiết, họ cũng thừa nhận
Internet có nhiều tác động tiêu cực đến đời sống của họ. Đáng chú ý nhất là
theo kết quả nghiên cứu của ông thì sinh viên truy cập Internet càng nhiều thì
kết quả học tập càng kém. Cụ thể là sinh viên sinh viên có học lực giỏi truy
cập Internet bình quân 17,6 giờ/tuần trong khi đó sinh viên học yếu, kém có số
giờ truy cập Internet bình quân đến 31,9 giờ/tuần.Đó là một số thực tế mà tôi
đã tìm hiểu được về thực trạng sử dụng Internet của thanh niên Việt Nam
hiện nay. Từ đó, có cái nhìn khách quan hơn trong việc đưa ra các giả thiết
cho việc thực hiện khảo sát nghiên cứu.
2.2. Tình hình truy cập Internet của sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà
Nội phân hiệu tại Quảng Nam
2.2.1. Thời lượng, thời điểm truy cập Internet
Các câu hỏi liên quan về thời điểm, thời lượng, mục đích và các website
thường xuyên truy cập đã được thiết kế trong bảng khảo sát của tôi nhằm làm
15
cơ sở đánh giá về mức độ hiệu quả trong việc sử dụng Internet củasinh viên.
Từ những thông tin thu thập được sau khi tiến hành khảo sát trên 110 sinh viên
về cơ bản đã làm rõ vấn đề được đặt ra.
2.2.1.1.Thời lượng online trung bình mỗi ngày
Có đến 56 sinh viên trong tổng số 110 sinh viên tham gia khảo sát có thời
gian online trung bình mỗi ngày từ 3 giờ trở lên, chiếm 50,9% và hơn 50%
trong số này có thời gian onlinevượt quá 4 giờ mỗi ngày. Trong khi đó, thời
gian online trung bình dưới 1 giờ mỗi ngày chỉ chiếm 7,3%. Từ các số liệu trên
có thể thấy việc sử dụng Internet rất phổ biến trong sinh viên trường Đại học
Nội Vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam. Tuy nhiên, thời lượng online từ
tương đối nhiều đến nhiều như trên chỉ phản ánh sinh viên có nhu cầu cao
trong việc sử dụng Internet nhưng chưa thể đưa ra kết luận nào về tính hiệu
quả của nó.
Vì vậy , bài nghiên cứu này cũng đi sâu tìm hiểu các yếu tố khác về thời
điểm, mục đích, nội dung các wedsite hay truy cập để có được những đánh giá
mang tính bao quát, khách quan và chính xác nhất có thể về mức độ sử dụng
Internet hiệu quả.
2.2.1.2. Thời điểm
Khi được khảo sát “Bạn thường online vào những thời điểm nào trong
ngày?”, hầu hết sinh viên đều chọn khung giờ buổi tối(83.6%), cụ thể là từ
20h đến 23h; buổi khuya(39.1%) và buổi sáng(27%). Dựa trên kết quả khảo
sát để lý giải cho điều này, tôi biết được rằng buổi tối là khoảng thời gian
16
nghỉ ngơi sau một ngày học tập mệt mỏi, sinh viên thường Online Facebook,
nghe nhạc…để giải trí, nắm bắt tin tức mới, hoặc tự học.
Tuy nhiên, tôi cũng đặt ra vấn đề là: Liệu việc online vào buổi tối như
vậy có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống sinh hoạt và học tập của sinh viên
không? Vì thế, cùng với việc khảo sát thời điểm online, tôi đã kèm theo câu
hỏi về thời điểm học lý tưởng trong ngày. Thời điểm học lý tưởng là thời
điểm được cho là chúng ta dễ tiếp thu bài nhất, tư duy tốt nhất, việc học tại
thời điểm này mang lại hiệu quả cao và tiết kiệm thời gian cũng như tạo sự
hứng thú khi học. Kết quả là khung giờ học lý tưởng của sinh viên là từ 20h
23h vào buổi tối và từ 8h10h vào buổi sáng (chiếm khoảng 30% tổng câu trả
lời). Ta nhận thấy, thời điểm online hoàn toàn trùng với thời điểm học lý
tưởng. Hơn nữa, theo khảo sát, có tới 60% sinh viên tự nhận thường vừa
online các trang mạng xã hội vừa học bài. Điều này cho thấy, sự trùng lặp thời
gian như trên, sinh viên sẽ phải chia bớt thời gian cho việc online, tâm trí
thường không tập trung hoàn toàn vào việc học. Thêm vào đó, 47,3% sinh viên
thường thức khuya(sau 23h30) để online. Điều này về lâu dài, sẽ ảnh hưởng
tới sức khỏe của sinh viên( gây nên các vấn đề về mắt, tim mạch, …) và sự
hiệu quả trong học tập. Khi lên lớp, sinh viên thường ngủ gật, tiếp thu bài
kém, khả năng tư duy yếu, thiếu sự hoạt bát, năng động dẫn đến kết quả học
tập không như thực lực.
2.2.2. Mục đích sử dụng
Khi được hỏi về việc chọn ra ba trong số nhiều mục đích sử dụng
internet chủ yếu, 110 sinh viên đều chọn mục đích học tập tra cứu, giải trí,
17
đọc tin tức. Có thể thấy sinh viên dùng Internet là phương tiện phổ biến trong
việc học tập của mình. Tuy nhiên, đối với các website có mức độ từ‘thường
xuyên” đến “rất thường xuyên” truy cập nhất thì 90.1% người tham gia khảo
sát chọn mạng xã hội Facebook, hầu hết ở mức độ“rất thường xuyên” trong
khi các website học tập chỉ có 53.7% người chọn nhưng không hề có trường
hợp nào “rất thường xuyên”. Bên cạnh đó, tỉ lệ thường xuyên vừa online các
trang mạng xã hội vừa học chiếm 60%, và có đến 47.3% số sinh viên thức
khuya sau 23h30’ để online. Không những thế, các câu trả lời về “vấn đề mà
bạn gặp phải trong việc sử dụng Internet”, ngoài vấn đề về chất lượng dịch
vụ thì hầu hết các câu trả lời đều là việc “ không kiểm soát được thời gian,
gây ảnh hưởng đến việc học tập và hoạt động ngoài tr ời”, “bị sao nhãng’’,
“mất quá nhiều thời gian vào các mục giải trí, trò chuyện vặt vãnh không
chính đáng’’ hay “thường xuyên sử dụng không có mục đích” . Những số liệu
trên đã cho thấy tính hiệu quả chưa cao trong mục đích sử dụng Internet của
sinh viên. Mặc dù tra cứu học tập là một trong những mục đích sử dụng
Internet chủ yếu, song sinh viên lại có xu hướng bị sao nhãng vào việc khác
ngoài nội dung học tập trong khi online.
Xét về thời lượng online trung bình mỗi ngày cũng như mục đích sử
dụng Internet của 110 sinh vên được khảo sát, có thể nhận thấy rằng thời gian
online của sinh viên tương đối nhiều, có tới 27.3% sử dụng Internet trên 4 giờ
mỗi ngày. Tuy nhiên, mục đích và nội dung online lại không tương xứng với
thời gian đã bỏ ra. Mạng xã hội Facebook chiếm lượng truy cập thường xuyên
hơn các website học tập hay tra cứu thông tin, 60% vừa online trên mạng xã
hội vừa học. Hơn nữa, các vấn đề cá nhân của sinh viên khi được khảo sát
18
trong việc sử dụng Internet nhìn chung đều liên quan đến vấn đề không kiểm
soát được mục đích online, gây mất thời gian và xao nhãng học hành. Tuy
những thống kê trên không chiếm khoảngphần trăm tuyệt đối, nhưng những
số liệu khảo sát về các dấu hiệu cơ bản của việc sử dụng Internet kém hiệu
quả được nêu trên đều chiếm hơn 45% tổng số sinh viên được khảo sát, nói
cách khác, gần một nửa số sinh viên đang có xu hướng sử dụng Internet
không hiệu quả.
2.3. Mức độ chi phối của Internet đối với công việc học tập của
sinh viên
Các lập luận trên cho thấy có tới gần một nửa số sinh viênbị chi phối
khá nhiều bởi mạng Internet. Ngày nay, khi mạng Internet trở nên ngày càng
phổ biến và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống sinh viên thì
việc thức khuya để online đã trở thành một thói quen rất khó sửa của sinh
viên. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này một phần là do xu hướng chung và
lối sống đô thị ồn ào nhộn nhịp làm sinh viên không thể tập trung học bài và
phải lên mạng học bài, làm bài vào đêm khuya.
Việc thức khuya có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người. Sinh viên
thức khuya thường cảm thấy mệt mỏi vào ngày hôm sau, không thể tập trung
học tập và luôn cảm thấy đầu óc căng thẳng. Thức khuya trong một thời gian
dài sẽ dễ gây giảm sút trí tuệ và sức đề kháng, trực tiếp ảnh hưởng đến sức
khỏe và hiệu quả học tập của sinh viên. Bên cạnh việc học tập, sinh viên còn
thức khuya online nhằm mục đích giải trí như xem phim, lang thang trên các
trang mạng xã hội… Việc thức khuya trong điều kiện thiếu ánh sáng và việc
19
tiếp xúc với ánh sáng trắng bóng đèn làm mắt phải điều tiết nhiều và làm sinh
viên dễ gặp các căn bệnh về mắt và gây mất ngủ về lâu dài.
Việc vừa học bài vừa online thường dẫn đến sự mất tập trung, dễ bị xao
nhãng và ảnh hưởng đến hiệu quả học tập. Điển hình là có nhiều bạn sinh
viên đang học bài vừa chat với bạn bè qua facebook và mải mê trò chuyên với
bạn bè mà quên cả thời gian.Không thể phủ nhận việc vừa học bài vừa online
các trang mạng xã hội cũng có những tác động tích cực vì mạng xã hội tạo cơ
hội cho sinh viên có thể cùngbàn luận, trao đổi về các vấn đề học tậpcũng
như thảo luận làm bài nhóm… nhưng nếu sinh viên sử dụng chúng không
đúng cách thì lâu dần sẽ dẫn đến học tập kém hiệu quả.
2.4. Sự tác động của môi trường sống lên hành vi truy cập mạng
Thực trạng trên đòi hỏi chúng ta phải đi tìm hiểu rõ nguyên nhân để làm
cơ sở cho giải pháp sau này. Ngoài nguyên nhân chủ quan như không kiểm
soát được thời lượng, mục đích sử dụng Internet của bản thân,… thì nguyên
nhân khách quan cũng đóng vai trò quan trọng đối với thực trạng đang được
nói đến như: Độ tuổi, giới tính, môi trường sống… Ở đây, tôi xin đề cập sâu
tới sự tác động của môi trường sống, bởi hai lý do. Thứ nhất, đối tượng sinh
viên mà chúng tôi tiếp cận được hầu hết ở cùng độ tuổi(20 tuổi) và trường
Đại học Nội Vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam là trường mang đặc tính xã
hội nên tỉ lệ nam nữ rất chênh lệch, nghiêng về nữ, vì vậy việc nghiên cứu
trên hai khía cạnh độ tuổi và giới tính hoàn toàn không phù hợp. Thứ hai, sinh
viên trong đến từ khắp các tỉnh thành trên cả nước, chứ không tập trung ở chỉ
20
một khu vực nào cả, nên việc tìm hiểu về yếu tố môi trường sống không
mang tính khả thi.
Hiện nay các bạn trẻ nói chung và các bạn sinh viên trường Đại học
Nội Vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam nói riêng đang có dấu hiệu nghiện
Internet do sự lạm dụng Internet. Và theo như khảo sát cho thấy: có sự khác
biệt rõ rệt về thời lượng truy cập mạng đối với hai nhóm đối tượng (Ở cùng
bố mẹ và không ở cùng với bố mẹ).56 sinh viên trong tổng số mẫu khảo sát
sử dụng Internet trên 3h, trong đó chỉ có 15 sinh viên đang ở với bố mẹ, còn lại
là ở kí túc xá, hoặc với bạn bè, họ hàng. Điều đó có nghĩa là trong số 60% sinh
viên(có dấu hiệu nghiện) thì có tới 44% không sống với bố mẹ và 16% sinh
viên còn lại thì sống với bố mẹ. Số liệu trên cho ta biết được rằng khi sinh
viên sống ở KTX hay ở trọ hay sống với họ hàng (không sống chung với bố
mẹ) thì hầu như bị Internet chi phối nhiều hơn là những sinh viên sống với bố
mẹ.
Có 44% trường hợp còn lại có dấu hiệu nghiện Internet thì không sống
với bố mẹ. Khi không sống chung với bố mẹ, sinh viên hầu như không chịu
sự kiểm soát từ gia đình. Trong trường hợp sinh viên online khuya thì bạn bè
hoặc hàng sống chung ít khi nhắc nhở hoặc nếu có cũng không mang tính
nghiêm khắc vì sự tôn trọng cá nhân. Các bạn được tự do muốn làm gì thì làm,
không bị ai bắt buộc làm gì hay bị ràng buộc bởi những công việc bếp núc nhà
cửa, do đó hễ khi có thời gian rảnh rỗi thì các bạn lại nghĩ đến online. Ngoài
ra, hoạt động đi ra ngoài chơi như du lịch, xem phim, mua sắm,… dù là hoạt
động ưa thích của sinh viên nhưng không thường xuyên vì vấn đề địa lívà tài
21
chính, các bạn sinh viên ngoài tiền sinh hoạt phí hằng tháng bố mẹ gửi ra thì
chưa thể kiếm được tiền, cho nên rất nhiều sinh viên chọn Internet như là một
hình thức giải trí thường nhật để có thể vừa tiết kiệm tiền vừa có thể kết nối
với thế giới bên ngoài bất cứ lúc nào. Các dấu hiệu nghiện Internet dần dần
hình thành từ những nguyên nhân trên.
2.5. Sự tự nhận thức của sinh viên về hành vi sử dụng Internet của
bản thân
Song song với việc tìm hiểu và đưa ra đánh giá tình hình sử dụng
Internet của sinh viên tôi cũng tiến hành khảo sát vấn đề sinh viên có nhận
thức đúng được thói quen sử dụng Internet của bản thân? Điều này góp phần
quan trọng trong việc tìm ra giải pháp cho thực trạng. Vì chúng tôi đã đưa ra
giả thuyết rằng: nếu sinh viên biết rõ được quá trình sử dụng Interknet của
mình thì sẽ dễ dàng hơn trong việc điều chỉnh hành vi. Qua khảo sát, tôi thu
thập được kết quả như sau:
Bảng 1 Sự tự đánh giá về mức độ hiệu quả sử dụng Internet
Mức độ hiệu quả
22
Kết quả
Số lượng
Tỉ lệ ( % )
Rất hiệu quả
0
0
Hiệu quả
52
47.3
Ít hiệu quả
42
38.2
Không hiệu quả
10
9.1
Chưa từng nghĩ đến
6
5.5
Từ bảng trên, ta có 52 sinh viên( chiếm 47,3%) tự đánh giá bản thân sử
dụng Internet hiệu quả và 42 sinh viên ( chiếm 38,2%) sinh viên tự cho rằng
mình sử dụng Internet ít hiệu quả và không hiệu quả. Nhìn chung thì sinh viên
đã có sự tự đánh giá về mức độ hiệu quả việc sử dụng Internet tương đối
chính xác. Vì như những nghiên cứu ở các mục trước, ta biết được tỉ lệ sinh
viên bị Internet chi phối là ở mức xấp xỉ ½ tổng đơn vị mẫu. Một nửa số
người được khảo sát cho rằng dùng Internet hiệu quả và gần một nửa còn lại
cho rằng họ sử dụng Internet chưa được hiệu quả. Lý giải cho kết quả
này,chúng tôi ghi nhận được các chia sẻ từ sinh viên rằng có những khó khăn
nhất định khiến họ sử dụng chưa triệt để những lợi ích mà Internet mang lại.
Những khó khăn mà sinh viên gặp phải khi sử dụng Internet như dễ bị
sao lãng, mất tập trung vào việc học, chưa biết nhiều về các trang web hay,
đáng tin cậy phục vụ cho mục đích học tập, thường bị chi phối bởi các trang
mạng xã hội các trang mạng giải trí hay các trang mạng xem phim, không
muốn vào facebook nhưng vì mọi hoạt động liên lạc (họp nhóm hay thông báo
nghỉ học) đều ở trên đó, không biết cách tra cứu tài liệu nhanh…
Internet tồn tại mặt lợi mặt hại, giúp sinh viên tra cứu thông tin học tập,
liên lạc, họp nhóm hoặc giải trí . Tuy nhiên, nếu không tập trung vào việc
chính và để cho trí tò mò lấn át thì sinh viên có thể tiêu tốn thời gian vào
những thứ vô bổ. Khó khăn lớn nhất mà tôi nhận thấy được đó là khi sử dụng
Internet sinh viên không xác định mục đích rõ ràng. Khoảng thời gian nghỉ trưa,
sinh viên không nghỉ ngơi mà lại lên các trang mạng xã hội với mục đích ban
đầu chỉ là xem thông báo hay xem tin nhắn(chỉ cần từ 5 tới 10 phút), nhưng
23
sau đó lại mất quá nhiều thời gian lang thang từ trang này kéo theo trang kia
mà không có điểm dừng.
Nhìn chung, sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội phân hiệu tại
Quảng Nam đã nhận ra được các vấn đề mà bản thân đang gặp phải trong
việc sử dụng Internet…Ngoài sách báo, Internet là một công cụ hỗ trợ tìm
kiếm đắc lực cho học tập cũng như các hoạt động khác của sinh viên, tuy
nhiên, bản thân họ lại chưa tìm ra cách giải quyết cho các vấn đề của mình.
Vì thế việc đi tìm giải pháp thiết thực cho thực trạng này là một trong hai
nhiệm vụ chính của bài nghiên cứu này.
2.6. Hiện tượng nghiện Internet
Internet đóng một phần quan trọng đối với đời sống con người, đặc biệt
trong giai đoạn phát triển nhanh chóng về mọi mặt của xã hội như hiện nay,
từ thông tin liên lạc, giáo dục, nghiên cứu khoa học, giải trí,… Chúng ta có thể
dễ dàng nhận thấy sức ảnh hưởng của nó đến hiệu quả công việc. Tuy nhiên,
chính vì điều đó cùng với sự thiếu kiểm trong việc sử dụng mạng đã làm nảy
sinh một vấn đề, một hệ lụy bên cạnh những mặt tích cực mà nó mang lại đó
là nghiện Internet.
Nghiện Internet không còn là một hiện tượng mới lạ trong xã hội, tuy
nhiên, đến nay vẫn chưa thể đưa ra được định nghĩa chính xác, thống nhất
cũng như có những tiêu chuẩn để đánh giá đúng các trường hợp người dùng có
thật sự vượt quá thời gian cần thiết sử dụng Internet, hay còn gọi là nghiện
Internet hay không. Ngoài ra, về mặt y học, thuật ngữ “nghiện Internet” vẫn
còn là vấn đề gây tranh cãi. Vì, liệu rằng “nghiện” có được dùng đúng với ý
24
nghĩa của nó để chỉ các bệnh lý liên quan đến các chất hóa học ảnh hưởng lên
cơ thể.
Tuy nhiên, dựa vào các thông tin đã thu thập được về những mặt tiêu
cực của Internet, chúng tôi quyết định dùng thuật ngữ “nghiện Internet” trong
bài nghiên cứu này để thuận tiện cho việc truyền tải nội dung.
Nguyên nhân cơ bản khiến hình thành nghiện Internet được cho là do
người đó chọn Internet là cách để đáp ứng, khắc phục những thay đổi về tinh
thần, tâm lý như trầm cảm, căng thẳng, mệt mỏi, chán nản,….nhằm đem lại
sự hài lòng, thỏa mãn cho người nghiện.
2.6.1. Biểu hiện
Internet phục vụ nhiều nhu cầu khác nhau của người dùng, do đó mục
đích và thời gian sử dụng Internet là khác nhau đối với mỗi người. Không thể
đưa ra một con số cụ thể về thời gian cần thiết cho việc sử dụng nó. Việc
đánh giá các biểu hiện về nghiện Internet chỉ mang tính tương đối dựa trên các
hành vi sử dụng của người dùng. Sau đây là các biểu hiện ban đầu được cho
là nghiện Internet:
Thứ nhất, thường xuyên truy cập Internet mà không có mục đích cụ thể,
thời gian truy cập kéo dài hơn mức cần thiết mà bản thân không nhận thức
được.
Thứ hai, luôn có suy nghĩ về các hoạt động Internet đã thực hiện hoặc
dự tính các hoạt động online tiếp theo.
25