Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Đề tài: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả việc sử dụng Internet của sinh viên Trường Đại học Nội vụ phân hiệu tại Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1012.77 KB, 36 trang )

LỜI CAM KẾT
Tôi xin cam kết toàn bộ  nội dung của đề  tài là kết quả  nghiên cứu của  
riêng tôi. Các kết quả, số  liệu trong đề  tài là trung thực và hoàn toàn khách  
quan.Tôi sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm với lời cam kết của mình.

Người cam kết

1


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường được sự quan tâm và giúp đỡ 
của Thầy(cô), trường Đại học Nội vụ  Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam và  
dưới sự  hướng dẫn của thầy Nguyễn Thanh Tuấn tôi đã tiến hành đề  tài: 
“Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả   việc sử  dụng Internet của sinh  
viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam”.Đến đây tôi 
đã hoàn thành đề  tài. Để  hoàn thành đề  tài này ngoài nổ  lực của bản thân tôi 
đã nhận được rất nhiều sự  giúp đỡ, đóng góp ý kiến của nhiều cá nhân, tập 
thể  đã giúp đỡ  tôi trong thời gian học tập vừa qua. Đặc biệt, tôi xin gửi lời 
cảm ơn chân thành đến giảng viên Th.s Nguyễn Thanh Tuấn là người đã trực  
tiếp giảng dạy, hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này. Để 
thực hiện đề  tài này một cách hoàn chỉnh nhất, măc dù đã rất cố  gắng, song 
trong những ngày đầu làm quen, tiếp cận và học hỏi để nghiên cứu khoa học  
sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót về mặt kiến thức cũng như kinh  
nghiệm mà tôi chưa nhận thấy được. Chính vì điều đó tôi rất mong được sự 
chỉ đạo đóng góp ý kiến từ các thầy, cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

2



MỤC LỤC

LỜI CAM KẾT................................................................................................... 1
LỜI CẢM ƠN..................................................................................................... 2
MỤC LỤC ...........................................................................................................3
DANH  MỤC TỪ VIẾT TẮT............................................................................ 6
MỞ ĐẦU 
1.

Lý do chọn đề tài ..............................................................................7

2.

Lịch sử nghiên cứu ...........................................................................8

3.

Mục tiêu nghiên cứu .........................................................................8

4.

Câu hỏi nghiên cứu ...........................................................................8

5.

Giả thuyết nghiên cứu..................................................................... 9

6.

Phương pháp nghiên cứu................................................................. 9


7.

Bố cục đề tài .....................................................................................9
NỘI DUNG 
Chương1 

3


CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET CỦA SINH 
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI TẠI MIỀN TRUNG 
1.1.

Khái niệm......................................................................................... 10

1.1.1.Khái niệm Internet .........................................................................10
1.1.2.Khái niệm nghiện Internet ...........................................................10
1.2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu ...................................................10

Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG INTERNET CỦA SINH VIÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI PHÂN HIỆU TẠI QUẢNG NAM 
2.1.

Thực trạng sử dụng Internet của giới trẻ ở Việt Nam............ 12

2.2. Tình hình truy cập Internet của sinh viên trường Đại học Nội Vụ 

Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam......................................................... 15
2.2.1. Thời lượng,  thời điểm truy cập Internet.................................. 15
2.2.1.1.Thời lượng online trung bình mỗi ngày ...................................15
2.2.1.2. Thời điểm ................................................................................16
2.2.2.  Mục đích sử dụng....................................................................... 17
2.3. Mức độ chi phối của Internet đối với công việc học tập của sinh 
viên…………………………………………………………………………18

4


2.4. Sự tác động của môi trường sống lên hành vi truy cập mạng.... 19
2.5. Sự tự nhận thức của sinh viên về hành vi sử dụng Internet của bản 
thân ........................................................................................................... 20
2.6. Hiện tượng nghiện Internet............................................................. 22
2.6.1. Biểu hiện..................................................................................... 23
2.6.2.Tác hại ...........................................................................................24
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC SỬ DỤNG INERNET CỦA 
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI PHÂN HIỆU TẢI 
QUẢNG NAM
KẾT LUẬN ........................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................ 28
PHỤ LỤC.......................................................................................................... 29

DANH  MỤC TỪ VIẾT TẮT

Tên viết tắt

Xin đọc là


TS

Tiến sĩ

Th.S

Thạc sĩ

KTX

Kí túc xá

5


Trung học cơ sở

THCS

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Trong  những   năm   gần   đây,  người   ta   chứng   kiến   những   bước   thay   đổi 
mạnh mẽ chưa từng thấy của các phương tiện thông tin đại chúng, một trong 
những dịch vụ  hàng đầu hiện nay là sự  xuất hiện của Internet. Nó là một 
phương tiện không thể  thiếu của nhân loại, một dịch vụ  “nhanh, gọn, tiện 
ích”, không những thế, Internet đã và đang thâm nhập vào hầu như  mọi lĩnh 

vực từ  kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và mọi hoạt động sống của con 
người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Internet là một hệ thống thông tin toàn 
cầu có thể  được truy cập công cộng gồm các mạng máy tính được liên kết  
với nhau.
Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống mạng Internet đã góp phần đưa Việt  
Nam tiến nhanh vào con đường hội nhập và giúp cho mọi người dân Việt trở 
thành những “Công dân quốc tế” bình đẳng trên mạng. Đối với sinh viên Đại 
học Nội Vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam trong bối cảnh của nền kinh tế 
­ xã hội phát triển như hiện nay, với môi trường học tập, giải trí phong phú và 
đa dạng.Sự ra đời của của Internet đã có  ảnh hưởng mạnh mẽ  đến đời sống 

6


tinh thần cũng như đời sống học tập của họ trong môi trường sống luôn năng  
động và bận rộn này. Do đó, nhu cầu sử  dụng Internet của sinh viên trường 
Đại học Nội Vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam  nói riêng và sinh viên toàn  
quốc nói chung đang có xu hướng ngày càng cao và không ngừng phát triển.
 Sự  ra đời của Internet đã có  ảnh hưởng mạnh mẽ  đến đời sống tinh  
thần cũng như  đời sống học tập của sinh viên Trường Đại học Nội vụ  Hà 
Nội phân hiệu tại Quảng Nam trong môi trường sống luôn năng động và bận 
rộn hiện nay. Tuy nhiên, việc đáp ứng nhu cầu này ngoài những mặt tích cực, 
Internet còn mang đến rất nhiều tác động tiêu cực làm  ảnh hưởng đến việc 
học tập và cuộc sống của họ.
Chính vì những lí do trên, tôi đã chọn đề  tài “Thực trạng và giải pháp 
nâng cao hiệu quả  việc sử dụng Internet  của sinh viên Trường Đại học Nội  
vụ  phân hiệu tại Quảng Nam” với mong muốn tìm hiểu và có cái nhìn khách 
quan về việc sử dụng Internet của sinh viên.
2.


Lịch sử nghiên cứu

Liên quan đến vấn đề  này, chúng ta tìm ra một số  tác giả  để  nghiên cứu 
liên  quan   đến   đề   tài.   Cụ   thể   là   Th.S  Dương   Hiền  Hạnh   (   Đại   học  Bình  
Dương) “ Tìm hiểu nhu cầu sử dụng Internet của sinh viên hiện nay” (2010). 
Đề  tài này đã chỉ  ra quá trình hình thành và phát triển, đưa ra các số, số  liệu 
thống kê, qua đó cho thấy nhu cầu của việc sử  dụng Internet trong học tập.  
Tiếp theo là đề tài của Trần Phương Thùy “ Hành vi sử dụng Internet của sinh 
viên Hà Nội” (2012). Đề  tài này đã tìm hiểu rõ hơn về  thái độ, nhu cầu sử 

7


sụng của sinh viên Hà Nội nhưng qua đó cũng có những hạn chế  cơ  bản là  
không thấy được tầm quan trọng của Internet, không áp dụng vào học tập.
3.

Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tình trạng sử sụng và nghiện Internet của sinh viên Trường 

Đại học Nội vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam
Tìm ra những điểm mạnh cần phát huy trong việc sử dụng Internet áp 
dụng vào học tập
Đề xuất những biện pháp nâng cao chất lượng sử dụng Internet một 
cách hiệu quả
4.

Câu hỏi nghiên cứu
Tại sao sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng 


nam có nhu cầu sử dụng Internet
Tại sao cần phải đưa ra những biện pháp nâng cao việc sử dụng 
Internet một cách hiệu quả
Làm thế nào để sinh viên biết tầm quan trọng của Internet và áp dụng 
nó có hiệu quả
5.

Giả thuyết nghiên cứu
Số lượng sinh viên sử dụng Internet nhiều mà không đem lại hiệu quả 

học tập cao
Đưa ra những biện pháp nâng cao nhầm để hoàn thiện quy mô, cung 
cấp nhiều trí thức sử dụng Internet

8


Đưa ra những ý kiến của sinh viên, đề xuất biện pháp khuyến khích tạo 
điều kiện tốt nhất để sinh viên tới thư viên nhiều hơn.
6.

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chung: nghiên cứu tư liệu, tài liệu có sẵn từ  đa dạng các  

nguồn. Sử dụng bảng hỏi để điều tra khách quan các vấn đề đã đặt ra.
Phương pháp cụ  thể: Tổng hợp, phân tích tài liệu đã được chọn lọc, 
điều tra bằng bảng hỏi và tiến hành thống kê, phân tích các dữ  liệu thu thập  
được.
7.


Bố cục đề tài

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ  sở  lý luận thực tiễn về  thực trạng sử  dụng Internet của sinh  
viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam
Chương 2. Thực trạng sử dụng Internet của sinh viên trường Đại học Nội Vụ 
Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam và kết quả nghiên cứu thực tiễn
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả  việc sử  dụng Internet của sinh viên 
trường Đại học Nội Vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam

9


NỘI DUNG
Chương1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET CỦA SINH 
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI TẠI MIỀN TRUNG
1.1.

 Khái niệm

1.1.1.Khái niệm Internet
Internet là “một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công  
cộng, gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ  thống này truyền  
thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ  liệu (packet switching) dựa trên một  
giao thức liên mạng đã được chuyển hóa ( giao thức IP). Hệ  thống này bao  
gồm   hàng   ngàn  mạng  máy   tính   nhỏ   hơn   các   doanh  nghiệp,   của  các   viện  
nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân và các chính phủ  
trên toàn cầu” [7].
1.1.2.Khái niệm nghiện Internet

Theo TS. Kimberly Young, nghiện Internet được định nghĩa là “hành vi 
sử  dụng Internet quá mức, đến mức độ  khó có thể  kiểm soát được. Nó  ảnh  
hưởng đến cuộc sống hằng ngày, người thân, gia đình, bạn bè và  môi trường  
làm việc của người nghiện mà trong đó, Internet trở  thành mối  ưu tiên hàng  
đầu. Nghiện internet cũng có thể được hiểu giống như nghiện ma túy, nghiện  
rượu, hay nghiện cờ  bạc ­ những mối quan hệ  chiếm  ưu thế hơn trong các  
khía cạnh đời sống người dùng” [4,tr218].

10


1.2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu

Hiện nay,  ở Việt Nam cũng có nhiều bài nghiên cứu, báo cáo liên quan 
tới thực trạng sử dụng Internet  ở người dùng Internet.Trong báo cáo tổng kết 
về  “Thực trạng sử  dụng Internet trong giảng dạy, học tập của sinh viên” đã 
nêu rõ những đánh giá của sinh viên và giáo viên về tầm quan trọng và mức độ 
sử dụng Internet của sinh viên tại các trường đại học. Đa số các sinh viên đều 
có nhu cầu sử  dụng Internet rất nhiều và đa dạng trên nhiều lĩnh vực. Phần  
lớn là do chưa biết cách sử dụng Internet như một công cụ học tập hiệu quả 
và dành nhiều thời gian để giải trí thay vì học tập. Dựa trên việc đánh giá về 
những thuận lợi và khó khăn trong việc sử dụng Internet trong dạy và học của 
sinh viên và giáo viên, tác giả  đưa ra nguyện vọng và phương hướng cụ  thể 
để cải tiến việc sử dụng  Internet một cách hiệu quả cho cả giáo viên và sinh  
viên.
Trong kết quả cuộc điều tra “Tìm hiểu ảnh hưởng của Internet đối với  
học sinh, sinh viên Việt Nam hiện nay trên 647 học sinh do Viện Văn hóa ­  
Nghệ  thuật Việt Nam tổ  chức cho thấy nhiều  điều bất ngờ. Phần trăm sử  

dụng Internet để  gửi và nhận thư  điện tử  là 87,8%, tán gẫu là 80,7%. Số  
người sử  dụng internet để  tìm những thông tin liên quan đến công việc chỉ  
chiếm 1,4%” [3,tr146].
Các bài viết, báo cáo trên đề cập chủ yếu về mục đích sử dụng Internet  
của người dùng Internet. Tuy nhiên, với đề tài nghiên cứu thực trạng sử dụng  
Internet,   các   nghiên   cứu   trên   chỉ   dừng   ở   việc   nêu   lên   mục   đích   sử   dụng  
Internet, chứ chưa nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về các khía cạnh khác như:  

11


Thời gian sử dụng Internet cũng như mức độ nghiện Internet của người dùng, 
hay làm rõ vấn đề  như  thế  nào là sử  dụng Internet hiệu quả. Vì vậy, đề  tài  
này được tôi chọn thực hiện nhằm tìm hiểu sâu các vấn đề trên, làm cơ sở cho 
các nghiên cứu liên quan sau này.

Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG INTERNET CỦA SINH VIÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI PHÂN HIỆU TẠI QUẢNG NAM
2.1.

Thực trạng sử dụng Internet của giới trẻ ở Việt Nam
Theo số liệu năm 2012 của trung tâm Internet Việt Nam, ngày 19/11/1997 

là dấu mốc đáng nhớ của Internet Việt Nam khi được chính thức kết nối với 
mạng toàn cầu. Một thực tế  được công bố  phát hành: “  Tính đến năm 2013,  
nước ta có hơn 33 triệu người dùng Internet, tăng từ 31 triệu năm 2012, chiếm  
37 % tổng dân số. Việt Nam đứng thứ  3 Đông Nam Á, thứ 7 châu  Á và thứ 18  
toàn cầu về  sốngười dùng Internet” [1,tr205]. Trong một bài báo cáo: “Bộ 
Thông tin và Truyền thông đã ước tính để đạt mục tiêu khoảng ½ số dân Việt  

Nam sử dụng Internet trong giai đoạn 2011 ­ 2015 cần có thêm 20 triệu người  
sử  dụng Internet” [2,tr107]. Đó là những thực tế  về  Internet đang diễn ra  ở 
Việt Nam.Tuy nhiên, dựa trên những kết quả  được khảo sát, ta thấy người 
Việt dùng Internet mỗi ngày chủ yếu phục vụ cho mục đích giải trí. 

12


Mặt khác, Internet là một trong những phương tiện tiếp nhận thông tin  
phổ   biến   nhất   ở   Việt   Nam,   vượt   qua   báo,   tạp   chí   và   radio   để   trở   thành 
phương tiện tiếp cận thông tin phổ biến đứng thứ 2, chỉ sau Tivi (theo kết quả 
nghiên cứu về thị trường Internet Việt Nam năm 2011). 
Những con số  cũng như  những dẫn chứng trên đã phần nào khái quát 
hóa, mang lại bức tranh toàn cảnh về  thực trạng sử  dụng Internet của người  
dân   Việt   Nam.Và   người   trẻ   lại   là   những   người   thích   trào   lưu   Internet 
nhất.Vậy thực trạng sử dụng Internet của thanh, thiếu niên Việt Nam như thế 
nào?
Theo chungta.com, người trẻ dùng Internet một cách tự phát, thiếu định 
hướng. Đa số chúng ta tự tìm hiểu chẳng được ai hướng dẫn.Chúng ta thường 
quan tâm tới vai trò thiết yếu của Internet, tầm quan trọng của việc sử dụng  
Internet để  hội nhập và phát triển.Tuy nhiên, khi được hỏi “Bạn học cách  
dùng Internet như thế nào?” có lẽ câu trả lời nhiều nhất vẫn là tự mày mò, bắt 
chước người khác. Chúng ta rất tin tưởng vào khả  năng tự  tìm tòi công nghệ 
thông tin của mình, luôn châm ngôn “cái gì không biết thì tra Google”.  Ở  lứa  
tuổi THCS, các em bắt đầu đua nhau tìm hiểu công nghệ  mới nhưng trường 
lớp không có chương trình giảng dạy cho các em những thứ đó. Nước ta hầu 
như   chưa   có   những   kế   hoạch   đào   tạo,   định   hướng   sử   dụng   máy   tính   và 
Internet một cách cơ bản và rộng rãi cho học sinh sinh viên, chỉ trừ các ngành 
đào tạo chuyên sâu về mạng máy tính trong các trường đại học kĩ thuật.
Nhờ đa dạng phương tiện truy cập Internet từ chiếc máy tính bàn ở nhà, 

máy tính cá nhân, máy tính công ty, điện thoại thông minh… mà chỉ cần có kết 

13


nối mạng, việc sử dụng Internet trở nên thật dễ dàng.Việc sẵn có của Internet 
đã phần nào giúp cho thanh niên chủ  động hơn, làm cho tần suất sử  dụng  
Internet của họ ngày càng tăng cao. Chúng ta dễ bắt gặp hình ảnh những thanh  
niên ngồi thưởng thức ly cà phê nhưng mắt ko vẫn không rời khỏi màn hình 
điện thoại vì đoạn video đang xem dở  hay chàng sinh viên đang lướt trang 
mạng xã hội trao đổi bài học với bạn của mình. Trong thời đại công nghệ 
đang phát triển như hiện nay, những hình ảnh đó đã trở nên rất quen thuộc với  
mỗi chúng ta.
Từ những năm 2010­2011, Facebook bắt đầu có mặt tại Việt Nam và chỉ 
sau 5 năm xuất hiện nó đã phủ sóng khắp mọi nơi trên đất nước ta.Nó luôn là 
trang mạng có số  người sử  dụng nhiều nhất. Sau đó là Zingme – một trang 
mạng xã hội nhưng có kèm các tiện ích khác như nghe nhạc, đọc báo, chia sẻ 
tin tức, video… cũng là sự  lựa chọn khá phổ  biến của giới trẻ  hiện nay. Khi  
mới bắt đầu sử dụng mạng xã hội, thanh niên thường dùng vào mục đích giao  
lưu, kết bạn và trò chuyện sau đó là chia sẻ  cảm xúc, cá tính và khẳng định  
bản   thân.   Không   những   thế,   đối   với   sinh   viên   thì   mạng   xã   hội   còn   một  
phương tiện hỗ  trợ  trong việc học tập, giao tiếp và tìm kiếm cơ  hội nghề 
nghiệp… để  những người có cùng sở  thích, quan tâm có thể  gặp gỡ  và trao 
đổi với nhau từ  đó tiến tới sinh hoạt offline và hình thành nhiều nhóm cộng 
đồng có tính chất tích cực để  tổ  chức các hoạt động nhân đạo, từ  thiện; trao  
đổi tranh luận về  những vấn đề  khác nhau hay nâng cao nhận thức của mọi 
người như tuyên truyền về Biển – Đảo Việt Nam…

14



Vào những ngày bình thường, thanh niên dành khá nhiều thời gian để 
truy cập Internet (khoảng từ  4h tới 5h mỗi ngày).Đối với sinh viên thì thời 
gian truy cập Internet còn cao hơn nữa với tỉ lệ tăng dần từ nông thôn, ngoại ô 
đến trung tâm thành phố. Trong đó nhìn chung thì sinh viên và thanh niên đi 
làm thường sử  dụng Internet nhiều nhất để  cập nhật thông tin phục vụ  cho 
học tập và công việc rồi mới đến giải trí trong đó nhóm học sinh thì thường 
ngược lại. Trong hội thảo “Nghiện Internet: Những thách thức mới của xã hội 
hiện đại”, Th.S Trần Minh Trí cho biết có hơn 75% sinh viên truy cập Internet 
hằng ngày và sinh viên càng về năm cuối thì mức độ truy cập càng nhiều. Tuy 
nhiên, mặc dù 99% sinh viên cho rằng Internet là cần thiết, họ cũng thừa nhận 
Internet có nhiều tác động tiêu cực đến đời sống của họ. Đáng chú ý nhất là 
theo kết quả nghiên cứu của ông thì sinh viên truy cập Internet càng nhiều thì 
kết quả  học tập càng kém. Cụ  thể  là sinh viên sinh viên có học lực giỏi truy  
cập Internet bình quân 17,6 giờ/tuần trong khi đó sinh viên học yếu, kém có số 
giờ truy cập Internet bình quân đến 31,9 giờ/tuần.Đó là một số thực tế mà tôi  
đã tìm hiểu được về  thực trạng sử  dụng Internet của thanh niên Việt Nam 
hiện nay. Từ  đó, có cái nhìn khách quan hơn trong việc đưa ra các giả  thiết  
cho việc thực hiện khảo sát nghiên cứu.
2.2. Tình hình truy cập Internet của sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà 
Nội phân hiệu tại Quảng Nam
2.2.1. Thời lượng,  thời điểm truy cập Internet
Các câu hỏi liên quan về thời điểm, thời lượng, mục đích và các website  
thường xuyên truy cập đã được thiết kế trong bảng khảo sát của tôi nhằm làm 

15


cơ sở đánh giá về mức độ hiệu quả trong việc sử dụng Internet củasinh viên.  
Từ những thông tin thu thập được sau khi tiến hành khảo sát trên 110 sinh viên 

về cơ bản đã làm rõ vấn đề được đặt ra.
2.2.1.1.Thời lượng online trung bình mỗi ngày
Có đến 56 sinh viên trong tổng số 110 sinh viên tham gia khảo sát có thời 
gian online trung bình mỗi ngày từ  3 giờ  trở  lên, chiếm 50,9% và hơn 50%  
trong số  này có thời gian onlinevượt quá 4 giờ  mỗi ngày. Trong khi đó, thời 
gian online trung bình dưới 1 giờ mỗi ngày chỉ chiếm 7,3%. Từ các số liệu trên  
có thể thấy việc sử dụng Internet rất phổ biến trong sinh viên trường Đại học 
Nội Vụ  Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam. Tuy nhiên, thời lượng online từ 
tương đối nhiều đến nhiều như  trên chỉ  phản ánh sinh viên có nhu cầu cao 
trong việc sử dụng Internet nhưng chưa thể đưa ra kết luận nào về  tính hiệu 
quả của nó. 
Vì vậy , bài nghiên cứu này cũng đi sâu tìm hiểu các yếu tố khác về thời 
điểm, mục đích, nội dung các wedsite hay truy cập để có được những đánh giá  
mang tính bao quát, khách quan và chính xác nhất có thể  về  mức độ  sử  dụng 
Internet hiệu quả.
2.2.1.2. Thời điểm
Khi được khảo sát “Bạn thường online vào những thời điểm nào trong 
ngày?”, hầu hết sinh viên đều chọn khung giờ  buổi tối(83.6%), cụ  thể  là từ 
20h đến 23h; buổi khuya(39.1%) và buổi sáng(27%). Dựa trên kết quả  khảo 
sát để  lý giải cho điều này, tôi biết được rằng buổi tối là khoảng thời gian 

16


nghỉ ngơi sau một ngày học tập mệt mỏi, sinh viên thường Online Facebook, 
nghe nhạc…để giải trí, nắm bắt tin tức mới, hoặc tự học. 
Tuy nhiên, tôi cũng đặt ra vấn đề  là: Liệu việc online vào buổi tối như 
vậy có  ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống sinh hoạt và học tập của sinh viên 
không? Vì thế, cùng với việc khảo sát thời điểm online, tôi đã kèm theo câu  
hỏi về  thời điểm học lý tưởng trong ngày. Thời điểm học lý tưởng là thời 

điểm được cho là chúng ta dễ  tiếp thu bài nhất, tư duy tốt nhất, việc học tại 
thời điểm này mang lại hiệu quả  cao và tiết kiệm thời gian cũng như  tạo sự 
hứng thú khi học. Kết quả là khung giờ học lý tưởng của sinh viên là từ 20h­
23h vào buổi tối và từ 8h­10h vào buổi sáng (chiếm khoảng 30% tổng câu trả 
lời). Ta nhận thấy, thời  điểm online hoàn toàn trùng với thời điểm học lý  
tưởng. Hơn nữa, theo khảo sát, có tới 60% sinh viên tự  nhận thường vừa  
online các trang mạng xã hội vừa học bài. Điều này cho thấy, sự trùng lặp thời 
gian như  trên, sinh viên sẽ  phải chia bớt thời gian cho việc online, tâm trí 
thường không tập trung hoàn toàn vào việc học. Thêm vào đó, 47,3% sinh viên 
thường thức khuya(sau 23h30) để  online. Điều này về  lâu dài, sẽ   ảnh hưởng 
tới sức khỏe của sinh viên( gây nên các vấn đề  về  mắt, tim mạch, …) và sự 
hiệu quả  trong học tập. Khi lên lớp, sinh viên thường ngủ  gật, tiếp thu bài 
kém, khả năng tư duy yếu, thiếu sự hoạt bát, năng động dẫn đến kết quả học 
tập không như thực lực.
2.2.2.  Mục đích sử dụng
Khi được hỏi về  việc chọn ra ba trong số  nhiều mục  đích sử  dụng 
internet chủ  yếu, 110 sinh viên đều chọn mục đích học tập tra cứu, giải trí, 

17


đọc tin tức. Có thể thấy sinh viên dùng Internet là  phương tiện phổ biến trong  
việc học tập của  mình. Tuy nhiên, đối với các website có mức độ  từ‘thường  
xuyên” đến “rất thường xuyên” truy cập nhất thì 90.1% người tham gia khảo 
sát chọn mạng xã hội Facebook, hầu hết  ở  mức độ“rất thường xuyên” trong 
khi các website học tập chỉ có 53.7% người chọn nhưng không hề  có trường  
hợp nào “rất thường xuyên”. Bên cạnh đó, tỉ  lệ  thường xuyên vừa online các  
trang mạng xã hội vừa học chiếm 60%, và có đến 47.3% số  sinh viên thức  
khuya sau 23h30’ để online. Không những thế, các câu trả lời về “vấn đề mà 
bạn gặp phải trong việc sử dụng Internet”, ngoài vấn đề  về  chất lượng dịch 

vụ  thì hầu hết các câu trả  lời đều là việc “ không kiểm soát được thời gian, 
gây  ảnh hưởng đến việc học tập và hoạt động ngoài tr ời”, “bị  sao nhãng’’, 
“mất quá nhiều thời gian vào các mục giải trí, trò chuyện vặt vãnh không  
chính đáng’’ hay “thường xuyên sử dụng không có mục đích” . Những số liệu 
trên đã cho thấy tính hiệu quả  chưa cao trong mục đích sử  dụng Internet của 
sinh viên. Mặc dù tra cứu học tập là một trong những mục  đích sử  dụng 
Internet chủ  yếu, song sinh viên lại có xu hướng bị  sao nhãng vào việc khác 
ngoài nội dung học tập trong khi online. 
Xét về  thời lượng online trung bình mỗi ngày cũng như  mục đích sử 
dụng Internet của 110 sinh vên được khảo sát, có thể nhận thấy rằng thời gian  
online của sinh viên tương đối nhiều, có tới 27.3% sử dụng Internet trên 4 giờ 
mỗi ngày. Tuy nhiên, mục đích và nội dung online lại không tương xứng với 
thời gian đã bỏ ra. Mạng xã hội Facebook chiếm lượng truy cập thường xuyên 
hơn các website học tập hay tra cứu thông tin, 60% vừa online trên mạng xã 
hội vừa học. Hơn nữa, các vấn đề  cá nhân của sinh viên khi được khảo sát  

18


trong việc sử dụng Internet nhìn chung đều liên quan đến vấn đề không kiểm 
soát được mục đích online, gây mất thời gian và xao nhãng học hành. Tuy 
những thống kê trên không chiếm khoảngphần trăm tuyệt đối, nhưng những  
số liệu khảo sát về các dấu hiệu cơ bản của việc sử dụng Internet kém hiệu 
quả được nêu trên  đều chiếm hơn 45% tổng số sinh viên được khảo sát, nói 
cách khác, gần một nửa số  sinh viên đang có xu   hướng sử  dụng   Internet 
không hiệu quả.
2.3. Mức độ chi phối của Internet đối với công việc học tập của 
sinh viên 
Các lập luận trên cho thấy có tới gần một nửa số  sinh viênbị  chi phối  
khá nhiều bởi mạng Internet. Ngày nay, khi mạng Internet trở  nên ngày càng 

phổ  biến và trở  thành một phần không thể  thiếu trong đời sống sinh viên thì 
việc thức khuya để  online đã trở  thành một thói quen rất khó sửa của sinh  
viên. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này một phần là do xu hướng chung và 
lối sống đô thị  ồn ào nhộn nhịp làm sinh viên không thể  tập trung học bài và 
phải lên mạng học bài, làm bài vào đêm khuya.
Việc thức khuya có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người. Sinh viên 
thức khuya thường cảm thấy mệt mỏi vào ngày hôm sau, không thể tập trung  
học tập và luôn cảm thấy đầu óc căng thẳng. Thức khuya trong một thời gian  
dài sẽ dễ gây giảm sút trí tuệ và sức đề  kháng, trực tiếp ảnh hưởng đến sức  
khỏe và hiệu quả học tập của sinh viên. Bên cạnh việc học tập, sinh viên còn 
thức khuya online nhằm mục đích giải trí như  xem phim, lang thang trên các 
trang mạng xã hội… Việc thức khuya trong điều kiện thiếu ánh sáng và việc 

19


tiếp xúc với ánh sáng trắng bóng đèn làm mắt phải điều tiết nhiều và làm sinh  
viên dễ gặp các căn bệnh về mắt và gây mất ngủ về lâu dài.
Việc vừa học bài vừa online thường dẫn đến sự  mất tập trung, dễ  bị  xao  
nhãng và  ảnh hưởng đến hiệu quả  học tập. Điển hình là có nhiều bạn sinh  
viên đang học bài vừa chat với bạn bè qua facebook và mải mê trò chuyên với  
bạn bè mà quên cả thời gian.Không thể phủ nhận việc vừa học bài vừa online 
các trang mạng xã hội cũng có những tác động tích cực vì mạng xã hội tạo cơ 
hội cho sinh viên có thể  cùngbàn luận, trao đổi về  các vấn đề  học tậpcũng 
như  thảo luận làm bài nhóm… nhưng nếu sinh viên sử  dụng chúng không 
đúng cách thì lâu dần sẽ dẫn đến học tập kém hiệu quả.
2.4. Sự tác động của môi trường sống lên hành vi truy cập mạng
Thực trạng trên đòi hỏi chúng ta phải đi tìm hiểu rõ nguyên nhân để làm 
cơ  sở  cho giải pháp sau này. Ngoài nguyên nhân chủ  quan như  không kiểm 
soát được thời lượng, mục đích sử  dụng Internet của bản thân,… thì nguyên 

nhân khách quan cũng đóng vai trò quan trọng đối với thực trạng đang được 
nói đến như: Độ tuổi, giới tính, môi trường sống… Ở đây, tôi xin đề  cập sâu 
tới sự tác động của môi trường sống, bởi hai lý do. Thứ nhất, đối tượng sinh 
viên mà chúng tôi tiếp cận được hầu hết  ở  cùng độ  tuổi(20 tuổi) và trường  
Đại học Nội Vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam là trường mang đặc tính xã 
hội nên tỉ  lệ  nam nữ  rất chênh lệch, nghiêng về  nữ, vì vậy việc nghiên cứu 
trên hai khía cạnh độ tuổi và giới tính hoàn toàn không phù hợp. Thứ hai, sinh  
viên trong đến từ khắp các tỉnh thành trên cả nước, chứ không tập trung ở chỉ 

20


một khu vực nào cả, nên việc tìm hiểu về  yếu tố  môi trường sống không  
mang tính khả thi.
Hiện nay các bạn trẻ  nói chung và các bạn sinh viên trường Đại học 
Nội Vụ Hà Nội phân hiệu tại Quảng Nam nói riêng đang có dấu hiệu nghiện  
Internet do sự  lạm dụng Internet. Và theo như  khảo sát cho thấy: có sự  khác  
biệt rõ rệt về thời lượng truy cập mạng đối với hai nhóm đối tượng (Ở cùng 
bố  mẹ  và không  ở  cùng với bố  mẹ).56 sinh viên trong tổng số  mẫu khảo sát 
sử dụng Internet trên 3h, trong đó chỉ có 15 sinh viên đang ở với bố mẹ, còn lại 
là ở kí túc xá, hoặc với bạn bè, họ hàng. Điều đó có nghĩa là trong số 60% sinh  
viên(có dấu hiệu nghiện) thì có tới 44%  không sống với bố  mẹ  và 16% sinh  
viên còn lại thì sống với bố  mẹ. Số  liệu trên cho ta biết được rằng khi sinh 
viên sống  ở  KTX hay  ở  trọ hay sống với họ hàng (không sống chung với bố 
mẹ) thì hầu như bị Internet chi phối nhiều hơn là những sinh viên sống với bố 
mẹ.
Có 44% trường hợp còn lại có dấu hiệu nghiện Internet thì không sống 
với bố  mẹ. Khi không sống chung với bố  mẹ, sinh viên hầu như  không chịu 
sự  kiểm soát từ  gia đình. Trong trường hợp sinh viên online khuya thì bạn bè  
hoặc hàng sống chung ít khi nhắc nhở  hoặc nếu có cũng không mang tính  

nghiêm khắc vì sự tôn trọng cá nhân. Các bạn được tự do muốn làm gì thì làm, 
không bị ai bắt buộc làm gì hay bị ràng buộc bởi những công việc bếp núc nhà  
cửa, do đó hễ  khi có thời gian rảnh rỗi thì các bạn lại nghĩ đến online. Ngoài  
ra, hoạt động đi ra ngoài chơi như du lịch, xem phim, mua sắm,… dù là hoạt 
động ưa thích của sinh viên nhưng không thường xuyên vì vấn đề  địa lívà tài  

21


chính, các bạn sinh viên ngoài tiền sinh hoạt phí hằng tháng bố  mẹ  gửi ra thì  
chưa thể kiếm được tiền, cho nên rất nhiều sinh viên chọn Internet như là một  
hình thức giải trí thường nhật để có thể vừa tiết kiệm tiền vừa có thể kết nối 
với thế  giới bên ngoài bất cứ lúc nào. Các dấu hiệu nghiện Internet dần dần 
hình thành từ những nguyên nhân trên.
2.5. Sự tự nhận thức của sinh viên về hành vi sử dụng Internet của 
bản thân
Song   song   với   việc   tìm   hiểu   và   đưa   ra   đánh   giá   tình   hình   sử   dụng 
Internet của sinh viên tôi cũng tiến hành khảo sát vấn đề  sinh viên có nhận 
thức đúng được thói quen sử dụng Internet của bản thân? Điều này góp phần  
quan trọng trong việc tìm ra giải pháp cho thực trạng. Vì chúng tôi đã đưa ra 
giả  thuyết rằng: nếu sinh viên biết rõ được quá trình sử  dụng Interknet của 
mình thì sẽ  dễ  dàng hơn trong việc điều chỉnh hành vi. Qua khảo sát, tôi thu 
thập được kết quả như sau:
   Bảng 1 ­ Sự tự đánh giá về mức độ hiệu quả sử dụng Internet 
Mức độ hiệu quả

22

Kết quả
Số lượng


Tỉ lệ ( % )

Rất hiệu quả

0

0

Hiệu quả

52

47.3

Ít hiệu quả

42

38.2

Không hiệu quả

10

9.1

Chưa từng nghĩ đến

6


5.5


Từ bảng trên, ta có 52 sinh viên( chiếm 47,3%)  tự đánh giá bản thân sử 
dụng Internet hiệu quả  và 42 sinh viên ( chiếm 38,2%) sinh viên tự  cho rằng 
mình sử dụng Internet ít hiệu quả và không hiệu quả. Nhìn chung thì sinh viên  
đã có sự  tự  đánh giá về  mức độ  hiệu quả  việc sử  dụng Internet  tương đối 
chính xác. Vì như những nghiên cứu  ở  các mục trước, ta biết được tỉ  lệ  sinh 
viên bị  Internet chi phối là  ở  mức xấp xỉ  ½ tổng đơn vị  mẫu. Một nửa số 
người được khảo sát cho rằng dùng Internet hiệu quả và gần một nửa còn lại  
cho   rằng   họ   sử   dụng   Internet   chưa   được   hiệu   quả.   Lý   giải   cho   kết   quả 
này,chúng tôi ghi nhận được các chia sẻ từ sinh viên rằng có những khó khăn  
nhất định khiến họ sử dụng chưa triệt để những lợi ích mà Internet mang lại.
Những khó khăn mà sinh viên gặp phải khi sử  dụng Internet như dễ bị 
sao lãng, mất tập trung vào việc học, chưa biết nhiều về  các trang web hay,  
đáng tin cậy  phục vụ cho mục đích học tập, thường bị chi phối bởi các trang  
mạng xã hội các trang mạng giải trí hay các trang mạng xem phim, không 
muốn vào facebook nhưng vì mọi hoạt động liên lạc (họp nhóm hay thông báo 
nghỉ học) đều ở trên đó, không biết cách tra cứu tài liệu nhanh…
Internet tồn tại mặt lợi mặt hại, giúp sinh viên tra cứu thông tin học tập, 
liên lạc, họp nhóm hoặc giải trí . Tuy nhiên, nếu không tập trung vào việc 
chính và để  cho trí tò mò lấn át thì   sinh viên có thể  tiêu tốn thời gian vào 
những thứ vô bổ. Khó khăn lớn nhất mà tôi nhận thấy được đó là khi sử dụng  
Internet sinh viên không xác định mục đích rõ ràng. Khoảng thời gian nghỉ trưa,  
sinh viên không nghỉ ngơi mà lại lên các trang mạng xã hội với mục đích ban 
đầu chỉ  là xem thông báo hay  xem tin nhắn(chỉ  cần từ 5 tới 10 phút), nhưng 

23



sau đó lại mất quá nhiều thời gian lang thang từ trang này kéo theo trang kia 
mà không có điểm dừng.
Nhìn chung, sinh viên trường Đại học Nội Vụ  Hà Nội phân hiệu tại  
Quảng Nam đã nhận ra được các vấn đề  mà bản thân đang gặp phải trong  
việc sử  dụng Internet…Ngoài sách báo, Internet là một công cụ  hỗ  trợ  tìm 
kiếm đắc lực cho học tập cũng như  các hoạt động khác của sinh viên, tuy 
nhiên, bản thân họ  lại chưa tìm ra cách giải quyết cho các vấn đề  của mình.  
Vì thế  việc đi tìm giải pháp thiết thực cho thực trạng này là một trong hai 
nhiệm vụ chính của bài nghiên cứu này.
2.6. Hiện tượng nghiện Internet
Internet đóng một phần quan trọng đối với đời sống con người, đặc biệt  
trong giai đoạn phát triển nhanh chóng về  mọi mặt của xã hội như  hiện nay,  
từ thông tin liên lạc, giáo dục, nghiên cứu khoa học, giải trí,… Chúng ta có thể 
dễ dàng nhận thấy sức ảnh hưởng của nó đến hiệu quả công việc. Tuy nhiên, 
chính vì điều đó cùng với sự thiếu kiểm trong việc sử dụng mạng đã làm nảy  
sinh một vấn đề, một hệ lụy bên cạnh những mặt tích cực mà nó mang lại đó 
là nghiện Internet. 
Nghiện Internet không còn là một hiện tượng mới lạ  trong xã hội, tuy  
nhiên, đến nay vẫn chưa thể  đưa ra được định nghĩa chính xác, thống nhất  
cũng như có những tiêu chuẩn để đánh giá đúng các trường hợp người dùng có 
thật sự  vượt quá thời gian cần thiết sử  dụng Internet, hay còn gọi là nghiện 
Internet hay không. Ngoài ra, về  mặt y học, thuật ngữ “nghiện Internet” vẫn  
còn là vấn đề  gây tranh cãi. Vì, liệu rằng “nghiện” có được dùng đúng với ý 

24


nghĩa của nó để chỉ các bệnh lý liên quan đến các chất hóa học ảnh hưởng lên 
cơ thể.

Tuy nhiên, dựa vào các thông tin đã thu thập được về  những mặt tiêu 
cực của Internet, chúng tôi quyết định dùng thuật ngữ  “nghiện Internet” trong 
bài nghiên cứu này để thuận tiện cho việc truyền tải nội dung.
Nguyên nhân cơ  bản khiến hình thành nghiện Internet được cho là do 
người đó chọn Internet là cách để đáp ứng, khắc phục những thay đổi về tinh 
thần, tâm lý như trầm cảm, căng thẳng, mệt mỏi, chán nản,….nhằm đem lại  
sự hài lòng, thỏa mãn cho người nghiện.
2.6.1. Biểu hiện
Internet phục vụ  nhiều nhu cầu khác nhau của người dùng, do đó mục 
đích và thời gian sử dụng Internet là khác nhau đối với mỗi người. Không thể 
đưa ra một con số  cụ  thể  về  thời gian cần thiết cho việc sử dụng nó. Việc  
đánh giá các biểu hiện về nghiện Internet chỉ mang tính tương đối dựa trên các  
hành vi sử dụng của người dùng. Sau đây là các biểu hiện ban đầu được cho 
là nghiện Internet:
Thứ nhất, thường xuyên truy cập Internet mà không có mục đích cụ thể, 
thời gian truy cập kéo dài hơn mức cần thiết mà bản thân không nhận thức  
được.
Thứ hai, luôn có suy nghĩ về  các hoạt động Internet đã thực hiện hoặc  
dự tính các hoạt động online tiếp theo.

25


×