Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Kết quả điều trị phẫu thuật triệt để ung thư vùng rốn gan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.4 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT TRIỆT ĐỂ
UNG THƯ VÙNG RỐN GAN
Võ Văn Hùng*, Trần Vĩnh Hưng*, Nguyễn Cao Cương*, Lê Hữu Phước*, Lương Thanh Tùng*,
Võ Thiện Lai*, Nguyễn Hải Đăng*, Hồ Trung Dũng*

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ung thư rốn gan (u Klatskin) là bệnh thường gặp, tiên lượng xấu, phẫu thuật triệt để giúp cải
thiện thời gian sống bệnh nhân, tuy nhiên đây là một phẫu thuật phức tạp chưa được phổ biến rộng rãi tại Việt
Nam. Mục tiêu nghiên cứu đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật triệt để điều trị ung thư rốn gan.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu mô tả hàng loạt trường hợp.
Kết quả: Từ 08/2016 đến 10/2017 tại bệnh viện Bình Dân, 08 trường hợp phẫu thuật triệt để điều trị ung
thư rốn gan. Độ tuổi trung bình 58 tuổi, 5 nam, 3 nữ. Thời gian mổ trung bình 190 – 270 phút. Lượng máu mất
trung bình 350 ml, không truyền máu trong khi mổ. Tỉ lệ biến chứng 50%, 2 TH phẫu thuật lại: 1 TH chảy máu
sau mổ (12,5%), 1 TH bung thành bụng (12,5%); 2 TH rò mật được điều trị bảo tồn (25%). Không có tử vong
cho đến thời điểm hiện nay.
Kết luận: Phẫu thuật tương đối an toàn, bước đầu cho thấy cải thiện tiên lượng sống cho người bệnh.
Từ khóa: Ung thư vùng rốn gan, u Klatskin.

ABSTRACT
THE EARLY RESULTS OF RADICAL RESECTION FOR HILAR CHOLANGIOCARCINOMA
Vo Van Hung, Tran Vinh Hung, Nguyen Cao Cuong, Le Huu Phuoc, Luong Thanh Tung,
Vo Thien Lai, Nguyen Hai Dang, Ho Trung Dung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 292 - 297
Background: Hilar cholangiocarcinoma (Klatskin’s tumor) is common, poor prognosis, radical resection
helps to improve the survival in patients. However, this is a complex surgery and not widely available in Viet
Nam. The objective of this study was to evaluate the early results of the radical resection for treatment hilar
cholangiocarcinoma.


Materials and methods: Prospective study of cases series.
Results: From 08/2016 to 10/2017 at Binh Dan Hospital, a total of 8 cases. The average age is 58, 5 males, 3
females. The mean operative time was 190 – 270 minutes. The mean blood loss was 350 ml, no blood transfusions
in operating. Complication rate was 50%, Two cases were reoperated: 1 postoperative bleeding (12.5%), 1 wound
dehiscence (12.5%), and 2 bile leakage treated conservatively. No deaths until now.
Conclusion: Radical resection is a safe, and could improve survival of patients.
Key words: Hilar cholangiocarcinoma, Klatskin’s tumor.
Klatskin. Vào giai đoạn phát hiện bệnh, u
MỞ ĐẦU
thường đã xâm lấn nhu mô gan và các cấu trúc
Ung thư đường mật rốn gan chiếm khoảng
lân cận như mạch máu và các cấu trúc bạch
60 - 80% ung thư đường mật, còn được gọi là u
huyết. Do bản chất xâm lấn tại chỗ và do vị trí
* Bệnh viện Bình Dân
Tác giả liên lạc: TS.BS.Võ Văn Hùng ĐT: 0903851378 Email:

292

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

Nghiên cứu Y học

quan trọng của vùng rốn gan, khả năng phẫu
thuật điều trị triệt để ít và khó thực hiện. Chỉ
có 15 – 30% trường hợp ung thư đường mật
vùng rốn gan có thể cắt bỏ được(8). Phẫu thuật

triệt để là phương pháp duy nhất cải thiện
thời gian sống còn của bệnh nhân, cắt u vùng
rốn gan kết hợp cắt thùy gan mở rộng làm
tăng tỉ lệ sống 5 năm của bệnh nhân(1,7,9). Một
số nghiên cứu có kết quả sống sau 5 năm 20 45%. Tuy nhiên, tỉ lệ biến chứng 35 – 50%,
phẫu thuật càng lớn càng tăng tỉ lệ tử vong
của phẫu thuật, tỉ lệ tử vong nói chung <
10%(8). Nghiên cứu phẫu thuật triệt để điều trị
u rốn gan của Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng
6/2008 đến tháng 07/2011, 31 bệnh nhân gồm
22 nam (71%), 9 nữ (29%), tai biến trong mổ
gồm rách tĩnh mạch cửa 12 TH (38,8%), rách
động mạch gan 11 TH (35,5%), rò mật sau mổ
điều trị bảo tồn thành công 15/16 TH (93,75%),
có 4 TH tử vong sau mổ do nhiễm khuẩn
huyết và suy gan(4).

Phương pháp nghiên cứu

Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá kết
quả điều trị u vùng rốn gan bằng phẫu thuật
triệt để tại Bệnh viện Bình Dân.

Chỉ định và chống chỉ định phẫu thuật triệt để
Các trường hợp còn phẫu thuật triệt để:
Bismuth – Corlette type I, II, III chưa xâm lấn
tĩnh mạch cửa chính. Xâm lấn mạch máu 1 bên
nhưng có thể cắt bỏ cùng với sang thương
nguyên phát không phải là chống chỉ định phẫu
thuật triệt để.


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu

Tiêu chuẩn chọn bệnh
Chúng tôi chọn những BN ung thư vùng rốn
gan được điều trị tại Bệnh viện Bình Dân trong
thời gian nghiên cứu từ tháng 08/2016 đến
10/2017, BN có các tiêu chuẩn sau:
Được chẩn đoán bệnh lý ác tính vùng rốn

Thiết kế nghiên cứu
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tiến cứu,
hàng loạt trường hợp.
Phương pháp nghiên cứu lâm sàng và cận lâm sàng
Đặc điểm chung: tuổi, giới, địa dư.
Các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng.
Phân loại theo Bismuth – Corlette

Hình 1. Phân loại Bismuth – Corlette
Phân loại dạng u rốn gan: dạng thâm nhiễm,
dạng u, dạng nhú.
Tỉ lệ biến chứng, tử vong.
Phương pháp điều trị

Chống chỉ định trên những bệnh nhân đã có
di căn xa, báng bụng. Phần gan còn lại không
đảm bảo chức năng gan.

Trang thiết bị, dụng cụ

Bộ dụng cụ đại phẫu, có các kẹp mạch máu.

gan qua chụp cắt lớp điện toán hoặc cộng hưởng

Siêu âm trong khi mổ.

từ mật tụy. Kết quả giải phẫu bệnh sau thủ thuật

Dao Harmonic, Ligasure.

/ phẫu thuật chẩn đoán xác định.
Bệnh nhân được thực hiện phẫu thuật cắt u
vùng rốn gan, có hoặc không cắt gan kết hợp.

Tiêu chuẩn loại trừ
Có nguy cơ phẫu thuật cao: ASA > 3.
Bệnh nhân không đồng ý can thiệp.

X quang đường mật trong khi mổ (khi có giải
phẫu bất thường).
Kỹ thuật cắt u rốn gan triệt để

Các bước tiến hành
Đánh giá tình trạng di căn ổ bụng và các cơ
quan trong ổ bụng: Đánh giá tình trạng di căn
gan, phúc mạc, các hạch vùng đầu tụy, rốn gan...

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018

293



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

Đánh giá khả năng cắt được bướu rất quan trọng
có thể kết hợp siêu âm trong khi mổ.
Tách túi mật khỏi giường túi mật không cắt

ĐM và ống túi mật, có thể hút hết dịch mật trong
túi mật và sử dụng túi mật để kéo (retractor) bộc
lộ đường mật.

Hình 2. Bóc tách ĐM gan và TMC khỏi OMC
Bóc tách bắt đầu từ phía dưới, ĐM gan
chung và TM cửa được bộc lộ từ trên tụy, bóc
tách xung quanh 2 mạch máu từ dưới lên trên.
Tách ĐM gan về phía T và TM cửa về phía P,
chừa lại các mô lân cận OMC.

Hình 3. Cắt ngang OMC, bóc tách ngược lên trên
Hình 5. Cắt gan và u rốn gan
Type I và II: cắt OMC và túi mật, đôi khi cần
cắt 1 phần gan thường là thùy đuôi. Type III và
IV thường kèm theo cắt gan lớn.
Nạo hạch vùng rốn gan.
Khâu nối: nối đường mật và hỗng tràng,
đảm bảo đến mô lành (cách u 5-10 mm), tạo hình
đường mật đủ lớn để nối niêm – niêm.


Hình 4. Cắt 2 ống gan

294

Sau mổ cần theo dõi chức năng gan, chức
năng đông máu đặc biệt trong những trường
hợp có cắt gan lớn.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Đánh giá kết quả của phẫu thuật
Kết quả sớm: tỉ lệ tai biến trong khi mổ, tỉ lệ
biến chứng trong vòng 30 ngày sau mổ, tỉ lệ tử
vong của phẫu thuật.
Kết quả lâu dài: tỉ lệ biến chứng muộn, tỉ lệ
tái phát, thời gian sống sau mổ.

KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 08/2016
đến 10/2017, chúng tôi đã thực hiện 8 TH phẫu
thuật triệt để điều trị ung thư vùng rốn gan.
Tuổi trung bình 58 tuổi, 5 nam và 3 nữ.
Đặc điểm lâm sàng: bệnh cảnh lâm sàng là
vàng da tắc mật, không có trường hợp nào cần
can thiệp dẫn lưu đường mật trước mổ. Có 7 TH
tăng bilirubin từ 68,9 – 431 µmol/L, và 1 TH chưa
có tăng bilirubin 6,4 µmol/L. Tăng CA 19-9 trên 4

TH từ 405,3 – 1200 U/mL, còn lại giá trị CA 19-9
từ 18,4 – 51,8 U/mL.
Chẩu đoán hình ảnh trước mổ có 3 TH có
xâm lấn gan, 2 TH gan T (1 TH có xâm lấn thùy
đuôi), 1 TH HPT 4a. Các trường hợp này được
cắt gan kèm theo.
Phân loại về đại thể: dạng polyp 1 TH, còn
lại 7 TH dạng thâm nhiễm, kết quả giải phẫu
bệnh lý là carcinoma biệt hóa vừa.
Bảng 1. Phân loại theo Bismuth – Corlette
Loại
I
II
IIIb
IV

Số TH
1
4
2
1

Tỉ lệ (%)
12,5
50
25
12,5

Bảng 2. Phương pháp phẫu thuật
PP phẫu thuật

Cắt u, ống gan chung, OMC, túi
mật, nối mật – ruột
Cắt u, ống gan chung, OMC, túi
mật, nối mật – ruột + cắt gan T
Cắt u, ống gan chung, OMC, túi
mật, nối mật – ruột + cắt HPT
4a

Số TH

Tỉ lệ (%)

5

62,5

2

25

1

12,5

Trong 2 TH có cắt gan T, có 1 TH có cắt thùy
đuôi kèm theo.
Thời gian mổ trung bình của cắt u, ống gan
chung, OMC, nối mật – ruột là 190 phút (180 –

Nghiên cứu Y học


210 phút), cắt u, ống gan chung, OMC, nối mật –
ruột + cắt gan T là 270 phút (210 phút và 330
phút), cắt u, ống gan chung, OMC, nối mật – ruột
+ cắt HPT 4a là 240 phút.
Lượng máu mất trong khi mổ trung bình 350
ml (150 – 700 ml), không có trường hợp nào
truyền máu trong khi mổ.
Tai biến trong khi mổ: có 2 TH rách tĩnh
mạch cửa, được may cầm máu, không trường
hợp nào tổn thương động mạch gan.
Bảng 3. Tỉ lệ biến chứng
Biến chứng
Rò mật
Chảy máu
Bung vết mổ

Số TH
2
1
1

Tỉ lệ (%)
25
12,5
12,5

Tỉ lệ biến chứng chung 50%, trong đó các
trường hợp rò mật tự hết không cần mổ lại. Có 2
TH can thiệp phẫu thuật lại:

Chảy máu: trường hợp này bệnh nhân 60
tuổi, trước mổ có tình trạng rối loạn đông máu,
đã được điều chỉnh rối loạn đông máu trước mổ.
Phân loại type II, phương pháp phẫu thuật cắt u,
ống gan chung, OMC, túi mật, nối mật – ruột.
BN bị chảy máu qua dẫn lưu ngày hậu phẫu thứ
1, khi mổ lại máu chảy từ chỗ bóc tách vùng rốn
gan. Sau phẫu thuật lần 2, BN ổn định và xuất
viện sau 13 ngày.
Bung vết mổ: BN 52 tuổi, phân loại type IIIb,
phương pháp phẫu thuật cắt u, ống gan chung,
OMC, túi mật, nối mật – ruột + cắt gan T. BN có
bệnh lý đái tháo nhạt trước mổ, sau mổ BN rối
loạn điện giải, dinh dưỡng kém, thành bụng bị
nhiễm trùng và bung vết mổ hậu phẫu ngày 27,
được mổ lại thám sát các miệng nối tốt, đóng
bụng bằng chỉ thép.
Không có trường hợp nào tử vong sau
phẫu thuật.
Theo dõi
Chúng tôi theo dõi được 6 trường hợp, tất cả
các trường hợp đều còn sống, 2 trường hợp phẫu
thuật lâu nhất cách đây 14 tháng, các trường hợp
còn lại cách đây 2-6 tháng.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018

295



Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018

BÀN LUẬN
Ung thư rốn gan là bệnh lý thường gặp tại
các trung tâm Ngoại khoa tại nước ta. Bệnh cảnh
lâm sàng thường gặp là vàng da tăng dần, sụt
cân. Tuổi trung bình theo các nghiên cứu trong
và ngoài nước từ 51-61 tuổi, nam nhiều hơn
nữ(5,12). Nghiên cứu chúng tôi có kết quả tương
tự. Chẩn đoán bệnh dựa vào siêu âm, chụp cắt
lớp vi tính động, chụp cộng hưởng từ mật tụy,
các phương tiện này giúp đánh giá cây đường
mật, phân loại Bismuth – Corlette, mức độ xâm
lấn mạch máu, hạch… Nội soi qua siêu âm và
sinh thiết kim nhỏ để chẩn đoán tế bào học và
mô học có độ nhạy 84%, độ đặc hiệu 100%, chẩn
đoán được hạch vùng, giai đoạn, khả năng cắt
triệt để. Tuy nhiên, sinh thiết kim nhỏ nên thực
hiện khi không còn khả năng cắt triệt để, có ích
khi bắt đầu hóa trị(12).
Có nhiều phương pháp điều trị tùy theo giai
đoạn bệnh và thể trạng của bệnh nhân. Bệnh
nhân bị ung thư đường mật rốn gan không còn
khả năng phẫu thuật triệt để có thể được áp
dụng các phương pháp điều trị tạm không phẫu
thuật như đặt stent qua nội soi mật tụy ngược
dòng (Endoscopic Retrograde Cholangio
Pancreatography: ERCP) hoặc dẫn lưu xuyên

gan qua da (Percutaneous transhepatic biliary
drainage: PTBD). Cả 2 phương pháp đều có tỉ lệ
biến chứng như viêm đường mật, chảy máu, dò
mật, hẹp tái phát do nghẽn stent. Đây là bệnh lý
có tiên lượng rất xấu, nếu không điều trị, bệnh
nhân tử vong do suy gan trong vòng 3 – 6 tháng
từ khi có triệu chứng lâm sàng (chung cho tất cả
giai đoạn bệnh)(1). Nói chung, nếu u không cắt
được, dù kết hợp nhiều phương pháp điều trị,
thời gian sống trung bình chỉ 5 – 8 tháng kể từ
khi phát bệnh. Tại BV Bình Dân, ung thư rốn gan
là bệnh lý thường gặp, tất cả các trường hợp
trong các nghiên cứu trước đây đều được điều
trị tạm bợ, như phẫu thuật thám sát, sinh thiết
hóa trị hoặc đặt dẫn lưu xuyên u, dẫn lưu đường

296

mật xuyên gan qua da … thời gian sống sau mổ
từ 9 – 11 tuần(2,3).
Phẫu thuật triệt để là phương pháp duy nhất
cải thiện thời gian sống còn của bệnh nhân, cắt u
vùng rốn gan kết hợp cắt thùy gan mở rộng làm
tăng tỉ lệ sống 5 năm của bệnh nhân. Một số
nghiên cứu có kết quả sống sau 5 năm 20 - 45%.
Tuy nhiên, tỉ lệ biến chứng 35 – 50%, phẫu thuật
càng lớn càng tăng tỉ lệ tử vong của phẫu thuật,
tỉ lệ tử vong nói chung < 10%(1). Tại bệnh viện
Việt Đức, có 14,5% trường hợp ung thư đường
mật được mổ triệt để, tử vong sau mổ cao

(41,4%). BV Chợ Rẫy (2014), báo cáo 38 TH phẫu
thuật triệt để ung thư vùng rốn gan, có tỉ lệ tử
vong 10,53%(5). Các tác giả Nhật Bản thực hiện
phẫu thuật lớn và triệt để điều trị ung thư đường
mật bao gồm cắt toàn bộ đường mật ngoài gan
và cắt tá tụy điều trị ung thư rốn gan. Giai đoạn
đầu thập niên 1980 có tỉ lệ suy gan và tử vong
cao 25%, gần đây nhờ cải tiến kỹ thuật, chọn lựa
bệnh nhân, chuẩn bị trước mổ, thuyên tắc tĩnh
mạch cửa… tỉ lệ tử vong đã giảm, hiện nay còn
13 – 21%, một số báo cáo không có tử vong, tỉ lệ
sống còn 12 – 64%(6). Chúng tôi đã thực hiện 8
TH với thời gian mổ trung bình 190 – 270 phút
tùy loại phẫu thuật. Lượng máu mất trong khi
mổ ít, không có trường hợp nào truyền máu
trong khi mổ. Tai biến trong khi mổ: có 2 TH
rách tĩnh mạch cửa, được may cầm máu, không
trường hợp nào tổn thương động mạch gan. Tỉ lệ
biến chứng còn cao 50%, có 2 TH phải mổ lại,
không có trường hợp nào tử vong.
Bảng 4. Tỉ lệ biến chứng của các nghiên cứu
Biến chứng Biến chứng
Tử
chung (%)
nặng (%) vong(%)
BV Srimagrind*(10)
76,6
6,7
Regimbeau JM (13)
61

8,2
Lee SG (11)
43
7
1,7
Đ.H. Liệt (4)
60,3
10,4
Chúng tôi
50
0

* Giai đoạn 2006 – 2012, áp dụng thuyên tắc tĩnh
mạch cửa tăng thể tích gan còn lại, tỉ lệ biến chứng
sau mổ giảm còn 40,4%, tử vong còn 3%(10).

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Có 1 một số yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ biến
chứng và tử vong sau mổ theo nghiên cứu của
Lee SG là di căn hạch và cắt R0, ngoài ra dẫn lưu
đường mật trước mổ và thuyên tắc tĩnh mạch
trước mổ sẽ là giảm tỉ lệ biến chứng và tử vong
trên các bệnh nhân được cắt gan lớn(11). Nghiên
cứu của Regimbeau JM., kích thước u của tác giả
trung bình là 23 mm (8 – 40 mm), u > 30 mm có
tiên lượng xấu và có liên quan với thời gian sống
< 12 tháng khi phân tích đa biến(12).


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

4.

5.

Bảng 5. Thời gian sống sau mổ
(10)

BV Srimagrind
(12)
Regimbeau JM
R0
(11)
Lee SG
R1

1 năm (%)
33
85
84,6
69,9

3 năm (%)
10
64

50,7
33,3

5 năm (%)
6.

53
47,3
7,5

Nghiên cứu của BV Srimagrind trong giai
đoạn 2006 – 2012, có áp dụng thuyên tắc tĩnh
mạch cửa tăng thể tích gan còn lại, thời gian
sống trung bình là 16,3 tháng, thời gian sống sau
3 năm và 5 năm là 27,32% và 10,93%(10). Nghiên
cứu của Đỗ Hữu Liệt có thời gian sống trung
bình 21,38 tháng (3-53 tháng)(5). Các bệnh nhân
chúng tôi theo dõi được đều còn sống, 2 trường
hợp lâu nhất là 14 tháng.

7.

8.

9.

10.

11.


KẾT LUẬN
Ung thư rốn gan là bệnh lý thường gặp, đa
số đến trễ, không còn khả năng phẫu thuật triệt
để, hoặc cắt được nhưng chỉ được R1 nên tiên
lượng còn rất xấu. Phẫu thuật cắt u và cắt gan là
phẫu thuật phức tạp, còn nhiều biến chứng và tử
vong nhưng cải thiện thời gian sống tốt hơn so
với các phẫu thuật dẫn lưu. Kết quả bước đầu
của chúng tôi tương đối tốt và có thể thực hiện
nhiều hơn trong tương lai.

Nghiên cứu Y học

12.

13.

14.

Akoad M, Jenkins R (2008). Proximal Biliary Malignancy.
Surg Clin North Am; 88:1409-1428.
Dương Văn Hải, Văn Tần (1994). Điều trị ngoại khoa ung thư
đường mật ngoài gan. Y Học TP. Hồ Chí Minh; 5:81-100.
Dương Văn Hải, Văn Tần (1999). Đặc điểm lâm sàng và hiệu
quả phẫu thuật ung thư đường mật ngoài gan. Y Học TP. Hồ
Chí Minh;10: 70-73.
Đỗ Hữu Liệt, Nguyễn Tấn Cường, Đoàn Tiến Mỹ, Phạm Hữu
Thiện Chí, Lê Trường Chiến (2012). Phẫu thuật triệt để điều
trị u rốn gan: đặc điểm hình thái bệnh học quyết định tiên
lượng sống còn. Y Học TP. Hồ Chí Minh;16(1):17 – 21.

Đỗ Hữu Liệt, Nguyễn Tấn Cường, Đoàn Tiến Mỹ, Phạm Hữu
Thiện Chí, Lê Trường Chiến (2014). Phẫu thuật triệt để ung
thư đường mật vùng rốn gan: 38 trường hợp. Y Học TP. Hồ
Chí Minh;18(2):257 – 265.
Ebata T, Yokoyama Y, Igami T, Sugawara G, et al(2014).
Review of hepatopancreatoduodenectomy for biliary cancer:
an extended radical approach of Japanese origin. J
Hepatobiliary Pancreat Sci;2:550-555.
Han SL, et al (2009). Diagnosis and Surgical Treatment of
Intrahepatic Hepatolithiasis Associated Cholangiocarcinoma.
Asian J. Surg; 32(1):1-6.
Jackson P., Evans SRT (2012). Biliary system. In Townsend
CM. Sabiston Textbook of surgery, 19th edition, Saunders:14761214.
Kaltenthaler EC, et al (2006). MRCP compared to diagnostic
ERCP for diagnosis when biliary obstruction is suspected: a
systematic review. BMC Medical Imaging;6:9.
Khuntikeo N, et al (2014). Surgical management of perihilar
cholangiocarcinoma: a Khon Kaen experience. J Hepatobiliary
Pancreat Sci;21:521-524.
Lee SG, et al (2010). Surgical treatment of hilar
cholangiocarcinoma in the new era: the Asan experience. J
Hepatobiliary Pancreat Sci;17:476–489.
Miyazaki M, et al (2015). Clinical practice guidelines for the
management of biliary tract cancers 2015: the 2nd English
edition. J Hepatobiliary Pancreat Sci;22:249–273.
Regimbeau JM, et al (2015). Tumour size over 3 cm predicts
poor short-term outcomes after major liver resection for hilar
cholangiocarcinoma. By the HC-AFC-2009 group. HPB;17:7986.
Taylor BR, Langer B, (2007). Procedures for Benign and
Malignant Biliary Tract Disease. In Wiley WS. ACS Surgery

Principle and Practice, 6th edition, Web MD Inc: 123-131.

Ngày nhận bài báo:

19/11/2017

Ngày phản biện nhận xét bài báo:

31/12/2017

Ngày bài báo được đăng:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018

25/03/2018

297



×