Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nghiên cứu các yếu tố liên quan đến sự lo âu của người bệnh trước phẫu thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.52 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018

NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SỰ LO ÂU
CỦA NGƯỜI BỆNH TRƯỚC PHẪU THUẬT
Nguyễn Tấn Việt*, Elizabeth Esterl**, Trần Thiện Trung***

TÓM TẮT
Đại cương: Trong cuộc sống, khi xuất hiện những thay đổi (nằm viện, phẫu thuật và sự hỗ trợ xã hội) sẽ tạo
nên sự lo âu. Có rất ít thông tin nghiên cứu các yếu tố liên quan của lo âu trước phẫu thuật đặc biệt là phẫu
thuật tiết niệu trong khu vực nghiên cứu.
Mục tiêu: Xác định mức độ lo âu và các yếu tố liên quan đến lo âu trước phẫu thuật và các vấn đề hỗ trợ từ
xã hội.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang,đã tiến hành tại Khoa Tiết niệu của Bệnh viện Đại học Y Dược
thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm 96 người bệnh từ 18 tuổi trở lên trước phẫu thuật được phỏng vấn trực tiếp
trong thời gian từ 11/2017 - 6/2018. Sử dụng bộ công cụ HAD-A và MDSS để đánh giá tình trạng lo âu và hỗ
trợ từ gia đình và nhân viên y tế.
Kết quả: Tỷ lệ người bệnh có dấu hiệu lo âu trước khi thực hiện phẫu thuật là 16,7%. Điểm hỗ trợ từ gia
đình trung bình là 13,2 ± 3,2 điểm. Điểm hỗ trợ từ nhân viên y tế trung bình là 9,4 ± 2,7. Nguyên nhân dẫn đến
lo âu của người bệnh trước khi phẫu thuật chủ yếu là: sợ biến chứng 51%, sợ đau sau phẫu thuật 47,9% và lo sợ
do thời gian chờ đợi phẫu thuật lâu 46,9%. Điểm số hỗ trợ từ gia đình của nhóm không lo âu cao hơn nhóm có lo
âu. Cụ thể, nếu điểm hỗ trợ từ gia đình tăng lên 1 điểm thì tỷ lệ lo âu giảm 11% (PR = 0,89, KTC 95%: 0,81 –
0,97), p = 0,008. Những bệnh nhân nhận được tư vấn chung từ nhân viên y tế có tỷ lệ lo âu thấp hơn nhóm
không nhận được tư vấn (PR hiệu chỉnh là 0,27 KTC 95%: 0,12 – 0,62; p = 0,002).
Kết luận: Trong nghiên cứu này, mức độ lo âu của người bệnh là 16,7%. Mối quan tâm từ gia đình trung
bình là 13,2 ± 3,2 điểm, điểm hỗ trợ từ nhân viên y tế trung bình là 9,4 ± 2,7. Các yếu tố cho thấy để giảm tình
trạng lo âu là cung cấp đầy đủ thông tin và tăng cường sự hỗ trợ từ gia đình.
Từ khóa: Lo âu, lo âu trước phẫu thuật, phẫu thuật, HAD-A.

ABSTRACT


RESEARCH ON FACTORS RELATED TO THE PREOPERATIVE ANXIETY OF PATIENTS
Nguyen Tan Viet, Elizabeth Esterl, Tran Thien Trung
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 5- 2018: 158 – 164
Background: In life, changes (hospitalization, surgery and social support) will create anxiety. There is very
little information on the relevant factors of preoperative anxiety, particularly urology in the study area.
Objectives: Determination of anxiety levels and factors related to preoperative anxiety and social support issues.
Methods: A cross-sectional descriptive study was conducted at the Department of Urology at the University
Medical Center HCMC, including 96 patients aged 18 years and older who were interviewed directly during the
period from 11/2017 to 6/2018.Used HAD-A and MDSS tools to assess anxiety and social support.
Results: The percentage of patients with signs of anxiety before performing the surgery is 16.7%. The
average family support score was 13.2 ± 3.2. The support from the medical staff averaged 9.4 ± 2.7. Causes
* Điều dưỡng – Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
**University of Northern Colorado – School of Nursing.
***Bộ môn Ngoại- Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả liên lạc: BS.Nguyễn Tấn Việt,
ĐT: 0937755884,
Email:

158

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018

Nghiên cứu Y học

leading to anxiety of patients before surgery are mainly: fear of complication 51%, fear of postoperative pain
47.9% and fear of long waiting surgery 46.9%. The support score from the family of the non-anxiety group was
higher than that of the anxious group. Specifically, if the family support score increased to 1 point, the anxiety rate

decreased by 11% (PR = 0.89, 95% CI: 0.81 - 0.97), p = 0.008. Patients receiving general counselling from healthcare workers had lower rates of anxiety than non-receiving’s (PR adjusted 0.27 to 95% CI: 0.12 to 0.62, p = 0.002).
Conclusions: In this study, the anxiety level of the patients was 16.7%. The average family support score
was 13.2 ± 3.2, the supportive point from the average health worker was 9.4 ± 2.7. Factors to reduce anxiety are
providing adequate information and increased support from the family.
Keywords: Anxiety, preoperative anxiety, surgery, HAD-A.
trí tuệ, bất đồng ngôn ngữ).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cuộc sống ngày càng hiện đại và văn minh
thì con người có nhiều sự lo âu trong đó có lo âu
về phẫu thuật. Trong một số nghiên cứu, mức
độ lo âu dao động từ 30% - 90%(1,2,4,6). Mức độ
lo âu trước phẫu thuật cao ảnh hưởng tiêu cực
đến việc hồi phục và kiểm soát đau sau phẫu
thuật(1,5).
Các triệu chứng lo âu trước khi phẫu thuật
ảnh hưởng đến việc gây tê và an thần của bệnh
nhân cũng như ảnh hưởng đến nhịp tim của
bệnh nhân(3,4). Điều này có thể làm tăng nguy
cơ nhiễm trùng và mức độ phục hồi trong giai
đoạn hậu phẫu(7).
Trong các phẫu thuật về bụng, tỉ lệ phẫu
thuật về tiết niệu còn cao chiếm 20%(2). Có rất ít
thông tin trước phẫu thuật về cái vấn đề lo âu
của người bệnh phẫu thuật tiết niệu tại khu vực
nghiên cứu. Vì vậy, “Nghiên cứu các yếu tố liến
quan đến sự lo âu của người bệnh trước phẫu
thuật”sẽ giúp cho việc nâng cao chất lượng chăm
người bệnh được sóc tốt hơn.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Đối tượng nghiên cứu

Tiêu chuẩn chọn mẫu
Người bệnh từ 18 tuổi trở lên có chỉ định
phẫu thuật tiết niệu theo chương trình tại Khoa
Tiết niệu của bệnh viện Đại học Y Dược TP
HCM từ 11/2017 đến 6/2018.
Tiêu chuẩn loại trừ
Người bệnh không hợp tác (tâm thần, sa sút

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Cỡ mẫu
N = 96 người bệnh.
Phương pháp nghiên cứu
Dữ liệu được thu thập bằng cách sử dụng 04
bảng câu hỏi bao gồm:
Phần 1: bảng thông tin nhân khẩu học, tình
trạng bệnh và thông tin tư vấn của bệnh nhân
gồm 21câu.
Phần 2: bảng câu hỏi mức độ lo âu của người
bệnh (HADS-A) gồm 07 câu.
Phần 3: bảng câu hỏi hỗ trợ về xã hội (MDSS)
gồm 11 câu.
Phần 4: các vấn đề lo âu ở bệnh nhân gồm 11
chọn lựa.
Trong phần này (HADS-A) được sử dụng để
đo mức độ lo âu.

HADS-A được phát triển do Zigmond và
Snaith (1983)(11). Điểm lo âu là tổng số điểm
cho tất cả bảy câu, dao động từ 0 đến 21. Điểm
lo âu được tính như sau: 0 – 7 không lo âu, 8 –
10 có lo âu, 11 – 21 lo âu. HADS-A đã được
dịch sang tiếng Việt và sử dụng để đánh giá
tình trạng lo âu trước phẫu thuật do Võ Thị
Yến Nhi(2,8). Hiệu lực nội dung (CVI) của
HADS-A là 1. Các alpha của Cronbach được
trình bày trong các nghiên cứu trước đây dao
động từ 0,80 đến 0,81(2). Điểm càng cao thì
mức độ lo âu ở người bệnh càng tăng.
Quy mô Hỗ trợ Đa chiều (MDSS) được sử
dụng để đánh giá sự hỗ trợ xã hội. Nó được
phát triển do Winefield và cộng sự (1992)(9).
MDSS đã được điều chỉnh và dịch sang tiếng

159


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018

Việt sử dụng để đánh giá tình trạng lo âu
trước phẫu thuật trong nghiên cứu của Đỗ Cao
Cường(2), Võ Thị Yến Nhi(8). Chỉ số độ tin cậy
cho toàn bộ 11 câu là 0,9, hỗ trợ y tế là 0,81, hỗ
trợ gia đình/bạn bè 0,85.
Dụng cụ này có 11 mục bao gồm 06 mục hỗ

trợ gia đình/bạn bè và 05 mục hỗ trợ từ các
chuyên gia y tế, với thang điểm đánh giá 4 điểm:
0 = không bao giờ,1 = đôi khi, 2 = thường xuyên,
và 3 = luôn luôn. Do đó, tổng số điểm hỗ trợ gia
đình/bạn bè dao động từ 0 đến 18 và tổng số
điểm hỗ trợ chuyên môn y tế dao động từ 0 đến
15. Điểm số cao hơn thể hiện sự hỗ trợ xã hội tốt
hơn theo nhận thức của người bệnh.
Xử lý số liệu
Số liệu thu thập được mã hóa, nhập và xử lý
số liệu bằng phần mềm Stata 13.0, Epidata 3.1.
Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được Hội đồng Đạo đức ở
trường và trong bệnh viện Đại Học Y Dược
thành phố Hồ Chí Minh phê duyệt.
Những người tham gia nghiên cứu sẽ được
giải thích rõ ràng về mục đích, tầm quan trọng
của nghiên cứu, cách tiến hành và thời gian
tham gia nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu tự nguyện tham gia
bằng cách ký vào bản thỏa thuận tham gia
nghiên cứu. Các thông tin thu thập được từ các
đối tượng chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu,
hoàn toàn được giữ bí mật.
Người tham gia có quyền rút khỏi nghiên
cứu bất cứ lúc nào và không có hậu quả lâm
sàng đối với chăm sóc tổng thể của họ.
Hạn chế của nghiên cứu
Chỉ có tại bệnh viện Đại học y Dược TP
HCM, các trung tâm y tế khác sẽ không được

đánh giá tại thời điểm này và mẫu không đủ lớn
để đại diện cho quần thể.

KẾTQUẢ
Trong thời gian từ tháng 11 năm 2017 đến
tháng 6 năm 2018 ttại khoa Tiết niệu của Bệnh
viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh có

160

96 người bệnh được đưa vào nghiên cứu với
những đặc điểm sau:
Đặc điểm lâm sàng và quy mô hỗ trợ đa chiều
Bảng1. Đặc điểm tình trạng bệnh của đối tượng
nghiên cứu
Đặc điểm

Tần số n = 96 Tỷ lệ %
Thời gian ngủ
< 2 giờ
4
4,2
2 – 4 giờ
18
18,7
> 4 giờ
74
77,1
Bệnh kèm theo
Không

52
54,2

44
45,8
Số lần phẫu thuật trước đó
Chưa lần nào
40
41,7
1 lần
27
28,1
2 lần
17
17,7
≥ 3 lần
12
12,5
Loại phẫu thuật
Sỏi đường tiết niệu
35
36,4
Chấn thương tiết niệu
2
2,1
Sỏi thận
26
27,1
Khác
33

34,4

Tại thời điểm tiến hành nghiên cứu, phần
lớn các người bệnh trước khi phẫu thuật đều có
thời gian ngủ trên 4 giờ/ngày 77,1%, có 4 người
bệnh có thời gian ngủ dưới 2 giờ/ngày 4,2%. Tỷ
lệ người bệnh có bệnh kèm theo chiếm 45,8%.
Loại phẫu thuật chủ yếu sỏi đường tiết niệu 35,6%.
Bảng 2. Sự hỗ trợ từ gia đình và nhân viên y tế đánh
giá qua thang đo Quy mô hỗ trợ đa chiều (n = 96)
Đặc điểm
TB ± ĐLC* GTNN – GTLN**
Điểm hỗ trợ từ gia đình
13,2 ± 3,2
2 - 18
Điểm hỗ trợ từ nhân viên y tế 9,4 ± 2,7
2 - 15

* Trung bình ± độ lệch chuẩn
** Giá trị nhỏ nhất – giá trị lớn nhất

Điểm hỗ trợ từ gia đình trung bình là 13,2
± 3,2 điểm, thấp nhất là 2 điểm và cao nhất là
18 điểm. Điểm hỗ trợ từ nhân viên y tế trung
bình là 9,4 ± 2,7, thấp nhất là 2 điểm và cao nhất là
15 điểm.
Các vấn đề lo âu và mức độ lo âu của người
bệnh trong giai đoạn trước phẫu thuật
Thang đo HADS-A được sử dụng để đánh
giá tình trạng lo âu của đối tượng tham gia

nghiên cứu, điểm lo âu có trung vị là 4,

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
khoảng tứ phân vị từ 1 đến 6 điểm, trong đó 0
điểm là thấp nhất và cao nhất là 12 điểm. Tỷ lệ
người bệnh có dấu hiệu lo âu trước khi thực
hiện phẫu thuật là 16,7%.
Bảng 3. Tình trạng lo âu của đối tượng nghiên cứu
đánh giá qua thang đo HADS-A
Đặc điểm

Tần số n = 96 Tỷ lệ %
Điểm lo âu
Trung vị (khoảng tứ phân vị)
4,0 (1,0 – 6,0)
Giá trị nhỏ nhất – giá trị lớn nhất
0 - 12
Phân loại lo âu
Không lo âu (0 – 7 điểm)
80
83,3
Có dấu hiệu lo âu (8 – 21 điểm)
16
16,7

Bảng 4. Các vấn đề lo âu của người bệnh
Đặc điểm


Tần số (n=96)
Sợ chết

10
Không
86
Sợ hãi không rõ

11
Không
85
Tổn thất tài chính do nhập viện

26
Không
70
Đau sau phẫu thuật

46
Không
50
Sợ biến chứng

49
Không
47
Thay đổi hình dạng cơ thể

6

Không
90
Kết quả chẩn đoán không xác định

3
Không
93
Thiếu thông tin

7
Không
89
Hủy phẫu thuật

5
Không
91
Thời gian chờ phẫu thuật lâu

45
Không
51

Tỷ lệ%
10,4
89,6
11,5
88,5
27,1
72,9

47,9
52,1
51,0
49,0
6,2
93,8
3,1
96,9
7,3
92,7
5,2
94,8
46,9
53,1

Nguyên nhân dẫn đến lo lắng của người
bệnh trước khi phẫu thuật chủ yếu là: sợ biến
chứng 51% (49/96), sợ đau sau phẫu thuật
47,9% (46/96) và lo sợ do thời gian chờ đợi

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Nghiên cứu Y học

phẫu thuật lâu 46,9% (45/96).
Các nguyên nhân khác chiếm tỷ lệ thấp hơn,
lần lượt là: sợ tổn thất tài chính do nhập viện
27,1% (26/96), sợ hãi không rõ 11,5% (11/96), sợ
chết, sợ thiếu thông tin, sợ thay đổi hình dáng cơ
thể, sợ hủy phẫu thuật và sợ chẩn đoán không

xác định chiếm dưới 10%.
Các yếu tố liên quan đến sự lo âu của người
bệnh trước phẫu thuật
Bảng 5. Mối liên quan giữa thông tin tư vấn và lo âu
của người bệnh
Lo âu
PR (KTC 95%)

Không
n (%)
n (%)
Thông tin tư vấn chung

11 (12,8) 75 (87,2) 0,26 (0,11 – 0,59)
Không
5 (50,0) 5 (50,0)
1
Thông tin về cuộc phẫu thuật

13 (15,1) 73 (84,9) 0,50 (0,17 – 1,48)
Không
3 (30,0) 7 (70,0)
1
Thông tin thời gian nằm viện và điều trị

8 (16,0) 42 (84,0) 0,92 (0,37 – 2,26)
Không
8 (17,4) 38 (82,6)
1
Thời gian phẫu thuật và hồi tỉnh


3 (15,0) 17 (85,0) 0,88 (0,27 – 2,80)
Không
13 (17,1) 63 (82,9)
1
Tình trạng bệnh trước phẫu thuật

14 (17,3) 67 (82,7) 1,30 (0,33 – 5,17)
Không
2 (13,3) 13 (86,7)
1
Thông tin về phương pháp phẫu thuật

2 (16,7) 10 (83,3) 1,00 (0,26 – 3,89)
Không
14 (16,7) 70 (83,3)
1
Nơi chuyển bệnh sau phẫu thuật

3 (14,3) 18 (85,7) 0,82 (0,26 – 2,64)
Không
13 (17,3) 62 (82,7)
1
Thông tin chăm sóc hậu phẫu

1 (11,1) 8 (88,9) 0,64 (0,10 – 4,37)
Không
15 (17,2) 72 (82,8)
1


Thông tin
tư vấn nhận
được

p

0,001

0,212

0,856

0,825

0,713

1,000

0,745
0,653

Tỷ lệ lo âu ở nhóm người bệnh nhận được
tư vấn chung từ nhân viên y tế là 12,8%, bằng
0,26 lần (KTC 95%: 0,11 – 0,59) so với tỷ lệ lo âu
trong nhóm khai báo không nhận được tư vấn,
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,001.
Những người bệnh nhận được tư vấn về
các vấn đề liên quan tới phẫu thuật có tỷ lệ lo
âu thấp hơn nhóm không nhận được tư vấn,
tuy nhiên những sự khác biệt này không có ý


161


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
điểm số hỗ trợ từ gia đình cao hơn (PR hiệu
chỉnh là 0,89 KTC 95%: 0,80 – 0,99; p = 0,028).

nghĩa thống kê.
Bảng 6. Mối liên quan giữa hỗ trợ của gia đình và
nhân viên y tế tới tình trạng lo âu
Đặc điểm

Lo âu

Không
TB ± ĐLC TB± ĐLC

PR (KTC
95%)

BÀN LUẬN
p

Điểm hỗ trợ từ gia
0,89
11,8 ± 3,2 13,5 ± 3,1
0,008

đình
(0,81 – 0,97)
Điểm hỗ trợ từ
0,93
8,9 ± 2,7 9,6 ± 2,7
0,346
nhân viên y tế
(0,79 – 1,08)

Điểm số hỗ trợ từ gia đình của nhóm không
lo âu cao hơn nhóm có lo âu. Cụ thể, nếu điểm
hỗ trợ từ gia đình tăng lên 1 điểm thì tỷ lệ lo âu
giảm 11% (PR = 0,89, KTC 95%: 0,81 – 0,97), p =
0,008. Tuy nhiên, nghiên cứu chưa tìm thấy mối
liên hệ có ý nghĩa thống kê giữa sự hỗ trợ từ
nhân viên y tế (đo lường bằng thang đo Quy mô
hỗ trợ đa chiều) với tỷ lệ lo âu.
Bảng 7. Mô hình đa biến các yếu tố liên quan tới lo
âu của người bệnh trước phẫu thuật
PR thô
PR hiệu chỉnh
p
(KTC 95%)
(KTC 95%)
Giới tính*
Nam
1
--Nữ
2,44 (0,96 – 6,18)
--Tình trạng công việc hiện tại*

Thất nghiệp
1
--Có việc làm 0,51 (0,20– 1,29)
--Thu nhập hàng tháng*
< 2 triệu
1
--2 - < 4 triệu 1,08 (0,43– 2,74)
--≥ 4 triệu
0,26 (0,06– 1,14)
Thời gian ngủ*
≤ 4 giờ
1
--> 4 giờ
0,50 (0,20– 1.22)
--Nhận được thông tin tư vấn chung
Không
1
1
0,002

0,26 (0,11 – 0,59) 0,27 (0,12 – 0,62)
Điếm hỗ trợ từ
0,89 (0,81 – 0,97) 0,89 (0,80 – 0,99) 0,028
người thân
Đặc điểm

* những biến số đã được loại ra khỏi mô hình đa biến cuối cùng.

Mô hình đa biến cuối cùng gồm 2 yếu tố
nhận được thông tin tư vấn chung và điểm số hỗ

trợ từ gia đình. Trong đó những người bệnh
nhận được tư vấn chung từ nhân viên y tế có tỷ
lệ lo âu thấp hơn nhóm không nhận được tư vấn
(PR hiệu chỉnh là 0,27 KTC 95%: 0,12 – 0,62; p =
0,002). Tỷ lệ lo âu cũng thấp hơn ở nhóm có

162

Đặc điểm về bệnh của đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận được có
40 người bệnh chưa có tiền căn phẫu thuật trước
đây 41,7%, 27 người bệnh đã từng phẫu thuật 1
lần 28,2%, 17 người bệnh đã từng phẫu thuật 2
lần 17,7% và 12 người bệnh đã phẫu thuật từ 3
lần trở lên 12,5%.
Kết quả của chúng tôi tương đương với kết
quả nghiên cứu của Võ Thị Yến Nhi (2017)(8) ghi
nhận 27,6% người bệnh có phẫu thuật trước,
trong đó phẫu thuật trước 1 lần chiếm 20,7%, 2
lần chiếm 4,8% và từ 3 lần trở lên chiếm 2,1%.
Theo Nigussie (2014)(6), 20,5% người bệnh đã
trải qua phẫu thuật trước đó, 40 người trải qua
phẫu thuật trước 1 lần, 7 người 2 lần và 2 người
đã trải qua 3 lần phẫu thuật trước.
Tình trạng lo âu và các vấn đề lo âu của người
bệnh trước phẫu thuật

Tình trạng lo âu của người bệnh trước phẫu
thuật
Thang đo Hospital Anxiety Depression

Scale-Anxiety (HADS-A) được sử dụng để xác
định tình trạng lo âu trước phẫu thuật tiết niệu
trên 96 người bệnh, điểm lo âu có trung vị là 4,
khoảng tứ phân vị từ 1 đến 6 điểm, trong đó 0
điểm là thấp nhất và cao nhất là 12 điểm. Tỷ lệ
bệnh nhân có dấu hiệu lo âu trước khi thực hiện
phẫu thuật là 16,7% chúng tôi sử dụng trung vị,
khoảng tứ phân vị để mô tả biến số định lượng
không có phân phối chuẩn.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi sử dụng
trung vị, khoảng tứ phân vị để mô tả biến số
định lượng không có phân phối chuẩn, thang đo
HADS-A được sử dụng để đánh giá tình trạng lo
âu của đối tượng tham gia nghiên cứu, điểm lo
âu có trung vị là 4, khoảng tứ phân vị từ 1 đến 6
điểm, trong đó 0 điểm là thấp nhất và cao nhất là
12 điểm so với những nghiên cứu khác sử dụng
trung bình và độ lệch chuẩn cho các biến số định
lượng có phân phối chuẩn.

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Trong nghiên cứu của Võ Thị Yến Nhi(8)
trung bình lo âu trước phẫu thuật của người
bệnh là 8,65 ± 4,03 điểm (khoảng rộng của thang
đo từ 0 - 21 điểm), của Đỗ Cao Cường(2) là 8,22 ±
3,82, củaYilmaz (2012)(10) điểm số lo âu 62%,
trung bình 31,91± 6,30.

Các vấn đề lo âu của người bệnh
Vấn đề lo âu của 96 người bệnh trước phẫu
thuật tiết niệu trong nghiên cứu của chúng tôi,
chiếm tỷ lệ cao nhất là: sợ biến chứng là 51%,
sợ đau sau phẫu thuật 47,9% và lo sợ do thời
gian chờ đợi phẫu thuật lâu 46,9%. Các
nguyên nhân khác chiếm tỷ lệ thấp hơn, lần
lượt là: sợ tổn thất tài chính do nhập viện
27,1%, sợ hãi không rõ 11,5%, sợ chết, sợ thiếu
thông tin, sợ thay đổi hình dạng cơ thể, sợ hủy
phẫu thuật và sợ chẩn đoán không xác định
chiếm dưới 10%. Tùy vào đối tượng, phương
pháp nghiên cứu, địa điểm nghiên cứu mà các
vấn đề lo âu của người bệnh trước phẫu thuật
có sự khác nhau giữa các nghiên cứu.
Trong nghiên cứu của Võ Thị Yến Nhi(8)
người bệnh lo giảm đau không đủ sau phẫu
thuật chiếm 37,2% (54/145) trường hợp; lo phải
chịu ảnh hưởng xấu sau phẫu thuật và phẫu
thuật không thành công là 33,7%, và 27,6%
người bệnh lo phẫu thuật bị hoãn và không
tỉnh sau phẫu thuật.
Theo Nigussie (2014)(6), yếu tố lo âu thông
thường nhất của người bệnh là sợ chết 82,7%), sợ
điều không xác định được 52,7%, lo âu viện phí
(42,7%), kết quả phẫu thuật 41,8%, đau sau phẫu
thuật chiếm 39,1%.
Các yếu tố liên quan đến sự lo âu của người
bệnh trước phẫu thuật


Mối liên quan giữa thông tin tư vấn và lo âu
của bệnh nhân
Tỷ lệ lo âu ở nhóm bệnh nhân nhận được tư
vấn chung từ nhân viên y tế là 12,8%, bằng 0,26
lần (KTC 95%: 0,11 – 0,59) so với tỷ lệ lo âu trong
nhóm khai báo không nhận được tư vấn, sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,001.
Trong nghiên cứu của Seifu Nigussie vào năm

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Nghiên cứu Y học

2014(6) các yếu tố làm giảm lo lắng là cung cấp
thông tin liên quan đến lo âu và điều trị ban đầu.

Mối liên quan giữa hỗ trợ của gia đình và
nhân viên y tế tới tình trạng lo âu
Sử dụng bộ câu hỏi Multi-Dimensional
Support Scale (MDSS) để đánh giá sự hỗ trợ
dành cho người bệnh trước phẫu thuật tiết niệu,
bộ câu hỏi được chia thành hai phần sự hỗ trợ từ
gia đình/bạn bè và sự hỗ trợ từ nhân viên y tế.
Kết quả chúng tôi cho thấy điểm trung bình,
trong đó sự hỗ trợ từ gia đình/bạn bè là 11,8 ±
3,2, từ nhân viên y tế là 8,9 ± 2,7. Điểm số hỗ trợ
từ gia đình của nhóm không lo âu cao hơn nhóm
có lo âu. Cụ thể, nếu điểm hỗ trợ từ gia đình
tăng lên 1 điểm thì tỷ lệ lo âu giảm 11% (PR =
0,89, KTC 95%: 0,81 – 0,97), p = 0,008. Tuy nhiên,

nghiên cứu chưa tìm thấy mối liên hệ có ý nghĩa
thống kê giữa sự hỗ trợ từ nhân viên y tế (đo
lường bằng thang đo MDSS) với tỷ lệ lo âu.Sử
dụng tỉ số tỷ lệ hiện mắc PR (Prevalence Ratio)
và khoảng tin cậy 95% (KTC 95%) dùng để xác
định mối liên quan giữa từng đặc điểm của đối
tượng nghiên cứu với tỷ lệ lo âu trước phẫu
thuật. Sử dụng cùng thang đo với nghiên cứu
của chúng tôi để xác định lo âu trước phẫu thuật
và sự hỗ trợ xã hội, theo kết quả nghiên cứu của
Đỗ Cao Cường(2) cũng cho thấy mối liên quan
nghịch giữa lo âu trước phẫu thuật với sự hỗ trợ
của nhân viên y tế, tức sự hỗ trợ càng cao lo âu
của người bệnh trước phẫu thuật càng giảm.

KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mức độ lo
âu của người bệnh là 16,7%. Mối quan tâm từ
gia đình trung bình là 13,2 ± 3,2 điểm, điểm hỗ
trợ từ nhân viên y tế trung bình là 9,4 ± 2,7.
Các yếu tố cho thấy để giảm tình trạng lo âu là
cung cấp đầy đủ thông tin và tăng cường sự
hỗ trợ từ gia đình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Ali A, Altun D, Oguz BH et al (2014), "The effect of
preoperative anxiety on postoperative analgesia and
anesthesia recovery in patients undergoing laparascopic

cholecystectomy", J Anesth, 28 (2), pp. 222-227.

163


Nghiên cứu Y học
2.

3.

4.

5.

6.

7.

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018

Cuong DC (2013), "Factors related to Preoperative Anxiety
among Patients undergoing Abdominal Surgery in Phu Tho
Province General Hospital, Vietnam", Thai Pharm Health Sci J, 8
(4), pp.155-162.
Gras S, Servin F, Bedairia E et al (2010), "The Effect of
Preoperative Heart Rate and Anxiety on the Propofol Dose
Required for Loss of Consciousness", Anesthesia & Analgesia,
110(1), pp. 89-93.
Kil HK, Kim WO, Chung WY et al (2012), "Preoperative
anxiety and pain sensitivity are independent predictors of

propofol and sevoflurane requirements in general
anaesthesia", Br J Anaesth, 108(1), pp. 119-125.
Kocherov S, Hen Y, Jaworowski S et al (2016), "Medical clowns
reduce pre-operative anxiety, post-operative pain and medical
costs in children undergoing outpatient penile surgery: A
randomised controlled trial", J Paediatr Child Health, 52(9), pp.
877-81.
Nigussie S, Belachew T, Wolancho W (2014), "Predictors of
preoperative anxiety among surgical patients in Jimma
University Specialized Teaching Hospital, South Western
Ethiopia", BMC Surgery, 14, pp. 67-67.
Pereira L, Figueiredo-Braga M, Carvalho IP (2016),
"Preoperative anxiety in ambulatory surgery: The impact of an

164

8.

9.

10.

11.

empathic patient-centered approach on psychological and
clinical outcomes", Patient Education and Counseling, 99(5), pp.
733-738.
Võ Thị Yến Nhi (2017), “Các yếu tố liên quan đến sự lo âu của
người bệnh trước phẫu thuật tiêu hóa”, Tạp chí y học thành phố
Hồ Chí Minh, 21 (1), pp48-56.

Winefield HWA, Tiggemann M (1992), "Social Support and
Psychological Well-Being in Young Adults: The MultiDimensional Support Scale", J Personal Assessment, 58(1), pp.
198-210.
Yilmaz M, Sezer H, Gürler et al (2012), "Predictors of
preoperative anxiety in surgical inpatients", Journal of Clinical
Nursing, 21(7-8), pp. 956-964.
Zigmond AS, Snaith RP (1983), "The Hospital Anxiety and
Depression Scale", Acta Psychiatrica Scandinavica, 67(6), pp.
361-370.

Ngày nhận bài báo:

31/07/2018

Ngày phản biện nhận xét bài báo:
Ngày bài báo được đăng:

31/08/2018
20/10/2018.

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học



×