Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Đề tài: Chế độ trợ cấp thai sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771.11 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA BẢO HIỂM KINH TẾ


 

Đề tài: Chế độ trợ cấp thai sản
Lớp tín chỉ: An sinh xã hội_8
Sinh viên thực hiện:

…………………..

   

Hà Nội, Năm 2016


Mục Lục


3


LỜI MỞ ĐẦU
     Chế độ trợ cấp thai sản có vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách BHXH và 
là một chế độ không thể thiếu đối với người lao động không chỉ bởi tính nhân văn,  
nhân đạo sâu sắc mà còn bởi chính tỉnh chất nội tại của nó là sản xuất ra sức lao 
động xă hội. BHXH đã được Liên hợp Quốc thừa nhận và coi đó là một trong những  
quyền lợi cơ  bản của con người. Do đó, BHXH cần phải được thực hiện đối với  
mọi người lao động. Trong những điều kiện khác nhau của đất nước, chính sách  
BHXH cũng có sự  thay đối góp phần to lớn giúp cho người lao động  ổn định cuộc 


sống khi họ gặp phải những sự kiện bảo hi ểm. Trong những năm qua, chế  độ  thai  
sản đã bảo vệ cho hàng vạn lao động nữ và hàng vạn trẻ em. Với sự phát triển của 
nền kinh tế thị trường cũng như sự phát triển và tiến bộ xã. Chế độ thai sản đã góp 
phần giảm bớt những gánh nặng cho người lao động đặc biệt là lao động nữ  trong  
xã hội.
Chế độ trợ cấp thai sản trên thế giới 

I.
1.

Châu Âu:

     Châu Âu được xem là như là châu lục có chế độ an sinh xã hội cao nhất thế giới.  
Đặc biệt chế độ trợ  cấp sinh đẻ  ở  khu vực Châu Âu rất cao. Trong bối cảnh Châu  
Âu ngày càng già hóa  dân số và tình trạng sinh đẻ giảm mạnh thì các nước Châu Âu 
khuyến khích các mẹ sinh em bé và có những chính sách phúc lợi trợ cấp thai sản rất 
tốt. Các nước Châu Âu như  Iceland, Thụy Điển, Pháp,...được coi là “thiên đường” 
của những người sắp làm cha mẹ bởi chế độ ưu đãi rất tuyệt vời.
1.1.

Đức

4


     Nước Đức là một trong số những nước có trợ cấp thai sản cao nhất thế giới. Phụ 
nữ mang thai ở Đức được hưởng nhiều quyền lợi và những ưu tiên đặc biết như:
Bà bầu ở Đức không bị mất việc: Các công ty, xí nghiệp không được phép sa 
thải lao động nữ khi đang có bầu dù có đang trả qua thời kỳ suy thoái kinh tế.
Khám thai bằng bảo hiểm y tế rất tốt

      Có thể nói chế độ  bảo hiểm xã hội của Đức là một trong những nước có chất  
lượng nhất châu Âu. Tất cả những người có giấy tờ  hợp pháp sống trên đất nước  
Đức đều bắt buộc phải có bảo hiểm xã hội. Ngay khi vào làm việc ở xí nghiệp thì  
người lao động đã được đóng bảo hiểm xã hội. Do vây, chi phí mỗi lần khám thai  
hay kiểm tra thai kỳ  qua các gia đoạn của các bà mẹ  đều do bảo hiểm chi trả.  Ở 
Đức, vào bệnh viện ai cũng được đối xử như ai, không tốt hơn mà cũng chẳng kém 
hơn, không bị phân biệt đối xử  người nước ngoài hay người Đức. Có một điều dễ 
nhận thấy một điều là dù các bà mẹ có đẻ rơi ở bất kỳ bệnh viện nào thì bà mẹ  và 
con của bạn cũng vẫn được chăm sóc kỹ lưỡng và nhiệt tình.
      Năm 2014, Chính  phủ  Đức đã thanh toán 53,7 tỉ Euro trợ  cấp nuôi con, chiếm 
73% tổng ngân sách dành cho gia đình.
     Người Đức cho rằng, 3 năm đầu của trẻ rất cần có cha mẹ bầu bạn nên các bậc 
phụ huynh cần dành nhiều thời gian để ở bên cạnh trẻ. Vì thế, trước khi trẻ 3 tuổi,  
cha mẹ đều có thể nghỉ thai sản. Nghỉ thai sản của nước Đức được chia thành nghỉ 
sinh con của người mẹ và nghỉ nuôi con của cả cha lẫn mẹ, thời gian nghỉ dài nhất  
đến khi bé tròn 3 tuổi. Trong đó, có 1 năm là nghỉ phép có lương.
     Người mẹ nghỉ thai sản tổng cộng khoảng 14 tuần: trước khi sinh 6 tu ần và sau 
khi sinh 8 tuần. 6 tuần trước khi sinh, trừ khi thai ph ụ đồng ý, nhà tuyển dụng không 
thể yêu cầu họ làm việc. 8 tuần sau sinh, cho dù sản phụ có muốn làm việc đi chăng  
nữa cũng vẫn phải nghỉ   ở  nhà. Trong trường hợp sinh sớm hoặc đa thai, thời gian  
nghỉ đẻ có thể kéo dài đến 12 tuần.
5


     Từ khi đứa trẻ sinh ra đến khi 3 tuổi, cha mẹ bé đều có thể xin nghỉ ở nhà chăm  
con và hưởng 65% ­ 67% thu nhập bình quân trước khi nghỉ, trợ cấp trung bình mỗi 
tháng từ 300 Euro – 1800 Euro ( khoảng 6,8 triệu VND – 41 triệu VND).
1.2.

Phần Lan


     Phần Lan được ngợi khen như vậy là bởi đất nước này có chế độ phúc lợi xã hội  
cao, mức sống của người dân cũng  ở  mức cao và được đảm bảo chế  độ  chăm sóc 
sức khỏe toàn diện. Phần Lan được xem là một đất nước tuyệt vời để  sinh đẻ  và 
nuôi dạy con với những điều kiện của chế  độ  thai sản đặc biệt. Nhằm kích thích  
sinh sản và cải thiện nền dân số già của mình, Phần Lan đưa ra rất nhiều chính sách  
để giúp đỡ cho những cặp vợ chồng muốn có con.
      Thời gian nghỉ phép có lương của các bậc cha mẹ   ở  Phần Lan kéo dài đến 18  
tuần cho người mẹ và 9 tuần cho người bố. Bên cạnh đó họ còn có khoảng 26 tuần  
nghỉ chung trong khi vẫn hưởng đến 70­90% tiền lương.

     Chính sách hỗ trợ của Phần Lan cũng bao gồm chính sách trợ cấp nuôi con. Theo 
đó trợ  cấp dành cho một đứa trẻ  mới sinh trong mỗi gia  đình là 100 euro/tháng 
(khoảng 2,6 triệu VND), từ đứa thứ  3 là 141 euro/tháng (khoảng 3,7 triệu VND) và 
từ đứa thứ năm sẽ là 182 euro/tháng (tương đương 4,7 triệu VND). Khoản tiền này  
có thể  được cung cấp cho đến khi đứa trẻ  17 tuổi. Ngoài ra, mỗi khi một đứa trẻ 
được chào đời, chính phủ  sẽ  tặng cho mỗi bà mẹ  một chiếc hộp dụng cụ với đầy  
đủ  các đồ  dùng cần thiết cho việc chăm sóc một đứa trẻ: đồ  trẻ  em, túi ngủ, đồ 
dùng ngoài trời, sản phẩm tắm cho em bé, tã lót và đệm. Hộp quà này hoàn toàn 
miễn phí và được áp dụng với tất cả  mọi người không kể  giàu nghèo. Chính vì  
những lý do này mà Phần Lan được bầu chọn là đất nước lý tưởng nhất cho các bà 
mẹ.
6


1.3.

Thụy Điển

     Thụy Điển là thiên đường để trở thành cha mẹ, và tất nhiên cũng là thiên đường  

cho những đứa trẻ. Tại đất nước này, thời gian nghỉ thai sản có thể kéo dài đến vài 
năm và được chia cho cả  bố  và mẹ. Các cặp vợ  chồng có con dưới 8 tuổi cũng có  
quyền làm việc bán thời gian và tiếp tục công việc cũ.
     Chính phủ cho phép một cặp vợ chồng được nghỉ tổng cộng là 480 ngày, được  
hưởng 80% thu nhập và thời gian hết sức linh hoạt khi sinh con.
      Ví dụ, một người phụ  nữ  có thu nhập khoảng 39.000 USD/năm sẽ  được nhận  
2.500 USD/tháng cho 6,5 tháng; cô  ấy cũng có thể lựa chọn nhận 1 nửa số tiền trợ 
cấp trên và kéo dài thời gian nghỉ đến 13 tháng hoặc nghỉ dài hơn với mức trợ  cấp  
thấp hơn.
     Năm 1974, Thụy Điển là quốc gia đầu tiên trên thế giới thay thế “nghỉ thai sản”  
bằng “nghỉ cho bố mẹ” với thời gian ngh ỉ thai sản dành cho cả cha và mẹ Trong bối  
cảnh trách nhiệm nghỉ việc chăm sóc con cái không còn chỉ dành cho phụ nữ, nhưng  
quy định mới đã không làm thay đổi đột ngột vai trò về giới trong việc chăm sóc con  
nhỏ. Người mẹ tiếp tục chiếm đa số  trong nghỉ thai sản và chỉ  một số rất ít người 
cha nghỉ chế độ này.
     Để thay đổi, chính phủ đã đưa ra một chương trình gọi là “cô­ta dành cho bố” vào  
năm 1995. Các ông bố  được 30 ngày nghỉ  để  khuyến khích họ   ở  nhà chăm con và 
nếu không sử dụng ngày nghỉ họ sẽ không nhận được trợ cấp nghỉ thai sản.
     Việc áp dụng “cô­ta” này đã có ảnh hưởng rộng rãi, tỷ lệ các ông bố sử dụng chế 
độ nghỉ thai sản tăng từ 44% lên 77%. Luật đã có tác động rất lớn đối với các ông bố 
có thu nhập thấp và những người có con sinh ở nước ngoài. Các ông bố tăng cường 
sử  dụng thời gian nghỉ thai sản theo quy định mới vì ý nghĩa của Luật là “hoặc sử 
dụng hoặc lãng phí quyền lợi của mình”.
7


        Năm 2002, “cô­ta” này tăng đến 60 ngày cũng khiến cho số  lượng các ông bố 
hưởng chế  độ  tăng nhẹ, tuy không biến chuyển mạnh mẽ  như  tác động của Luật  
năm 1995. Đến tháng 01/2016, “cô­ta” này được tăng lên 90 ngày.
1.4.


Na Uy

     Na Uy là một trong những nước có chế độ thai sản cao nhất trong khu vực Châu  
Âu. Chế độ chăm sóc trước và sau sinh tại Na Uy là hoàn toàn miễn phí, được hỗ trợ 
bởi hệ  thống y tế  công. Điều đó có nghĩa là bà mẹ  tương lai phải trả  chính xác 0 
đồng cho các chi phí y tế, các buổi khám chữa bệnh, nằm viện… trong và sau khi  
mang thai của họ.
     Gia đình bà bầu được chính phủ  Na Uy thanh toán mọi chi phí  trong và sau khi  
mang thai, không phải trả bất kỳ chi phí nào liên quan, mà hơn nữa, chính phủ sẽ trả 
tiền vì bạn đã có con.
     Mọi bà mẹ sẽ nhận được một khoản trợ cấp khoảng 6.000 USD vào tháng thứ 6  
của thai kỳ để trang trải cho việc mua sắm đồ đạc chuẩn bị đón em bé chào đời. Khi 
em bé ở trong tháng tuổi thứ 13 đến 23, nếu chưa được gửi đi nhà trẻ, người mẹ sẽ 
được nhận hỗ trợ gần 1.000 USD trong tối đa 10 tháng, cho tới khi bé đi nhà trẻ. Bên  
cạnh đó, mỗi tháng kể từ khi con sinh ra, chính phủ cũng sẽ trợ cấp một khoản tiền  
nhỏ (khoảng 150 USD) cho tới khi trẻ được 18 tuổi. Các mức hỗ trợ này được xem 
xét tăng lên cứ 4­5 năm một lần.
      Sau khi em bé được sinh ra, toàn bộ  các chi phí khám chữa bệnh, kiểm tra sức 
khoẻ thường niên, tiêm chủng, khám răng… đều hoàn toàn miễn phí. Thậm chí các  
chi phí liên quan tới đi lại và chi phí dành cho người thân (chồng) khi  ở  cùng cũng 
được bệnh viện chi trả hết. Thực tế là khi sinh con tại Na Uy, bệnh viện đã chi trả 
hết các chi phí đi lại và ăn cho người thân sản phụ  trong thời gian 4 ngày tôi nằm  
viện.
8


     Về quyền lợi thai sản của bố mẹ, Na Uy có một chế độ rất hào phóng. Bạn có 
thể lựa chọn giữa việc nghỉ 49 tuần với 100% lương hoặc 59 tu ần với 80% l ương  
mỗi tháng với điều kiện bạn đi làm và có hợp đồng lao động ít nhất 6 tháng trước  

khi sinh em bé. Đặc biệt, chế độ này được áp dụng với cả cha và mẹ sau khi có sự 
xuất hiện của một thành viên mới chứ  không chỉ riêng với mẹ  như  rất nhiều quốc  
gia khác.
2.

Châu Á: 

2.1.

Nhật Bản

       Nhật Bản là một trong những nước được coi là “thiên đường sinh con” trên thế 
giới. Vì tỉ lệ sinh ở đất nước mặt trời mọc là đang ở mức đáng báo động (tức số trẻ 
sinh ra không đủ  thay thế  thế  hệ  cũ) nên chính quyền Nhật Bản đã nghĩ đến việc 
tăng quyền lợi thai sản để thúc đẩy tỷ lệ  sinh. Các mẹ  chỉ việc ăn ngon, nghỉ ngơi  
cho thật tốt, chỉ chờ đến ngày sinh con và các chi phí trong quá trình sinh con sẽ do  
chính phủ  chịu trách nhiệm, có vài trường hợp sau khi sinh con xong các mẹ  còn 
được nhận một ít tiền hay còn gọi là tiền mừng. Tại Nhật việc sinh con được sự hỗ 
trợ  rất tốt từ  phía chính phủ, từ  lúc sinh con cho đến lúc con cái bạn trưởng thành  
(học hết trung học) đều nhận được chi phí nuôi dưỡng con cái.
         Chế  độ  này không chỉ  dành riêng cho người Nhật mà người nước ngoài cũng 
được hưởng chế  độ  này. Hiện nay số  lượng người nước ngoài đang sinh sống tại 
Nhật khá đông, vì các chế độ bảo hiểm, phúc lợi, dịch vụ của Nhật rất tốt nên một  
số  gia đình quyết định sinh con tại Nhật. Khi sống tại Nh ật , những ng ười có thẻ 
bảo hiểm sức khỏe thì bất cứ ai khi sinh con cũng được nhà nước cho 42man yên.
     Tại Nhật tỉ lệ tử vong thai nhi là thấp nhất trên thế giới. Vì vậy, khi sinh con ở 
Nhật thật sự rất an toàn cho cả  mẹ  và em bé. Các loại chi phí như  phí đẻ  thường , 
phí nằm viện và tổng tiền các chi phí này là khoảng 42 man yên  (số tiền này sẽ thay 
đổi tùy theo số  ngày nằm viện hoặc sử  dụng các dịch vụ  khác mà số  tiền này sẽ 
9



khác nhau ). Sau khi trừ đi số tiền đã dùng trong quá trình điều dưỡng tại bênh viện 
nếu không vượt quá 42 man thì số tiền còn lại sẽ được gửi đến bạn theo cách thức  
được chuyển tiền vào sổ  ngân hàng của bạn . Số  tiền này bạn tự  do sử  dụng.  
Trường hợp đẻ  khó tổng các chi phí là 150 man. Trường hợp này phía bảo hiểm sẽ 
hỗ trợ chi phí với tỉ lệ là 2/3, còn 1/3 là 50 man yên các bạn sẽ trả. Tuy nhiên được 
hưởng khấu trừ tiền điều trị cao và tiền thăm viện  nên sau đó các bạn sẽ nhận được 
lại 5 man. Vì vậy số tiền mà các bạn phải chi trả chỉ có 45 man yên trong tổng chi 
phí 150 man yên.
     Trên thế giới chỉ có nhật bản mới hỗ trợ cho các sản phụ những chế độ như thế 
này vì thực tế  các ca đẻ  khó số  tiền phải trả  thật sự  rất cao,. Đây cũng là 1 trong  
những chương trình khuyến khích sinh con tại Nhật để  tăng dân số. Có thể  nói tại 
Nhật các chi phí sinh đẻ  hầu như  không cần quá lo lắng. Trong trường hợp sinh 3, 
nhà nước sẽ  hỗ  trợ  thêm tiên mua sữa và tã em bé. Không những vậy sau khi sinh  
con, hàng tháng còn được nhà nước hỗ  trợ  số  tiền lên đến 1man 5sen cho đến khi  
học hết trung học. Đối với các trường hợp đẻ  quá khó và phải mất nhiều chi phí  
trong quá trình sinh nở hàng tháng sẽ được chính phủ hoàn lại  một phần tiền.
     Nhiều phụ nữ lo lắng nếu như có con sẽ phải nghĩ việc, sau khi nghỉ sinh con thì  
không thể quay trở lại làm việc. Vấn đề này không nên quá lo, tại các công ty Nhật  
hiện nay đều có qui định cho phụ nữ nghỉ ngơi, chăm sóc con trong vòng  1 năm sau 
đó có thể  quay lại làm việc bình thường. Theo như  chính sách mới, nhằm hỗ  trợ 
cũng như nâng cao giá trị của người phụ nữ trong xã hội, các công ty đều có các chế 
độ  riêng cho phụ  nữ  có con như  làm việc từ   9:30  đến  16giờ, hoặc hàng tháng có 
ngày nghỉ  riêng cho bố  và mẹ, để  gia đình có thời gian sum họp bên nhau. Thêm 1 
điểm mà các mẹ cần chú ý, đó chính là trước khi sinh con  42 ngày và sau khi sinh 56 
ngày các mẹ  phải xin phép nghỉ  làm. Thời gian này là nghỉ  không lương  ở  công ty 
( nếu có nhận lương từ  công ty thì dù chỉ  1 man thì cũng không được hưởng bảo  
hiểm). Tuy nhiên sẽ nhận được từ bảo hiểm sức khoẻ là 2/3 số lương.
10



     Ngoài ra, có các trường hợp mà chúng ta không biết ví dụ như khi bị sảy thai và 
các tình trạng do mang thai gây ra cũng sẽ  được hưởng  2/3 số  lương từ  bảo hiểm 
sức khoẻ. Tiền này gọi là tiền hỗ trợ thương tật ( tuy nhiên cần xin phép nghỉ làm và 
không nhận lương từ công ty thì mới được hưởng 
     Ngoài ra nếu các mẹ không thích sinh con tại Nhật do nhiều lý do khác nhau mà 
muốn sinh con  ở nước khác. tuy nhiên trong thời gian mang thai cần khám thai định 
kỳ ở bên Nhật sau đó xin bác sỹ chuyển về nước bạn muốn sinh, sau khi sinh mang  
đầy đủ giấy tờ của con sang lại Nhật người mẹ vẫn có thể xin bảo hiểm nhận số 
tiền trợ cấp sinh tại Nhật ( Khoảng 42 man ) tại khu vực mình đang sinh sống
2.2. Thái Lan
     Để có thế hưởng chế độ trợ cấp thai sản ở Thái Lan thì những người đang mang 
thai hoặc sinh đẻ  có tham gia BHXH phải có thời gian đóng góp trước khi sinh tối 
thiểu là 7 tháng đóng góp trong 15 tháng trước khi sinh ( chỉ giới hạn trong 2 tuần  
sinh). Với mức thời gian nghỉ là 3 tháng sẽ giúp người lao động nữ hoàn toàn lấy lại 
sức khỏe sau khi sinh con, và chuẩn bị tốt tâm lý cho một giai đoạn mới. Lao động 
nữ sẽ được hưởng mức trợ cấp là 50% lương trước khi nghỉ trong vòng 90 ngày cho  
một lần sinh. Thực hiên trợ cấp một lần là 4000 bạt cho một lần sinh.
3.

Châu Phi:

     Dân số châu Phi ngày càng tăng và theo ước tính của Liên Hợp quốc, 40% dân số 
thế giới sẽ sống  ở châu lục này vào năm 2050. Các nền kinh tế châu Phi cũng đang 
tăng trưởng cùng với sự gia tăng của lực lượng lao động, tuy nhiên trong khi một số 
quốc gia có xu hướng tăng thời gian nghỉ nuôi con, một số khác đang gặp khó khăn  
để thực hiện điều luật này.
      Là một trong các nền kinh tế  phát triển của khu vực, Kenya tự hào có một cơ 
quan thực hiện luật lao động ấn tượng. Đa số  các luật về  lao động của Kenya đều  

rất tốt, trong đó điều luật quy định lao động nữ được nghỉ thai sản ba tháng và không  
11


bị  mất quyền nghỉ  phép hàng năm có hiệu lực từ  năm 2007 để  phụ  nữ  có thể  cân  
bằng các nhu cầu về công việc và gia đình.
      Tuy nhiên, rất nhiều phụ nữ  Kenya cho biết thực tế không hoàn toàn như  vậy.  
Rất nhiều công ty tư nhân ở Kenya có vấn đề trong thực hiện chế độ nghỉ thai sản.  
Trong những công ty này, các quy định do người chủ  đưa ra. Hầu hết các công ty 
không chỉ  không thực hiện chế  độ  nghỉ  thai sản ba tháng mà còn rất ít công ty trả 
đầy đủ lương cho lao động nữ nghỉ chế độ.
     Hiện các nước châu Phi đã bắt đầu quan tâm đến chế độ nghỉ nuôi con. Theo một 
báo cáo của ILO, 82% trong số 50 nước châu Phi được nghiên cứu đã thực hiện tối 
thiểu 12 tuần nghỉ thai sản. Nhiều nước gần đây đã tăng thời gian này và Nam Phi 
cũng đang trong nỗ lực để tăng thời gian nghỉ thai sản dài hơn nữa.
a.

Nam Phi

      Phụ  nữ  sinh nở  được nghỉ  4 tháng hưởng đến 60% thu nhập. Chế  độ  này hào  
phóng hơn rất nhiều quốc gia Châu Phi khác đấy. Chị  em khi sinh nở   ở  đây còn bị 
cấm làm việc trong ít nhất 6 tuần sau sinh.
b.

Tanzania

     Phụ nữ ở quốc gia Đông Phi này chỉ được nghỉ hưởng lương đến 84 ngày mỗi 3  
năm (100 ngày nếu sinh đôi­ hoặc sinh ba, tư), và họ có thể nghỉ thai sản đến 4 lần 
trong khi đang làm việc cho cùng một doanh nghiệp. Người cha chỉ  được nghỉ  3 
ngày.

     Đến năm 2013, ít nhất 78 trên tổng số 167 quốc gia quy định hình thức nghỉ phép  
nhất định dành cho các bậc làm cha khi con mình chào đời. Đó là một sự tiến bộ bởi  
vào năm 1994, chế độ nghỉ thai sản dành cho nam giới chỉ tồn tại  ở 40 trên tổng số 
141 quốc gia có số liệu.Chế độ thai sản dành cho các bậc làm cha được áp dụng phổ 
biến nhất tại các nền kinh tế phát triển, châu Phi, Đông Âu và Trung Á.
4.

Châu Mỹ:
12


      Tuy nhiên không phải quốc gia nào cũng có một chế độ thai sản ưu đãi và cũng 
không phải quốc gia càng phát triển thì trợ cấp xã hội càng cao.
    Khác với luật pháp về chế độ thai sản  ở các nước, mặc dù là nước công nghiệp  
phát triển nhất thế giới nhưng Mỹ lại nằm trong số các quốc gia có chế độ kém hào  
phóng nhất đối với bậc cha mẹ khi sinh em bé. Một người mới làm mẹ bỏ việc khi  
sinh con không phải là chuyện bất thường ở Mỹ, các bà mẹ Mỹ chỉ có sáu tuần nghỉ 
không lương để chăm con. Dù Mỹ vẫn còn chưa có luật liên bang cho phép nghỉ thai  
sản có lương một số  bang đang giải quyết vấn đề  này, một luật mới  ở  New Jork  
đảm bảo rằng những người mới làm mẹ có 12 tuần nghỉ được trả lương,  Califorlia 
chi trả  55% của sáu tuần,  New Jersey  chi trả  67%,  Rhode Island  chi trả  bốn tuần. 
Nếu sống ở một trong bốn bang đó các bà mẹ sẽ được bảo hộ và hội đủ  điều kiện 
để  nghỉ  có lương nhưng nếu bạn sống  ở  những nơi khác  ở  Mỹ  thì phụ  thuộc vào  
chủ  lao động có tự  nguyện cung cấp những phúc lợi đó hay không vì không có bất  
kỳ  chương trình quốc gia nào cung cấp sự  thay thế  tiền lương. Mới đây bà Hillary 
Clinton  ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ  ủng hộ  một chương trình quốc 
gia cho phép những người mới làm mẹ  nghỉ  12 tuần thai sản có lương. Đây là sự 
tiến bộ  so với luật Nghỉ  phép Gia đình và Y tế  năm 1993 của Mỹ  cho nhân viên  
chính phủ  hoặc những người trong những công ty tư  nhân với 50 nhân viên được 
nghỉ  phép không lương mà không mất việc làm. Nhưng những người chỉ  trích nói 

rằng luật này chỉ bảo hộ 60% những người mới làm mẹ và chỉ có 60% nhân viên hội  
đủ điều kiện và nhiều người mới là mẹ mới không thể nghỉ việc. Mỹ vẫn chưa bắt  
kịp với một thực tế là hầu hết những người phụ nữ ngày nay đi làm, hầu hết những  
người mẹ  đi làm thậm trí phần lớn những người có con rất nhỏ  là lực lượng lao 
động được trả lương. Xong, một số công ty không chỉ nghỉ thai sản có lương mà còn 
cho người mới làm cha được nghỉ 6 tuần có lương. Những người phản đối bộ  luật  
nghỉ  phép gia đình có lương lại cho rằng nó có hại cho kinh doanh bởi nó quá tốn  
13


kém, những doanh nghiệp nhỏ  không kham nổi gánh nặng  đè lên nó  hay những 
khoản tăng thuế. Nhưng những người  ủng hộ ý tưởng này cho rằng chi phí nghỉ thai 
sản có lương là rất thấp so với lợi ích đối với gia đình
     Thành phố  San Francisco trở thành thành phố  đầu tiên  ở  Mỹ  yêu cầu các doanh  
nghiệp trả nguyên lương cho các cặp vợ chồng mới sinh con trong thời gian nghỉ thai  
sản.Với quy định đã được hội đồng giám sát địa phương thông qua này các cặp vợ 
chồng mới sinh con sẽ được nghỉ và hưởng nguyên lương sáu tuần. Người lao động 
chỉ có đủ điều kiện khi họ đã là việc cho công ty 180 ngày, quy định này sẽ có hiệu  
lực vào ngày 1/1/2017 đối với các công ty có hơn 50 nhân viên và có hiệu lực sau đó 
1 năm với các công ty có khoảng 20 nhân viên. Quy định này tốt cho tất cả  mọi  
người liên quan, các cặp bố  mẹ  có thể  giành thời gian chăm sóc cho con mà không 
phải vội vã quay trở lại làm việc. Mỹ cần phải chấm dứt việc nhìn các cặp bố mẹ 
phải đưa ra quyết định khủng kiếp là chăm con hay làm việc. Quy định mới cũng gây 
ra nhiều tranh cãi nhất là đối với các doanh nghiệp nhỏ, họ cho rằng mình sẽ  phải  
tăng chi phí sản xuất. Quy định mới sẽ còn được phải chờ  đợi một cuộc bỏ phiếu  
quan trọng của hội đồng Giám sát địa phương và thị trưởng thành phố ông Ed Lee .

II. CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP THAI SẢN CỦA VIỆT NAM
1. Sơ lược về lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
     Bảo hiểm xã hội (sau đây được viết tắt là BHXH) xuất hiện đầu tiên ở Việt Nam 

từ những năm 1930 thời kỳ Pháp thuộc. Đây là chế độ trợ cấp do chính quyền thuộc  
địa thực hiện đối với nhân dân và viên chức Việt Nam làm việc trong bộ máy hành  
chính và lực lượng hành chính của Pháp ở Đông Dương khi bị ốm đau già yếu hoặc  
chết. Tuy nhiên, đối với công nhân Việt Nam gần như chính quyền Pháp không công 
nhận quyền lợi của họ. Điển hình là công nhân  ở các nhà máy bị ốm đau, bệnh tật 
hay chết đều không được hưởng chế độ chữa bệnh, mai táng. Sau cách mạng tháng 
14


8/1945, nước Việt Nam dân chủ  cộng hòa được thành lập. Ngày 12/1946 Quốc hội 
thông qua Hiến pháp đầu tiên của nhà nước dân chủ nhân dân. Trong Hiến pháp xác  
định quyền được trợ cấp của người tàn tật và người già. Và để quy định về chế độ 
trợ  cấp  cho  công  nhân,  Chủ   tịch  Hồ   Chí  Minh   đã  ký   Sắc   lệnh  29/SL  vào  ngày 
12/3/1947. Tuy nhiên, do quy định của Sắc lệnh trên chưa điều chỉnh đầy đủ về các  
chế độ BHXH, nên đến ngày 22/5/1950 Hồ Chủ tịch đã ký thêm Sắc lệnh số 76/SL  
và số 77/SL để quy định cụ thể về các chế độ: Ốm đau, thai sản, hưu trí, chăm sóc y  
tế, tai nạn lao động và tiền tuất đối với cán bộ, công nhân viên chức. Đến ngày  
6/12/1958 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 523/TTg, quy định chế độ trợ 
cấp dài hạn cho quân nhân tình nguyện đã phục viên từ ngày hoà bình lập lại mang  
bệnh kinh niên tái phát yếu ốm, không còn khả năng lao động được Hội đồng Giám 
định Y khoa xác nhận trợ  cấp do ngân sách đài thọ. Chính sách BHXH và việc tổ 
chức thực hiện các chính sách đó thực sự là nguồn cổ vũ lớn lao đối với công nhân  
viên chức, giúp cho họ yên tâm hăng hái lao động sản xuất, góp phần xây dựng chế 
độ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam. Song, 
nó còn bộc lộ những điểm không phù hợp:
       + Đối tượng tham gia còn hạn hẹp, đối tượng được hưởng chế độ BHXH chỉ có  
cán bộ công nhân, viên chức, chưa mở rộng đến các thành phần kinh tế khác do đó 
đã làm mất đi tính tích cực, tính  ưu việt của chính sách BHXH đối với người lao 
động, chưa xác lập được sự công bằng giữa những người lao động trong việc thực 
hiện nghĩa vụ và quyền lợi về BHXH.

       + Việc thực hiện các chính sách BHXH còn phân tán không có hiệu quả. Vì thế 
nó chưa thực sự trở thành chính sách xã hội lớn. Do đó, Chính phủ đã ban hành Điều 
lệ tạm thời về BHXH vào ngày 25/12/1961 kèm theo Nghị định số 218/CP nhằm xây  
dựng hệ thống BHXH mới. Trong thời gian thực hiện Điều lệ tạm thời này các chế 
độ, chính sách BHXH đã không ngừng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng  
thời kỳ, điều đó được thể hiện qua việc Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm 
15


thời về  các chế  độ  đãi ngộ  quân nhân trong khi  ốm đau, bị  thương, mất sức lao  
động, về hưu hoặc chết; nữ quân nhân khi có thai và khi đẻ; quân nhân dự bị và dân  
quân tự  vệ  ốm đau, bị thương hoặc chết trong khi làm nhiệm vụ quân sự  kèm theo 
Nghị định số 161/CP vào ngày 30/10/1964.
      Từ  năm 1975 thì chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong cả  nước.  
Chế độ BHXH bao gồm: Trợ cấp hưu trí; mất sức lao động và tử tuất; cùng với các 
chế độ ốm đau; thai sản và tai nạn lao động; bệnh nghề nghiệp do cơ quan đơn vị và 
doanh nghiệp đóng góp.
     Đến năm 1995, BHXH do Bộ Lao động ­ Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm  
quản lý thực hiện về các chế độ trợ cấp dài hạn (hưu trí, tử  tuất, tai nạn lao động, 
bệnh nghề  nghiệp đối với người nghỉ  việc), Tổng Liên đoàn Lao động chịu trách 
nhiệm quản lý thực hiện các khoản chi trả trợ cấp ngắn hạn (trợ cấp đau ốm, thai 
sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người đang làm việc).
     Ngày 16/02/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP thành lập BHXH Việt  
Nam trên cơ sở thống nhất chức năng nhiệm vụ các bộ của bộ Lao Động ­ Thương  
Binh và Xã Hội và Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam, nhằm giúp Thủ  tướng 
chính phủ  tổ  chức thực hiện các chính sách, chế  độ  về  BHXH, BHYT và  quản lý 
quỹ BHXH.
     Ngày 26/01/1995 Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị  định số 12/CP về Điều lệ 
BHXH đối với năm chế  độ  BHXH: Chế  độ  trợ  cấp  ốm đau; trợ  cấp thai sản; trợ 
cấp tai nạn lao động ­ bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ trợ cấp tử tuất. 

Và ngày 15/7/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 45/CP quy định về BHXH đối 
với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ  sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân và sĩ 
quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân. Ngày 24/01/2002, Chính phủ có Quyết 
định số  20/2002/QĐ­TTg chuyển hệ  thống BHYT trực thuộc Bộ Y tế sang BHXH  
Việt Nam và ngày 06/12/2002, Chính phủ  ban hành Nghị  định số  100/2002/NĐ­CP 
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam  
16


(bao gồm cả  BHYT). Trong suốt thời gian áp dụng chính sách BHXH từ  năm 1945 
đến trước ngày Luật Bảo hiểm xã hội 2006 có hiệu lực, ta có thể  thấy chính sách 
BHXH không ngừng mở rộng đối tượng tham gia, tạo lập được quỹ BHXH độc lập 
với ngân sách nhà nước, các chế độ BHXH đã góp phần ổn định đời sống của người  
lao động trong quá trình lao động và nghỉ hưu; quy định rõ trách nhiệm của người sử 
dụng lao động và nghĩa vụ của người lao động, giải quyết hợp lý hơn mối quan hệ 
giữa đóng và hưởng, khắc phục một bước tính bình quân nhưng vẫn đảm bảo tính 
xã hội thông qua việc điều tiết, chia sẻ rủi ro. Song, vẫn còn một số mặt hạn chế:  
đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tuy đã được mở rộng nhưng số người tham gia  
chưa nhiều; quyền lợi và trách nhiệm của người lao động quy định trong các chế độ, 
nhất là hưu trí và tử tuất chưa hợp lý, chưa có giải pháp tích cực để chống tình trạng  
chiếm dụng, nợ đọng tiền đóng BHXH, quỹ BHXH dài hạn (thực hiện chế độ hưu 
trí và tử tuất) chưa bảo đảm cân đối lâu dài. Mặt khác, loại hình BHXH tự nguyện 
chưa được quy định cụ  thể, nên người lao động không thuộc đối tượng tham gia 
BHXH bắt buộc có nguyện vọng nhưng chưa được tham gia. Trong nền kinh tế thị 
trường người lao động luôn phải đối mặt với những rủi ro do bị mất việc làm, trong  
khi chính sách về  bảo hiểm thất nghiệp cho người bị thất nghiệp chưa được ban 
hành. Ngoài ra, hệ thống văn bản pháp luật về BHXH đa số là những văn bản dưới 
luật và tản mạn, nên việc thực hiện các chế  độ  BHXH còn chưa đồng bộ, chưa 
thống nhất.
     Xuất phát từ tình hình trên, ngày 29/6/2006 Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật  

Bảo hiểm xã hội tại kỳ họp thứ chín. Luật này quy định ba chế  độ  BHXH đối với  
người lao động là: BHXH bắt buộc, BHXH tự  nguyện và BHXH thất nghiệp. Sau  
đó, nhằm để  cụ  thể hóa các quy định về  BHXH bắt buộc trong Luật Bảo hiểm xã  
hội nói chung và chế  độ  thai sản nói riêng, thì ngày 22/12/2006 Chính phủ  đã ban  
hành Nghị định số 152/2006/NĐ­CP. Và đến ngày 29/12/2015 Bộ Thương binh và xã 
hội đã ra thông tư mới nhất 59/2015/TT­BLĐTBXH quy định chi tiết và hướng dẫn  
17


thi hành một số điều của luật bảo hiểm xã hội có hiệu lực từ  ngày 15/02/2016, cụ 
thể như sau:
I.1

. Điều kiện hưởng chế độ thai sản:

        – Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường  
hợp sau đây:
Lao động nữ mang thai.
Lao động nữ sinh con.
Người lao động nhận nuôi con nuôi ≤ 4 tháng tuổi.
Người lao động đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản.
        – Người lao động phải đóng BHXH từ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng  
trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.
1.2.

Thủ tục hồ sơ hưởng chế độ thai sản:

     Theo điều 9 Quyết định số 01/QĐ­BHXH ngày 03/01/2014 của BHXH Việt Nam,  
có hiệu lực ngày 01/4/2014:
a.


Đối với lao động nữ sinh con, gồm:

         – Sổ bảo hiểm xã hội.
         – Giấy chứng sinh (bản sao) hoặc Giấy khai sinh (bản sao) của con .
              Nếu sau khi sinh, con ch ết thì có thêm  Giấy báo tử  (bản sao) hoặc Giấy  
chứng tử  (bản sao) của con.  Đối với trường hợp con chết ngay sau khi sinh mà 
không được cấp các giấy tờ này thì thay bằng bệnh án (bản sao) hoặc giấy ra viện 
của người mẹ (bản chính hoặc bản sao).
         – Danh sách thanh toán chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe  
Mẫu số C70A­HD (Ban hành theo Thông tư số 178/TT­BTC ngày 23/10/2012 của Bộ 
Tài chính).
18


b.

Đối với lao động nữ  đi khám thai, lao động nữ  bị sảy thai, nạo, hút thai, thai 
chết lưu và người lao động thực hiện các biện pháp tránh thai gồm:
­

Sổ bảo hiểm xã hội.

­

Giấy ra viện (bản chính hoặc bản sao) hoặc Giấy chưng nh
́
ận nghỉ việc 
hưởng  BHXH mẫu  C65­HD hoặc  giấy  khám  thai  (bản chính  hoặc  bản 
sao), sổ khám thai (bản chính hoặc bản sao).


­
c.

d.

Danh sách thanh toán (Mẫu số C70a­HD).

 Đối với người lao động nhận nuôi con nuôi, gồm:
­

Sổ bảo hiểm xã hội.

­

Giấy chứng nhận nuôi con nuôi của cấp có thẩm quyền (bản sao).

­

Đơn đề nghị hưởng trợ cấp thai sản mẫu 11B­HSB.

­

Danh sách thanh toán (Mẫu số C70a­HD)

Nếu sau khi sinh con người mẹ  chết, người cha hoặc người trực tiếp nuôi 
dưỡng con, gồm:

1.3.


­

Sổ bảo hiểm xã hội của mẹ.

­

Sổ bảo hiểm xã hội của người cha.

­

Giấy chứng sinh (bản sao) hoặc giấy khai sinh (bản sao) của con.

­

Giấy chứng tử của người mẹ (bản sao).

­

Đơn đề nghị hưởng trợ cấp thai sản mẫu 11A­HSB.

­

Danh sách thanh toán (Mẫu số C70a­HD).

Trình tự thực hiện:
19


Bước 1: Người lao động nộp hồ sơ cho DN.
Bước 2: DN tiếp nhận hồ sơ để:

­

Giải quyết và chi trả chế độ cho người lao động;

­

Hàng tháng hoặc quý, lập:
Danh sách thanh toán chế  độ   ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi  
sức khỏe (Mẫu số C70a­HD) nộp cho BHXH quận, huyện.
Kèm theo hồ sơ của người lao động cùng toàn bộ phần mềm đã giải 
quyết trong tháng hoặc quý để quyết toán.

­

Nộp hồ sơ trực tiếp tại bộ phận một cửa

­

Số lượng: 01 bộ

Thời hạn giải quyết:

1.4.

DN giải quyết và chi trả  chế  độ  cho người lao động trong thời hạn 03 ngày 

­

làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ.
Cơ  quan BHXH thanh quyết toán cho DN trong thời hạn tối đa 15 ngày làm 


­

việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ.
Thời gian hưởng chế độ thai sản:

1.5.
a.

Thời gian hưởng chế độ khi sinh con:

     Theo khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Lao động số 10/2012/QH2013 ngay 18/6/2013
̀
 
của Quốc hội co hi
́ ệu lực thi hanh k
̀ ể tư ngay 01/05/2013
̀ ̀
­

Được nghỉ trước và sau khi sinh con là 06 tháng.

­

Trường hợp sinh đôi trở  lên thì tính từ  con thứ  02 trở  đi, cứ  mỗi con, người  
mẹ được nghỉ thêm 01 tháng. Tối đa không quá 02 tháng.

20



Hết thời gian nghỉ  thai sản, nếu có nhu cầu có thể  nghỉ  thêm một thời gian  

­

không hưởng lương theo thoả thuận với người sử dụng lao động.
Trước khi hết thời gian nghỉ thai sản, nếu có nhu cầu, có xác nhận của cơ sở 

­

khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về  việc đi làm sớm không có hại cho 
sức khỏe của người lao động và được người sử  dụng lao động đồng ý, lao 
động   nữ   có   thể   trở   lại   làm   việc   khi   đã   nghỉ   ít   nhất   được   04   tháng.
Trong trường hợp này, ngoài tiền lương của những ngày làm việc, lao động 
nữ vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp thai sản.
Thời gian nghỉ nghỉ hưởng thai sản (kể  cả  ngày nghỉ  lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ  

­

hằng

 

tuần).

Trong thời gian mang thai được nghỉ việc để đi khám thai năm 5 lần, mỗi lần  
một ngày; trường hợp ở xa cơ sở y tế hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc 
thai không bình thường thì được nghỉ 2 ngày cho mỗi lần khám thai.
Thời gian hưởng chế độ khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu khi sẩy 

­


thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu:
10 ngày nếu thai <1 tháng.
20 ngày nếu thai từ ≥ 1 ­ 3 tháng.
40 ngày nếu thai từ ≥ 3 ­ 6 tháng.
50 ngày nếu thai từ ≥ 6 tháng.
b.

 Trường hợp sau khi sinh con mà con chết mẹ được nghỉ:

­ Lớn hơn 60 ngày tuổi được nghỉ việc 90 ngày tính từ ngày sinh con.
­ Nhỏ hơn hoặc bằng 60 tuổi được nghỉ việc 30 ngày tính từ ngày con chết.
21


­ Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ  thai sản không vượt quá thời gian quy định  
Trường hợp nhận nuôi con nuôi < 4 tháng tuổi thì được nghỉ việc hưởng chế độ 
thai sản cho đến khi con đủ  4 tháng tuổi. Trường hợp chỉ có cha hoặc mẹ  tham  
gia bảo hiểm xã hội hoặc cả  cha và mẹ  đều tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ 
chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được hưởng chế 
độ thai sản cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi.
c. Trường hợp thực hiện các biện pháp tránh thai:
        + Khi đặt vòng tránh thai: 7 ngày.
        + Khi thực hiện biện pháp triệt sản: 15 ngày
2.
­

  Mức hưởng chê đô thai san:
́ ̣
̉

Trợ  cấp 1 lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi bằng 2 tháng lương tối  
thiểu chung cho mỗi con. (Hiên nay là
̣
 1.150.000 vnđ/thang)
́

­

Mức hưởng chế  độ  thai sản: =  100% mức bình quân tiền lương, tiền công 
tháng đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề  trước khi nghỉ  việc của  
người mẹ.
(Trường hợp chỉ có người cha tham gia BHXH hoặc cả cha cả mẹ tham gia  
nhưng người mẹ  chết sau khi sinh thì mức hưởng tính trên cơ  sở  mức bình 
quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người cha; trường hợp chỉ 
có mẹ tham gia mà mẹ chết sau khi sinh thì mức hưởng tính trên cơ  sở  mức  
bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người mẹ)

­

Thời gian nghỉ  việc hưởng chế  độ  thai sản được tính là thời gian đóng bảo 
hiểm xã hội. Thời gian này người lao động và người sử dụng lao động không  
phải đóng bảo hiểm xã hội.

3.

Dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau thai sản:
22


      Nêu sau th

́
ời gian hưởng chế độ  thai sản mà sức khoẻ  còn yếu thì được nghỉ 
dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 5 đên 10 ngày trong m
́
ột năm.
Mức hưởng 1 ngày:
= 25% mức lương tối thiểu chung (nếu nghỉ tại gia đình)
= 40% mức lương tối thiểu chung (nếu nghỉ tại cơ sở tập trung).
III. ĐÁNH GIÁ KẾT QUÁ THỰC HIỆN TRỢ CẤP THAI SẢN HIỆN HÀNH

l. Về chế độ thai sản
1.1 Những mặt đã đạt được
       Trong thời gian mười năm (từ  1995 ­ 2004) BHXH Việt Nam nói chung đã đạt  
được nhiều thành tích đáng ghi nhận: toàn ngành đã thưc hiện đầy đủ, kịp thời, đúng 
chế  độ  chính sách cho 517.600 người hưởng chế   độ  hàng tháng (trong đó người 
hưởng chế độ hưu trí là 334.000 người, trợ cấp cản bộ xã, phường là 6.600 người,  
trợ cấp tử tuất là 161.000 người, chế độ trợ cấp tai độ trợ cấp một lần về hưu trí, từ 
tuất, tai nạn lao động ­ bệnh nghề nghiệp cho 1,1 triệu người; (trong đó, trợ cấp hưu  
trí một lần là 920.000 người; trợ cấp cán bộ xã, phường là 113.000 người và 16.000 
người hưởng chế độ trợ cấp tai nạn lao động ­ bệnh nghề nghiệp). Ngoài ra, đã giải  
quyết cho trên 10 triệu lượt người hưởng chế độ  ốm đau, 1,3 triệu lượt người hưởng  
chế  độ  trợ  cấp thai sản và 1,6 triệu lượt người hưởng trợ  cấp nghỉ dưỡng sức. Thực  
hiện giải quyết trên 53.000 trường hợp tồn đọng về  chế  độ  BHXH trước năm 1995 
theo đúng quy trình, đảm bảo đúng đối tượng, đúng chế  độ  quy định và thực hiện giải 
quyết hướng tiếp trợ  cấp mất sức lao động sau khi hết hạn hưởng cho trên 100.000  
trường hợp đúng quy định. Với chế  độ  thai sản, BHXH Việt Nam cũng đã đạt được 
nhiều thành tựu quan trọng, góp phần vào việc ổn định đời sống của lao động. Điều đó  
được thể hiện trong bảng kết quả dưới đây:

23



24


     Qua bảng số liệu 7 ta thấy:
     Số tiền chi trả trợ cấp thai sản/Số thu BHXH có xu hướng tăng qua các năm: năm  
1997 tỷ lệ này là 3,76% nhưng đến năm 2005 tỷ lệ này chỉ ở mức 5,37% (như vậy,  
trong 9 năm tỷ lệ này chỉ tăng thêm được 1,61%). Số tiền chi trả cho chế độ trợ cấp  
thai sản chiếm trung bình 4,35% số thu BHXH. Sở dĩ như  vậy là vì: số tiền chỉ trả 
bình quân/người lao  động tăng, số  ngày nghi binh quân/người lao  động tăng, số 
người được nghỉ hưởng trợ cấp thai sản tăng, điều này chứng tỏ được sự  quan tâm 
của Đảng và Nhà nước ta đối với người lao động.
     Ta thấy rằng, khi số lao động tham gia BHXH tăng thì số người hưởng trợ cấp  
thai sản cũng có xu hướng tăng theo. Số đối tượng hưởng thai sản/Số lao động tham 
gia BHXH trung bình là 3,58%, năm 1999 con số  này là 2,60%, năm 2000 là 3,48% 
đến năm 2005 con số này tăng lên 5,02%. cc kết quả như vậy là do: số người tham 
gia BHXH tăng theo đó số  người thuộc diện nhận trợ  cấp thai sản cũng tăng, số 
người được hưởng trợ cấp thai sản tăng qua các năm.
1.2 Những điểm còn tồn tại
      Bên cạnh những điểm đã đạt được, chính sách thai sản ở nước ta vẫn còn một  
số  điểm tồn tại cần phải sửa đổi:Mặc dù đối tượng tham gia BHXH có mở  rộng 
hơn nhiều so với trước đây, nhưng số  lao động nữ  thực tế  được tham gia BHXH  
vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số lao động nữ trong độ tuổi lao động.  
Phần động lao động nữ  khi sinh đẻ  không được hưởng quyền lợi về  trợ  cấp thai  
sản, đặc biệt là đối với lao động nữ làm nông nghiệp, họ không được hưởng bất kể 
một quyền lợi gì khi sinh con. Thực tế này là do đối tượng lao động nữ chưa thuộc  
phạm vi của BHXH bắt buộc còn chiếm một tỷ  lệ  lớn. Tuy hệ  thống BHXH của  
nước ta đã bắt đầu thực hiện BHXH tự nguyện nhưng mới chi có một số lượng lao 
động rất nhỏ biết và tham gia. Ngoài ra, Nghị  đinh Ol/CP của Chính phủ  ra đời đã  

25


×