TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA BẢO HIỂM KINH TẾ
Đề tài: Chế độ trợ cấp thai sản
Lớp tín chỉ: An sinh xã hội_8
Sinh viên thực hiện:
…………………..
Hà Nội, Năm 2016
Mục Lục
3
LỜI MỞ ĐẦU
Chế độ trợ cấp thai sản có vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách BHXH và
là một chế độ không thể thiếu đối với người lao động không chỉ bởi tính nhân văn,
nhân đạo sâu sắc mà còn bởi chính tỉnh chất nội tại của nó là sản xuất ra sức lao
động xă hội. BHXH đã được Liên hợp Quốc thừa nhận và coi đó là một trong những
quyền lợi cơ bản của con người. Do đó, BHXH cần phải được thực hiện đối với
mọi người lao động. Trong những điều kiện khác nhau của đất nước, chính sách
BHXH cũng có sự thay đối góp phần to lớn giúp cho người lao động ổn định cuộc
sống khi họ gặp phải những sự kiện bảo hi ểm. Trong những năm qua, chế độ thai
sản đã bảo vệ cho hàng vạn lao động nữ và hàng vạn trẻ em. Với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường cũng như sự phát triển và tiến bộ xã. Chế độ thai sản đã góp
phần giảm bớt những gánh nặng cho người lao động đặc biệt là lao động nữ trong
xã hội.
Chế độ trợ cấp thai sản trên thế giới
I.
1.
Châu Âu:
Châu Âu được xem là như là châu lục có chế độ an sinh xã hội cao nhất thế giới.
Đặc biệt chế độ trợ cấp sinh đẻ ở khu vực Châu Âu rất cao. Trong bối cảnh Châu
Âu ngày càng già hóa dân số và tình trạng sinh đẻ giảm mạnh thì các nước Châu Âu
khuyến khích các mẹ sinh em bé và có những chính sách phúc lợi trợ cấp thai sản rất
tốt. Các nước Châu Âu như Iceland, Thụy Điển, Pháp,...được coi là “thiên đường”
của những người sắp làm cha mẹ bởi chế độ ưu đãi rất tuyệt vời.
1.1.
Đức
4
Nước Đức là một trong số những nước có trợ cấp thai sản cao nhất thế giới. Phụ
nữ mang thai ở Đức được hưởng nhiều quyền lợi và những ưu tiên đặc biết như:
Bà bầu ở Đức không bị mất việc: Các công ty, xí nghiệp không được phép sa
thải lao động nữ khi đang có bầu dù có đang trả qua thời kỳ suy thoái kinh tế.
Khám thai bằng bảo hiểm y tế rất tốt
Có thể nói chế độ bảo hiểm xã hội của Đức là một trong những nước có chất
lượng nhất châu Âu. Tất cả những người có giấy tờ hợp pháp sống trên đất nước
Đức đều bắt buộc phải có bảo hiểm xã hội. Ngay khi vào làm việc ở xí nghiệp thì
người lao động đã được đóng bảo hiểm xã hội. Do vây, chi phí mỗi lần khám thai
hay kiểm tra thai kỳ qua các gia đoạn của các bà mẹ đều do bảo hiểm chi trả. Ở
Đức, vào bệnh viện ai cũng được đối xử như ai, không tốt hơn mà cũng chẳng kém
hơn, không bị phân biệt đối xử người nước ngoài hay người Đức. Có một điều dễ
nhận thấy một điều là dù các bà mẹ có đẻ rơi ở bất kỳ bệnh viện nào thì bà mẹ và
con của bạn cũng vẫn được chăm sóc kỹ lưỡng và nhiệt tình.
Năm 2014, Chính phủ Đức đã thanh toán 53,7 tỉ Euro trợ cấp nuôi con, chiếm
73% tổng ngân sách dành cho gia đình.
Người Đức cho rằng, 3 năm đầu của trẻ rất cần có cha mẹ bầu bạn nên các bậc
phụ huynh cần dành nhiều thời gian để ở bên cạnh trẻ. Vì thế, trước khi trẻ 3 tuổi,
cha mẹ đều có thể nghỉ thai sản. Nghỉ thai sản của nước Đức được chia thành nghỉ
sinh con của người mẹ và nghỉ nuôi con của cả cha lẫn mẹ, thời gian nghỉ dài nhất
đến khi bé tròn 3 tuổi. Trong đó, có 1 năm là nghỉ phép có lương.
Người mẹ nghỉ thai sản tổng cộng khoảng 14 tuần: trước khi sinh 6 tu ần và sau
khi sinh 8 tuần. 6 tuần trước khi sinh, trừ khi thai ph ụ đồng ý, nhà tuyển dụng không
thể yêu cầu họ làm việc. 8 tuần sau sinh, cho dù sản phụ có muốn làm việc đi chăng
nữa cũng vẫn phải nghỉ ở nhà. Trong trường hợp sinh sớm hoặc đa thai, thời gian
nghỉ đẻ có thể kéo dài đến 12 tuần.
5
Từ khi đứa trẻ sinh ra đến khi 3 tuổi, cha mẹ bé đều có thể xin nghỉ ở nhà chăm
con và hưởng 65% 67% thu nhập bình quân trước khi nghỉ, trợ cấp trung bình mỗi
tháng từ 300 Euro – 1800 Euro ( khoảng 6,8 triệu VND – 41 triệu VND).
1.2.
Phần Lan
Phần Lan được ngợi khen như vậy là bởi đất nước này có chế độ phúc lợi xã hội
cao, mức sống của người dân cũng ở mức cao và được đảm bảo chế độ chăm sóc
sức khỏe toàn diện. Phần Lan được xem là một đất nước tuyệt vời để sinh đẻ và
nuôi dạy con với những điều kiện của chế độ thai sản đặc biệt. Nhằm kích thích
sinh sản và cải thiện nền dân số già của mình, Phần Lan đưa ra rất nhiều chính sách
để giúp đỡ cho những cặp vợ chồng muốn có con.
Thời gian nghỉ phép có lương của các bậc cha mẹ ở Phần Lan kéo dài đến 18
tuần cho người mẹ và 9 tuần cho người bố. Bên cạnh đó họ còn có khoảng 26 tuần
nghỉ chung trong khi vẫn hưởng đến 7090% tiền lương.
Chính sách hỗ trợ của Phần Lan cũng bao gồm chính sách trợ cấp nuôi con. Theo
đó trợ cấp dành cho một đứa trẻ mới sinh trong mỗi gia đình là 100 euro/tháng
(khoảng 2,6 triệu VND), từ đứa thứ 3 là 141 euro/tháng (khoảng 3,7 triệu VND) và
từ đứa thứ năm sẽ là 182 euro/tháng (tương đương 4,7 triệu VND). Khoản tiền này
có thể được cung cấp cho đến khi đứa trẻ 17 tuổi. Ngoài ra, mỗi khi một đứa trẻ
được chào đời, chính phủ sẽ tặng cho mỗi bà mẹ một chiếc hộp dụng cụ với đầy
đủ các đồ dùng cần thiết cho việc chăm sóc một đứa trẻ: đồ trẻ em, túi ngủ, đồ
dùng ngoài trời, sản phẩm tắm cho em bé, tã lót và đệm. Hộp quà này hoàn toàn
miễn phí và được áp dụng với tất cả mọi người không kể giàu nghèo. Chính vì
những lý do này mà Phần Lan được bầu chọn là đất nước lý tưởng nhất cho các bà
mẹ.
6
1.3.
Thụy Điển
Thụy Điển là thiên đường để trở thành cha mẹ, và tất nhiên cũng là thiên đường
cho những đứa trẻ. Tại đất nước này, thời gian nghỉ thai sản có thể kéo dài đến vài
năm và được chia cho cả bố và mẹ. Các cặp vợ chồng có con dưới 8 tuổi cũng có
quyền làm việc bán thời gian và tiếp tục công việc cũ.
Chính phủ cho phép một cặp vợ chồng được nghỉ tổng cộng là 480 ngày, được
hưởng 80% thu nhập và thời gian hết sức linh hoạt khi sinh con.
Ví dụ, một người phụ nữ có thu nhập khoảng 39.000 USD/năm sẽ được nhận
2.500 USD/tháng cho 6,5 tháng; cô ấy cũng có thể lựa chọn nhận 1 nửa số tiền trợ
cấp trên và kéo dài thời gian nghỉ đến 13 tháng hoặc nghỉ dài hơn với mức trợ cấp
thấp hơn.
Năm 1974, Thụy Điển là quốc gia đầu tiên trên thế giới thay thế “nghỉ thai sản”
bằng “nghỉ cho bố mẹ” với thời gian ngh ỉ thai sản dành cho cả cha và mẹ Trong bối
cảnh trách nhiệm nghỉ việc chăm sóc con cái không còn chỉ dành cho phụ nữ, nhưng
quy định mới đã không làm thay đổi đột ngột vai trò về giới trong việc chăm sóc con
nhỏ. Người mẹ tiếp tục chiếm đa số trong nghỉ thai sản và chỉ một số rất ít người
cha nghỉ chế độ này.
Để thay đổi, chính phủ đã đưa ra một chương trình gọi là “côta dành cho bố” vào
năm 1995. Các ông bố được 30 ngày nghỉ để khuyến khích họ ở nhà chăm con và
nếu không sử dụng ngày nghỉ họ sẽ không nhận được trợ cấp nghỉ thai sản.
Việc áp dụng “côta” này đã có ảnh hưởng rộng rãi, tỷ lệ các ông bố sử dụng chế
độ nghỉ thai sản tăng từ 44% lên 77%. Luật đã có tác động rất lớn đối với các ông bố
có thu nhập thấp và những người có con sinh ở nước ngoài. Các ông bố tăng cường
sử dụng thời gian nghỉ thai sản theo quy định mới vì ý nghĩa của Luật là “hoặc sử
dụng hoặc lãng phí quyền lợi của mình”.
7
Năm 2002, “côta” này tăng đến 60 ngày cũng khiến cho số lượng các ông bố
hưởng chế độ tăng nhẹ, tuy không biến chuyển mạnh mẽ như tác động của Luật
năm 1995. Đến tháng 01/2016, “côta” này được tăng lên 90 ngày.
1.4.
Na Uy
Na Uy là một trong những nước có chế độ thai sản cao nhất trong khu vực Châu
Âu. Chế độ chăm sóc trước và sau sinh tại Na Uy là hoàn toàn miễn phí, được hỗ trợ
bởi hệ thống y tế công. Điều đó có nghĩa là bà mẹ tương lai phải trả chính xác 0
đồng cho các chi phí y tế, các buổi khám chữa bệnh, nằm viện… trong và sau khi
mang thai của họ.
Gia đình bà bầu được chính phủ Na Uy thanh toán mọi chi phí trong và sau khi
mang thai, không phải trả bất kỳ chi phí nào liên quan, mà hơn nữa, chính phủ sẽ trả
tiền vì bạn đã có con.
Mọi bà mẹ sẽ nhận được một khoản trợ cấp khoảng 6.000 USD vào tháng thứ 6
của thai kỳ để trang trải cho việc mua sắm đồ đạc chuẩn bị đón em bé chào đời. Khi
em bé ở trong tháng tuổi thứ 13 đến 23, nếu chưa được gửi đi nhà trẻ, người mẹ sẽ
được nhận hỗ trợ gần 1.000 USD trong tối đa 10 tháng, cho tới khi bé đi nhà trẻ. Bên
cạnh đó, mỗi tháng kể từ khi con sinh ra, chính phủ cũng sẽ trợ cấp một khoản tiền
nhỏ (khoảng 150 USD) cho tới khi trẻ được 18 tuổi. Các mức hỗ trợ này được xem
xét tăng lên cứ 45 năm một lần.
Sau khi em bé được sinh ra, toàn bộ các chi phí khám chữa bệnh, kiểm tra sức
khoẻ thường niên, tiêm chủng, khám răng… đều hoàn toàn miễn phí. Thậm chí các
chi phí liên quan tới đi lại và chi phí dành cho người thân (chồng) khi ở cùng cũng
được bệnh viện chi trả hết. Thực tế là khi sinh con tại Na Uy, bệnh viện đã chi trả
hết các chi phí đi lại và ăn cho người thân sản phụ trong thời gian 4 ngày tôi nằm
viện.
8
Về quyền lợi thai sản của bố mẹ, Na Uy có một chế độ rất hào phóng. Bạn có
thể lựa chọn giữa việc nghỉ 49 tuần với 100% lương hoặc 59 tu ần với 80% l ương
mỗi tháng với điều kiện bạn đi làm và có hợp đồng lao động ít nhất 6 tháng trước
khi sinh em bé. Đặc biệt, chế độ này được áp dụng với cả cha và mẹ sau khi có sự
xuất hiện của một thành viên mới chứ không chỉ riêng với mẹ như rất nhiều quốc
gia khác.
2.
Châu Á:
2.1.
Nhật Bản
Nhật Bản là một trong những nước được coi là “thiên đường sinh con” trên thế
giới. Vì tỉ lệ sinh ở đất nước mặt trời mọc là đang ở mức đáng báo động (tức số trẻ
sinh ra không đủ thay thế thế hệ cũ) nên chính quyền Nhật Bản đã nghĩ đến việc
tăng quyền lợi thai sản để thúc đẩy tỷ lệ sinh. Các mẹ chỉ việc ăn ngon, nghỉ ngơi
cho thật tốt, chỉ chờ đến ngày sinh con và các chi phí trong quá trình sinh con sẽ do
chính phủ chịu trách nhiệm, có vài trường hợp sau khi sinh con xong các mẹ còn
được nhận một ít tiền hay còn gọi là tiền mừng. Tại Nhật việc sinh con được sự hỗ
trợ rất tốt từ phía chính phủ, từ lúc sinh con cho đến lúc con cái bạn trưởng thành
(học hết trung học) đều nhận được chi phí nuôi dưỡng con cái.
Chế độ này không chỉ dành riêng cho người Nhật mà người nước ngoài cũng
được hưởng chế độ này. Hiện nay số lượng người nước ngoài đang sinh sống tại
Nhật khá đông, vì các chế độ bảo hiểm, phúc lợi, dịch vụ của Nhật rất tốt nên một
số gia đình quyết định sinh con tại Nhật. Khi sống tại Nh ật , những ng ười có thẻ
bảo hiểm sức khỏe thì bất cứ ai khi sinh con cũng được nhà nước cho 42man yên.
Tại Nhật tỉ lệ tử vong thai nhi là thấp nhất trên thế giới. Vì vậy, khi sinh con ở
Nhật thật sự rất an toàn cho cả mẹ và em bé. Các loại chi phí như phí đẻ thường ,
phí nằm viện và tổng tiền các chi phí này là khoảng 42 man yên (số tiền này sẽ thay
đổi tùy theo số ngày nằm viện hoặc sử dụng các dịch vụ khác mà số tiền này sẽ
9
khác nhau ). Sau khi trừ đi số tiền đã dùng trong quá trình điều dưỡng tại bênh viện
nếu không vượt quá 42 man thì số tiền còn lại sẽ được gửi đến bạn theo cách thức
được chuyển tiền vào sổ ngân hàng của bạn . Số tiền này bạn tự do sử dụng.
Trường hợp đẻ khó tổng các chi phí là 150 man. Trường hợp này phía bảo hiểm sẽ
hỗ trợ chi phí với tỉ lệ là 2/3, còn 1/3 là 50 man yên các bạn sẽ trả. Tuy nhiên được
hưởng khấu trừ tiền điều trị cao và tiền thăm viện nên sau đó các bạn sẽ nhận được
lại 5 man. Vì vậy số tiền mà các bạn phải chi trả chỉ có 45 man yên trong tổng chi
phí 150 man yên.
Trên thế giới chỉ có nhật bản mới hỗ trợ cho các sản phụ những chế độ như thế
này vì thực tế các ca đẻ khó số tiền phải trả thật sự rất cao,. Đây cũng là 1 trong
những chương trình khuyến khích sinh con tại Nhật để tăng dân số. Có thể nói tại
Nhật các chi phí sinh đẻ hầu như không cần quá lo lắng. Trong trường hợp sinh 3,
nhà nước sẽ hỗ trợ thêm tiên mua sữa và tã em bé. Không những vậy sau khi sinh
con, hàng tháng còn được nhà nước hỗ trợ số tiền lên đến 1man 5sen cho đến khi
học hết trung học. Đối với các trường hợp đẻ quá khó và phải mất nhiều chi phí
trong quá trình sinh nở hàng tháng sẽ được chính phủ hoàn lại một phần tiền.
Nhiều phụ nữ lo lắng nếu như có con sẽ phải nghĩ việc, sau khi nghỉ sinh con thì
không thể quay trở lại làm việc. Vấn đề này không nên quá lo, tại các công ty Nhật
hiện nay đều có qui định cho phụ nữ nghỉ ngơi, chăm sóc con trong vòng 1 năm sau
đó có thể quay lại làm việc bình thường. Theo như chính sách mới, nhằm hỗ trợ
cũng như nâng cao giá trị của người phụ nữ trong xã hội, các công ty đều có các chế
độ riêng cho phụ nữ có con như làm việc từ 9:30 đến 16giờ, hoặc hàng tháng có
ngày nghỉ riêng cho bố và mẹ, để gia đình có thời gian sum họp bên nhau. Thêm 1
điểm mà các mẹ cần chú ý, đó chính là trước khi sinh con 42 ngày và sau khi sinh 56
ngày các mẹ phải xin phép nghỉ làm. Thời gian này là nghỉ không lương ở công ty
( nếu có nhận lương từ công ty thì dù chỉ 1 man thì cũng không được hưởng bảo
hiểm). Tuy nhiên sẽ nhận được từ bảo hiểm sức khoẻ là 2/3 số lương.
10
Ngoài ra, có các trường hợp mà chúng ta không biết ví dụ như khi bị sảy thai và
các tình trạng do mang thai gây ra cũng sẽ được hưởng 2/3 số lương từ bảo hiểm
sức khoẻ. Tiền này gọi là tiền hỗ trợ thương tật ( tuy nhiên cần xin phép nghỉ làm và
không nhận lương từ công ty thì mới được hưởng
Ngoài ra nếu các mẹ không thích sinh con tại Nhật do nhiều lý do khác nhau mà
muốn sinh con ở nước khác. tuy nhiên trong thời gian mang thai cần khám thai định
kỳ ở bên Nhật sau đó xin bác sỹ chuyển về nước bạn muốn sinh, sau khi sinh mang
đầy đủ giấy tờ của con sang lại Nhật người mẹ vẫn có thể xin bảo hiểm nhận số
tiền trợ cấp sinh tại Nhật ( Khoảng 42 man ) tại khu vực mình đang sinh sống
2.2. Thái Lan
Để có thế hưởng chế độ trợ cấp thai sản ở Thái Lan thì những người đang mang
thai hoặc sinh đẻ có tham gia BHXH phải có thời gian đóng góp trước khi sinh tối
thiểu là 7 tháng đóng góp trong 15 tháng trước khi sinh ( chỉ giới hạn trong 2 tuần
sinh). Với mức thời gian nghỉ là 3 tháng sẽ giúp người lao động nữ hoàn toàn lấy lại
sức khỏe sau khi sinh con, và chuẩn bị tốt tâm lý cho một giai đoạn mới. Lao động
nữ sẽ được hưởng mức trợ cấp là 50% lương trước khi nghỉ trong vòng 90 ngày cho
một lần sinh. Thực hiên trợ cấp một lần là 4000 bạt cho một lần sinh.
3.
Châu Phi:
Dân số châu Phi ngày càng tăng và theo ước tính của Liên Hợp quốc, 40% dân số
thế giới sẽ sống ở châu lục này vào năm 2050. Các nền kinh tế châu Phi cũng đang
tăng trưởng cùng với sự gia tăng của lực lượng lao động, tuy nhiên trong khi một số
quốc gia có xu hướng tăng thời gian nghỉ nuôi con, một số khác đang gặp khó khăn
để thực hiện điều luật này.
Là một trong các nền kinh tế phát triển của khu vực, Kenya tự hào có một cơ
quan thực hiện luật lao động ấn tượng. Đa số các luật về lao động của Kenya đều
rất tốt, trong đó điều luật quy định lao động nữ được nghỉ thai sản ba tháng và không
11
bị mất quyền nghỉ phép hàng năm có hiệu lực từ năm 2007 để phụ nữ có thể cân
bằng các nhu cầu về công việc và gia đình.
Tuy nhiên, rất nhiều phụ nữ Kenya cho biết thực tế không hoàn toàn như vậy.
Rất nhiều công ty tư nhân ở Kenya có vấn đề trong thực hiện chế độ nghỉ thai sản.
Trong những công ty này, các quy định do người chủ đưa ra. Hầu hết các công ty
không chỉ không thực hiện chế độ nghỉ thai sản ba tháng mà còn rất ít công ty trả
đầy đủ lương cho lao động nữ nghỉ chế độ.
Hiện các nước châu Phi đã bắt đầu quan tâm đến chế độ nghỉ nuôi con. Theo một
báo cáo của ILO, 82% trong số 50 nước châu Phi được nghiên cứu đã thực hiện tối
thiểu 12 tuần nghỉ thai sản. Nhiều nước gần đây đã tăng thời gian này và Nam Phi
cũng đang trong nỗ lực để tăng thời gian nghỉ thai sản dài hơn nữa.
a.
Nam Phi
Phụ nữ sinh nở được nghỉ 4 tháng hưởng đến 60% thu nhập. Chế độ này hào
phóng hơn rất nhiều quốc gia Châu Phi khác đấy. Chị em khi sinh nở ở đây còn bị
cấm làm việc trong ít nhất 6 tuần sau sinh.
b.
Tanzania
Phụ nữ ở quốc gia Đông Phi này chỉ được nghỉ hưởng lương đến 84 ngày mỗi 3
năm (100 ngày nếu sinh đôi hoặc sinh ba, tư), và họ có thể nghỉ thai sản đến 4 lần
trong khi đang làm việc cho cùng một doanh nghiệp. Người cha chỉ được nghỉ 3
ngày.
Đến năm 2013, ít nhất 78 trên tổng số 167 quốc gia quy định hình thức nghỉ phép
nhất định dành cho các bậc làm cha khi con mình chào đời. Đó là một sự tiến bộ bởi
vào năm 1994, chế độ nghỉ thai sản dành cho nam giới chỉ tồn tại ở 40 trên tổng số
141 quốc gia có số liệu.Chế độ thai sản dành cho các bậc làm cha được áp dụng phổ
biến nhất tại các nền kinh tế phát triển, châu Phi, Đông Âu và Trung Á.
4.
Châu Mỹ:
12
Tuy nhiên không phải quốc gia nào cũng có một chế độ thai sản ưu đãi và cũng
không phải quốc gia càng phát triển thì trợ cấp xã hội càng cao.
Khác với luật pháp về chế độ thai sản ở các nước, mặc dù là nước công nghiệp
phát triển nhất thế giới nhưng Mỹ lại nằm trong số các quốc gia có chế độ kém hào
phóng nhất đối với bậc cha mẹ khi sinh em bé. Một người mới làm mẹ bỏ việc khi
sinh con không phải là chuyện bất thường ở Mỹ, các bà mẹ Mỹ chỉ có sáu tuần nghỉ
không lương để chăm con. Dù Mỹ vẫn còn chưa có luật liên bang cho phép nghỉ thai
sản có lương một số bang đang giải quyết vấn đề này, một luật mới ở New Jork
đảm bảo rằng những người mới làm mẹ có 12 tuần nghỉ được trả lương, Califorlia
chi trả 55% của sáu tuần, New Jersey chi trả 67%, Rhode Island chi trả bốn tuần.
Nếu sống ở một trong bốn bang đó các bà mẹ sẽ được bảo hộ và hội đủ điều kiện
để nghỉ có lương nhưng nếu bạn sống ở những nơi khác ở Mỹ thì phụ thuộc vào
chủ lao động có tự nguyện cung cấp những phúc lợi đó hay không vì không có bất
kỳ chương trình quốc gia nào cung cấp sự thay thế tiền lương. Mới đây bà Hillary
Clinton ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ ủng hộ một chương trình quốc
gia cho phép những người mới làm mẹ nghỉ 12 tuần thai sản có lương. Đây là sự
tiến bộ so với luật Nghỉ phép Gia đình và Y tế năm 1993 của Mỹ cho nhân viên
chính phủ hoặc những người trong những công ty tư nhân với 50 nhân viên được
nghỉ phép không lương mà không mất việc làm. Nhưng những người chỉ trích nói
rằng luật này chỉ bảo hộ 60% những người mới làm mẹ và chỉ có 60% nhân viên hội
đủ điều kiện và nhiều người mới là mẹ mới không thể nghỉ việc. Mỹ vẫn chưa bắt
kịp với một thực tế là hầu hết những người phụ nữ ngày nay đi làm, hầu hết những
người mẹ đi làm thậm trí phần lớn những người có con rất nhỏ là lực lượng lao
động được trả lương. Xong, một số công ty không chỉ nghỉ thai sản có lương mà còn
cho người mới làm cha được nghỉ 6 tuần có lương. Những người phản đối bộ luật
nghỉ phép gia đình có lương lại cho rằng nó có hại cho kinh doanh bởi nó quá tốn
13
kém, những doanh nghiệp nhỏ không kham nổi gánh nặng đè lên nó hay những
khoản tăng thuế. Nhưng những người ủng hộ ý tưởng này cho rằng chi phí nghỉ thai
sản có lương là rất thấp so với lợi ích đối với gia đình
Thành phố San Francisco trở thành thành phố đầu tiên ở Mỹ yêu cầu các doanh
nghiệp trả nguyên lương cho các cặp vợ chồng mới sinh con trong thời gian nghỉ thai
sản.Với quy định đã được hội đồng giám sát địa phương thông qua này các cặp vợ
chồng mới sinh con sẽ được nghỉ và hưởng nguyên lương sáu tuần. Người lao động
chỉ có đủ điều kiện khi họ đã là việc cho công ty 180 ngày, quy định này sẽ có hiệu
lực vào ngày 1/1/2017 đối với các công ty có hơn 50 nhân viên và có hiệu lực sau đó
1 năm với các công ty có khoảng 20 nhân viên. Quy định này tốt cho tất cả mọi
người liên quan, các cặp bố mẹ có thể giành thời gian chăm sóc cho con mà không
phải vội vã quay trở lại làm việc. Mỹ cần phải chấm dứt việc nhìn các cặp bố mẹ
phải đưa ra quyết định khủng kiếp là chăm con hay làm việc. Quy định mới cũng gây
ra nhiều tranh cãi nhất là đối với các doanh nghiệp nhỏ, họ cho rằng mình sẽ phải
tăng chi phí sản xuất. Quy định mới sẽ còn được phải chờ đợi một cuộc bỏ phiếu
quan trọng của hội đồng Giám sát địa phương và thị trưởng thành phố ông Ed Lee .
II. CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP THAI SẢN CỦA VIỆT NAM
1. Sơ lược về lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
Bảo hiểm xã hội (sau đây được viết tắt là BHXH) xuất hiện đầu tiên ở Việt Nam
từ những năm 1930 thời kỳ Pháp thuộc. Đây là chế độ trợ cấp do chính quyền thuộc
địa thực hiện đối với nhân dân và viên chức Việt Nam làm việc trong bộ máy hành
chính và lực lượng hành chính của Pháp ở Đông Dương khi bị ốm đau già yếu hoặc
chết. Tuy nhiên, đối với công nhân Việt Nam gần như chính quyền Pháp không công
nhận quyền lợi của họ. Điển hình là công nhân ở các nhà máy bị ốm đau, bệnh tật
hay chết đều không được hưởng chế độ chữa bệnh, mai táng. Sau cách mạng tháng
14
8/1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập. Ngày 12/1946 Quốc hội
thông qua Hiến pháp đầu tiên của nhà nước dân chủ nhân dân. Trong Hiến pháp xác
định quyền được trợ cấp của người tàn tật và người già. Và để quy định về chế độ
trợ cấp cho công nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 29/SL vào ngày
12/3/1947. Tuy nhiên, do quy định của Sắc lệnh trên chưa điều chỉnh đầy đủ về các
chế độ BHXH, nên đến ngày 22/5/1950 Hồ Chủ tịch đã ký thêm Sắc lệnh số 76/SL
và số 77/SL để quy định cụ thể về các chế độ: Ốm đau, thai sản, hưu trí, chăm sóc y
tế, tai nạn lao động và tiền tuất đối với cán bộ, công nhân viên chức. Đến ngày
6/12/1958 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 523/TTg, quy định chế độ trợ
cấp dài hạn cho quân nhân tình nguyện đã phục viên từ ngày hoà bình lập lại mang
bệnh kinh niên tái phát yếu ốm, không còn khả năng lao động được Hội đồng Giám
định Y khoa xác nhận trợ cấp do ngân sách đài thọ. Chính sách BHXH và việc tổ
chức thực hiện các chính sách đó thực sự là nguồn cổ vũ lớn lao đối với công nhân
viên chức, giúp cho họ yên tâm hăng hái lao động sản xuất, góp phần xây dựng chế
độ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam. Song,
nó còn bộc lộ những điểm không phù hợp:
+ Đối tượng tham gia còn hạn hẹp, đối tượng được hưởng chế độ BHXH chỉ có
cán bộ công nhân, viên chức, chưa mở rộng đến các thành phần kinh tế khác do đó
đã làm mất đi tính tích cực, tính ưu việt của chính sách BHXH đối với người lao
động, chưa xác lập được sự công bằng giữa những người lao động trong việc thực
hiện nghĩa vụ và quyền lợi về BHXH.
+ Việc thực hiện các chính sách BHXH còn phân tán không có hiệu quả. Vì thế
nó chưa thực sự trở thành chính sách xã hội lớn. Do đó, Chính phủ đã ban hành Điều
lệ tạm thời về BHXH vào ngày 25/12/1961 kèm theo Nghị định số 218/CP nhằm xây
dựng hệ thống BHXH mới. Trong thời gian thực hiện Điều lệ tạm thời này các chế
độ, chính sách BHXH đã không ngừng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng
thời kỳ, điều đó được thể hiện qua việc Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm
15
thời về các chế độ đãi ngộ quân nhân trong khi ốm đau, bị thương, mất sức lao
động, về hưu hoặc chết; nữ quân nhân khi có thai và khi đẻ; quân nhân dự bị và dân
quân tự vệ ốm đau, bị thương hoặc chết trong khi làm nhiệm vụ quân sự kèm theo
Nghị định số 161/CP vào ngày 30/10/1964.
Từ năm 1975 thì chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước.
Chế độ BHXH bao gồm: Trợ cấp hưu trí; mất sức lao động và tử tuất; cùng với các
chế độ ốm đau; thai sản và tai nạn lao động; bệnh nghề nghiệp do cơ quan đơn vị và
doanh nghiệp đóng góp.
Đến năm 1995, BHXH do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm
quản lý thực hiện về các chế độ trợ cấp dài hạn (hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp đối với người nghỉ việc), Tổng Liên đoàn Lao động chịu trách
nhiệm quản lý thực hiện các khoản chi trả trợ cấp ngắn hạn (trợ cấp đau ốm, thai
sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người đang làm việc).
Ngày 16/02/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP thành lập BHXH Việt
Nam trên cơ sở thống nhất chức năng nhiệm vụ các bộ của bộ Lao Động Thương
Binh và Xã Hội và Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam, nhằm giúp Thủ tướng
chính phủ tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ về BHXH, BHYT và quản lý
quỹ BHXH.
Ngày 26/01/1995 Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 12/CP về Điều lệ
BHXH đối với năm chế độ BHXH: Chế độ trợ cấp ốm đau; trợ cấp thai sản; trợ
cấp tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ trợ cấp tử tuất.
Và ngày 15/7/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 45/CP quy định về BHXH đối
với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân và sĩ
quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân. Ngày 24/01/2002, Chính phủ có Quyết
định số 20/2002/QĐTTg chuyển hệ thống BHYT trực thuộc Bộ Y tế sang BHXH
Việt Nam và ngày 06/12/2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 100/2002/NĐCP
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam
16
(bao gồm cả BHYT). Trong suốt thời gian áp dụng chính sách BHXH từ năm 1945
đến trước ngày Luật Bảo hiểm xã hội 2006 có hiệu lực, ta có thể thấy chính sách
BHXH không ngừng mở rộng đối tượng tham gia, tạo lập được quỹ BHXH độc lập
với ngân sách nhà nước, các chế độ BHXH đã góp phần ổn định đời sống của người
lao động trong quá trình lao động và nghỉ hưu; quy định rõ trách nhiệm của người sử
dụng lao động và nghĩa vụ của người lao động, giải quyết hợp lý hơn mối quan hệ
giữa đóng và hưởng, khắc phục một bước tính bình quân nhưng vẫn đảm bảo tính
xã hội thông qua việc điều tiết, chia sẻ rủi ro. Song, vẫn còn một số mặt hạn chế:
đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tuy đã được mở rộng nhưng số người tham gia
chưa nhiều; quyền lợi và trách nhiệm của người lao động quy định trong các chế độ,
nhất là hưu trí và tử tuất chưa hợp lý, chưa có giải pháp tích cực để chống tình trạng
chiếm dụng, nợ đọng tiền đóng BHXH, quỹ BHXH dài hạn (thực hiện chế độ hưu
trí và tử tuất) chưa bảo đảm cân đối lâu dài. Mặt khác, loại hình BHXH tự nguyện
chưa được quy định cụ thể, nên người lao động không thuộc đối tượng tham gia
BHXH bắt buộc có nguyện vọng nhưng chưa được tham gia. Trong nền kinh tế thị
trường người lao động luôn phải đối mặt với những rủi ro do bị mất việc làm, trong
khi chính sách về bảo hiểm thất nghiệp cho người bị thất nghiệp chưa được ban
hành. Ngoài ra, hệ thống văn bản pháp luật về BHXH đa số là những văn bản dưới
luật và tản mạn, nên việc thực hiện các chế độ BHXH còn chưa đồng bộ, chưa
thống nhất.
Xuất phát từ tình hình trên, ngày 29/6/2006 Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật
Bảo hiểm xã hội tại kỳ họp thứ chín. Luật này quy định ba chế độ BHXH đối với
người lao động là: BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và BHXH thất nghiệp. Sau
đó, nhằm để cụ thể hóa các quy định về BHXH bắt buộc trong Luật Bảo hiểm xã
hội nói chung và chế độ thai sản nói riêng, thì ngày 22/12/2006 Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 152/2006/NĐCP. Và đến ngày 29/12/2015 Bộ Thương binh và xã
hội đã ra thông tư mới nhất 59/2015/TTBLĐTBXH quy định chi tiết và hướng dẫn
17
thi hành một số điều của luật bảo hiểm xã hội có hiệu lực từ ngày 15/02/2016, cụ
thể như sau:
I.1
. Điều kiện hưởng chế độ thai sản:
– Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường
hợp sau đây:
Lao động nữ mang thai.
Lao động nữ sinh con.
Người lao động nhận nuôi con nuôi ≤ 4 tháng tuổi.
Người lao động đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản.
– Người lao động phải đóng BHXH từ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng
trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.
1.2.
Thủ tục hồ sơ hưởng chế độ thai sản:
Theo điều 9 Quyết định số 01/QĐBHXH ngày 03/01/2014 của BHXH Việt Nam,
có hiệu lực ngày 01/4/2014:
a.
Đối với lao động nữ sinh con, gồm:
– Sổ bảo hiểm xã hội.
– Giấy chứng sinh (bản sao) hoặc Giấy khai sinh (bản sao) của con .
Nếu sau khi sinh, con ch ết thì có thêm Giấy báo tử (bản sao) hoặc Giấy
chứng tử (bản sao) của con. Đối với trường hợp con chết ngay sau khi sinh mà
không được cấp các giấy tờ này thì thay bằng bệnh án (bản sao) hoặc giấy ra viện
của người mẹ (bản chính hoặc bản sao).
– Danh sách thanh toán chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe
Mẫu số C70AHD (Ban hành theo Thông tư số 178/TTBTC ngày 23/10/2012 của Bộ
Tài chính).
18
b.
Đối với lao động nữ đi khám thai, lao động nữ bị sảy thai, nạo, hút thai, thai
chết lưu và người lao động thực hiện các biện pháp tránh thai gồm:
Sổ bảo hiểm xã hội.
Giấy ra viện (bản chính hoặc bản sao) hoặc Giấy chưng nh
́
ận nghỉ việc
hưởng BHXH mẫu C65HD hoặc giấy khám thai (bản chính hoặc bản
sao), sổ khám thai (bản chính hoặc bản sao).
c.
d.
Danh sách thanh toán (Mẫu số C70aHD).
Đối với người lao động nhận nuôi con nuôi, gồm:
Sổ bảo hiểm xã hội.
Giấy chứng nhận nuôi con nuôi của cấp có thẩm quyền (bản sao).
Đơn đề nghị hưởng trợ cấp thai sản mẫu 11BHSB.
Danh sách thanh toán (Mẫu số C70aHD)
Nếu sau khi sinh con người mẹ chết, người cha hoặc người trực tiếp nuôi
dưỡng con, gồm:
1.3.
Sổ bảo hiểm xã hội của mẹ.
Sổ bảo hiểm xã hội của người cha.
Giấy chứng sinh (bản sao) hoặc giấy khai sinh (bản sao) của con.
Giấy chứng tử của người mẹ (bản sao).
Đơn đề nghị hưởng trợ cấp thai sản mẫu 11AHSB.
Danh sách thanh toán (Mẫu số C70aHD).
Trình tự thực hiện:
19
Bước 1: Người lao động nộp hồ sơ cho DN.
Bước 2: DN tiếp nhận hồ sơ để:
Giải quyết và chi trả chế độ cho người lao động;
Hàng tháng hoặc quý, lập:
Danh sách thanh toán chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi
sức khỏe (Mẫu số C70aHD) nộp cho BHXH quận, huyện.
Kèm theo hồ sơ của người lao động cùng toàn bộ phần mềm đã giải
quyết trong tháng hoặc quý để quyết toán.
Nộp hồ sơ trực tiếp tại bộ phận một cửa
Số lượng: 01 bộ
Thời hạn giải quyết:
1.4.
DN giải quyết và chi trả chế độ cho người lao động trong thời hạn 03 ngày
làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ.
Cơ quan BHXH thanh quyết toán cho DN trong thời hạn tối đa 15 ngày làm
việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ.
Thời gian hưởng chế độ thai sản:
1.5.
a.
Thời gian hưởng chế độ khi sinh con:
Theo khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Lao động số 10/2012/QH2013 ngay 18/6/2013
̀
của Quốc hội co hi
́ ệu lực thi hanh k
̀ ể tư ngay 01/05/2013
̀ ̀
Được nghỉ trước và sau khi sinh con là 06 tháng.
Trường hợp sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ 02 trở đi, cứ mỗi con, người
mẹ được nghỉ thêm 01 tháng. Tối đa không quá 02 tháng.
20
Hết thời gian nghỉ thai sản, nếu có nhu cầu có thể nghỉ thêm một thời gian
không hưởng lương theo thoả thuận với người sử dụng lao động.
Trước khi hết thời gian nghỉ thai sản, nếu có nhu cầu, có xác nhận của cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc đi làm sớm không có hại cho
sức khỏe của người lao động và được người sử dụng lao động đồng ý, lao
động nữ có thể trở lại làm việc khi đã nghỉ ít nhất được 04 tháng.
Trong trường hợp này, ngoài tiền lương của những ngày làm việc, lao động
nữ vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp thai sản.
Thời gian nghỉ nghỉ hưởng thai sản (kể cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ
hằng
tuần).
Trong thời gian mang thai được nghỉ việc để đi khám thai năm 5 lần, mỗi lần
một ngày; trường hợp ở xa cơ sở y tế hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc
thai không bình thường thì được nghỉ 2 ngày cho mỗi lần khám thai.
Thời gian hưởng chế độ khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu khi sẩy
thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu:
10 ngày nếu thai <1 tháng.
20 ngày nếu thai từ ≥ 1 3 tháng.
40 ngày nếu thai từ ≥ 3 6 tháng.
50 ngày nếu thai từ ≥ 6 tháng.
b.
Trường hợp sau khi sinh con mà con chết mẹ được nghỉ:
Lớn hơn 60 ngày tuổi được nghỉ việc 90 ngày tính từ ngày sinh con.
Nhỏ hơn hoặc bằng 60 tuổi được nghỉ việc 30 ngày tính từ ngày con chết.
21
Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản không vượt quá thời gian quy định
Trường hợp nhận nuôi con nuôi < 4 tháng tuổi thì được nghỉ việc hưởng chế độ
thai sản cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi. Trường hợp chỉ có cha hoặc mẹ tham
gia bảo hiểm xã hội hoặc cả cha và mẹ đều tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ
chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được hưởng chế
độ thai sản cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi.
c. Trường hợp thực hiện các biện pháp tránh thai:
+ Khi đặt vòng tránh thai: 7 ngày.
+ Khi thực hiện biện pháp triệt sản: 15 ngày
2.
Mức hưởng chê đô thai san:
́ ̣
̉
Trợ cấp 1 lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi bằng 2 tháng lương tối
thiểu chung cho mỗi con. (Hiên nay là
̣
1.150.000 vnđ/thang)
́
Mức hưởng chế độ thai sản: = 100% mức bình quân tiền lương, tiền công
tháng đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc của
người mẹ.
(Trường hợp chỉ có người cha tham gia BHXH hoặc cả cha cả mẹ tham gia
nhưng người mẹ chết sau khi sinh thì mức hưởng tính trên cơ sở mức bình
quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người cha; trường hợp chỉ
có mẹ tham gia mà mẹ chết sau khi sinh thì mức hưởng tính trên cơ sở mức
bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người mẹ)
Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được tính là thời gian đóng bảo
hiểm xã hội. Thời gian này người lao động và người sử dụng lao động không
phải đóng bảo hiểm xã hội.
3.
Dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau thai sản:
22
Nêu sau th
́
ời gian hưởng chế độ thai sản mà sức khoẻ còn yếu thì được nghỉ
dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 5 đên 10 ngày trong m
́
ột năm.
Mức hưởng 1 ngày:
= 25% mức lương tối thiểu chung (nếu nghỉ tại gia đình)
= 40% mức lương tối thiểu chung (nếu nghỉ tại cơ sở tập trung).
III. ĐÁNH GIÁ KẾT QUÁ THỰC HIỆN TRỢ CẤP THAI SẢN HIỆN HÀNH
l. Về chế độ thai sản
1.1 Những mặt đã đạt được
Trong thời gian mười năm (từ 1995 2004) BHXH Việt Nam nói chung đã đạt
được nhiều thành tích đáng ghi nhận: toàn ngành đã thưc hiện đầy đủ, kịp thời, đúng
chế độ chính sách cho 517.600 người hưởng chế độ hàng tháng (trong đó người
hưởng chế độ hưu trí là 334.000 người, trợ cấp cản bộ xã, phường là 6.600 người,
trợ cấp tử tuất là 161.000 người, chế độ trợ cấp tai độ trợ cấp một lần về hưu trí, từ
tuất, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp cho 1,1 triệu người; (trong đó, trợ cấp hưu
trí một lần là 920.000 người; trợ cấp cán bộ xã, phường là 113.000 người và 16.000
người hưởng chế độ trợ cấp tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp). Ngoài ra, đã giải
quyết cho trên 10 triệu lượt người hưởng chế độ ốm đau, 1,3 triệu lượt người hưởng
chế độ trợ cấp thai sản và 1,6 triệu lượt người hưởng trợ cấp nghỉ dưỡng sức. Thực
hiện giải quyết trên 53.000 trường hợp tồn đọng về chế độ BHXH trước năm 1995
theo đúng quy trình, đảm bảo đúng đối tượng, đúng chế độ quy định và thực hiện giải
quyết hướng tiếp trợ cấp mất sức lao động sau khi hết hạn hưởng cho trên 100.000
trường hợp đúng quy định. Với chế độ thai sản, BHXH Việt Nam cũng đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng, góp phần vào việc ổn định đời sống của lao động. Điều đó
được thể hiện trong bảng kết quả dưới đây:
23
24
Qua bảng số liệu 7 ta thấy:
Số tiền chi trả trợ cấp thai sản/Số thu BHXH có xu hướng tăng qua các năm: năm
1997 tỷ lệ này là 3,76% nhưng đến năm 2005 tỷ lệ này chỉ ở mức 5,37% (như vậy,
trong 9 năm tỷ lệ này chỉ tăng thêm được 1,61%). Số tiền chi trả cho chế độ trợ cấp
thai sản chiếm trung bình 4,35% số thu BHXH. Sở dĩ như vậy là vì: số tiền chỉ trả
bình quân/người lao động tăng, số ngày nghi binh quân/người lao động tăng, số
người được nghỉ hưởng trợ cấp thai sản tăng, điều này chứng tỏ được sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước ta đối với người lao động.
Ta thấy rằng, khi số lao động tham gia BHXH tăng thì số người hưởng trợ cấp
thai sản cũng có xu hướng tăng theo. Số đối tượng hưởng thai sản/Số lao động tham
gia BHXH trung bình là 3,58%, năm 1999 con số này là 2,60%, năm 2000 là 3,48%
đến năm 2005 con số này tăng lên 5,02%. cc kết quả như vậy là do: số người tham
gia BHXH tăng theo đó số người thuộc diện nhận trợ cấp thai sản cũng tăng, số
người được hưởng trợ cấp thai sản tăng qua các năm.
1.2 Những điểm còn tồn tại
Bên cạnh những điểm đã đạt được, chính sách thai sản ở nước ta vẫn còn một
số điểm tồn tại cần phải sửa đổi:Mặc dù đối tượng tham gia BHXH có mở rộng
hơn nhiều so với trước đây, nhưng số lao động nữ thực tế được tham gia BHXH
vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số lao động nữ trong độ tuổi lao động.
Phần động lao động nữ khi sinh đẻ không được hưởng quyền lợi về trợ cấp thai
sản, đặc biệt là đối với lao động nữ làm nông nghiệp, họ không được hưởng bất kể
một quyền lợi gì khi sinh con. Thực tế này là do đối tượng lao động nữ chưa thuộc
phạm vi của BHXH bắt buộc còn chiếm một tỷ lệ lớn. Tuy hệ thống BHXH của
nước ta đã bắt đầu thực hiện BHXH tự nguyện nhưng mới chi có một số lượng lao
động rất nhỏ biết và tham gia. Ngoài ra, Nghị đinh Ol/CP của Chính phủ ra đời đã
25