Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP ỐM ĐAU TẠI BHXH VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.04 KB, 24 trang )

THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP ỐM ĐAU
TẠI BHXH VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005-2009
2.1. Khái quát về BHXH Việt Nam
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH Việt Nam
Thời kỳ trước năm 1945, khi nước ta còn là nước phong kiến số quan lại trong
triều đình khi về già chỉ được hưởng bổng lộc Vua ban. Một số quan chức làm việc cho
chính quyền thực dân được hưởng một số chế độ như: hưu trí, tử tuất.
Bảo hiểm xã hội là một trong những nội dung quan trọng của chính sách xã hội.
Nên ngay từ sau cách mạng tháng 8/1945 thành công, mặc dù gặp muôn vàn khó khăn
nhưng Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc ban hành và sủa đổi bổ sung chính sách
BHXH và trợ cấp xã hội để áp dụng cho người lao độngphù hợp với điều kiện kinh tế -
xã hội ở từng thời kỳ. Riêng đối với công nhân viên chức Nhà nước và quân nhân,
Chính phủ đã nhiều lần ban hành chính sách bảo hiểm xã hội gồm các chế độ trợ cấp
khi ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động, già yếu và chế độ trợ cấp gia đình khi công nhân
viên chức từ trần để đảm bảo đời sống cho họ và gia đình, góp phần ổn định xã hội.
Ngay sau khi giành chính quyền năm 1945, Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh số 7NV/CC
ngày 17/12/1945, trưng dụng toàn bộ đội ngũ công chức để làm việc cho chính quyền
mới, đồng thời những người đủ điều kiện thì cho nghỉ hưu. Trong sắc lệnh số 54 ngày
3/11/1945 do Hồ Chủ tịch ký, đã giải quyết cho tất cả công chức làm việc đủ 30 năm
hoặc đã đến 55 tuổi được nghỉ hưu. Tiếp đó là sắc lệnh số 105 ngày 14/06/1946, quy
định chi tiết hơn chế độ và điều kiện nghỉ hưu.
Ngày 16/02/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại ký Sắc lệnh 20/SL, trong đó quy
định “Quỹ hưu bổng thương tật ”và “tiền tuất cho thân nhân tử sỹ” cấp cho thân nhân
thương tật và thân nhân tử sỹ. Đây là văn bản quan trọng đầu tiên của nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa về BHXH, vì Sắc lệnh gồm 3 chương, 16 điều rất chi tiết và có tính
hệ thống của một văn bản pháp quy. Vì thế, ngày 16 thang 02 được lấy là ngày truyền
thống của ngành BHXH nước ta. Đến năm 1950, trong kháng chiến chống Pháp Hồ
Chủ Tịch đã ký sắc lệnh số 76/SL ngày 20/051950 ban hành quy chế công chức và Sắc
lệnh số 77/SL ngày 22/05/1950 ban hành quy chế công nhân. Trong đó lần đầu tiên quy
định ngạch bậc, lương bổng và phụ cấp của các hạng công nhân khi về hưu, hưởng chế
độ nghỉ dưỡng và chế độ thai sản.


Các văn bản này đã quy định những nội dung có tính nguyên tắc về bảo hiểm xã
hội, song do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, trong kháng chiến và do kinh tế khó
khăn nên Nhà nước chưa nghiên cứu chi tiết và thực hiện đầy đủ các quyền lợi về bảo
hiểm xã hội cho công nhân viên chức, mà các chế độ chủ yếu mang tính cung cấp, bình
quân với tinh thần “đồng cam cộng khổ”. Về nội dung chưa thống nhất giữa khu vực
hành chính và sản xuất, giữa công nhân kháng chiến và công nhân sản xuất dân dụng,
các khoản chi về Bảo hiểm xã hội lẫn với tiền lương, chính sách đãi ngộ mà chưa xây
dựng theo nguyên tắc hưởng theo lao động là nguyên tắc cơ bản về phân phối XHCN,
ngoài ra các văn bản còn chưa hoàn thiện và chưa đồng bộ, ảnh hưởng tới việc tổ chức
thực hiện. Một số vấn đề quan trọng, cấp thiết đến đời sống của đông đảo công nhân
viên chức như chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp, thôi việc, trợ cấp mất sức lao động
chưa được quy định. Nhìn chung giai đoạn này các chế độ bảo hiểm xã hội chưa quy
định một cách toàn diện, quỹ bảo hiểm xã hội chưa được hình thành. Tuy nhiên, chính
sách bảo hiểm xã hội ở giai đoạn này có ý nghĩa giải quyết khó khăn cho công nhân
viên chức khi tuổi già hoặc bị ốm đau, tai nạn lao động và sinh đẻ từ đó củng cố thêm
lòng tin của nhân dân vào Đảng, Chính phủ làm cho mọi người an tâm, phấn khởi đẩy
mạnh công tác sản xuất, thu hút lực lượng lao động vào khu vực kinh tế Nhà nước.
Sau khi hòa bình lập lại, vì khi hoàn thành kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển
kinh tế, văn hóa xã hộ ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, lực lượng công
nhân viên chức lúc này càng ngày tuyển dụng càng đông hơn để phục vụ cho yêu cầu
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Trước tình hình này, Nhà nước thấy cần thiết
phải bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội cho phù hợp với tình hình và đáp ứng được
mục tiêu không ngừng cải thiện đời sống cho công nhân viên chức. Vì vậy, Nghị định
số 218/CP ngày 27/12/1961, ban hành kèm theo Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội
đối với công nhân viên chức Nhà nước, thì BHXH Việt Nam mới thực sự được hình
thành một cách có hệ thống và tương đối toàn diện. Nghị định này quy định cụ thể về
các chế độ BHXH phải thực hiện, mức đóng góp của các bên tham gia và mức hưởng
từng chế độ như sau:
- Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là công nhân viên chức, lực lượng vũ
trang.

- Đã hình thành nguồn để chi trả các chế độ BHXH trong Ngân sách Nhà nước.
Nguồn hình thành trên cơ sở đóng góp của xí nghiệp, còn lại do Ngân sách Nhà nước
cấp. Mức đóng của các xí nghiệp là 4,7% so với tổng quỹ lương. Trong đó, 1% để chi
cho ba chế độ dài hạn và 3,7% chi ba chế độ ngắn hạn. Đối với phần từ NSNN, hàng
năm Quốc hội thông qua Ngân sách cấp cho việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội
cho công nhân viên chức làm trong khu vực Nhà nước.
Áp dụng sáu chế độ BHXH: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất cho công nhân viên chức.
Đây là Điều lệ tạm thời nhưng đã quy định đầy đủ 6 chế độ bảo hiểm xã hội, các
chế độ này chủ yếu dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm khuyến khích
mọi người tăng cường kỷ luật lao động, đẩy mạnh sản xuất và góp phần ổn định lực
lượng lao động trong các ngành kinh tế quốc dân. Nghị định 218/CP được coi là văn
bản gốc của chính sách BHXH và nó được thực hiện trong hơn 30 năm. Tuy nhiên để
phù hợp và đáp ứng với tình hình của đất nước trong từng giai đoạn, nội dung của các
quy định trong Điều lệ tạm thời đã qua 8 lần sửa đổi bổ sung với 233 văn bản hướng
dẫn thực hiện.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và những năm sau giải phóng miền Nam,
cũng có một số văn bản liên quan đến việc điều chỉnh, bổ sung một số nội dung của
BHXH. Đặc biệt là tại Nghị định số 236/HĐBT ngày 18/09/1985 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) về việc bổ sung, sửa đổi chế độ bảo hiểm xã hội cho công
nhân viên chức nhà nước và lực lượng vũ trang trong giai đoạn này.
Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, nhiều vấn đề liên
quan đến BHXH cần phải đổi mới, cho nên ngày 22/6/1993 Chính phủ ban hành Nghị
định số 43/CP. Trong Nghị định này, Chính phủ đã quy định 5 chế độ BHXH (các chế
độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. Chế độ
mất sức lao động trước đây đã được bãi bỏ) và bước đầu đề cập đến vấn đề thành lập hệ
thống BHXH Việt Nam mà Hội đồng quản lí BHXH.
Tuy nhiên, qua nhiều năm các văn bản pháp quy và văn bản hướng dẫn quá
nhiều nên không tránh khỏi hiện tượng chồng chéo, trùng lặp; có những vấn đề không
được quy định, khó khăn cho việc thực hiện chế độ; có nhiều cơ sở cho việc vận dụng

gây nên mất công bằng xã hội. Các văn bản tính pháp lý chưa thật cao, chủ yếu mới ở
dạng Nghị định, Điều lệ tạm thời, Quyết định, Thông tư. Về tổ chức bộ máy thực hiện
chế độ bảo hiểm xã hội chưa tách chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng hoạt
động sự nghiệp của bảo hiểm xã hội. Tổ chức bộ máy còn phân tán, hoạt động kém hiệu
quả, sự phối hợp để giải quyết các vướng mắc cho đối tượng gặp nhiều khó khăn, mỗi
cơ quan, đơn vị, ngành chỉ giải quyết một vài công việc hoặc khâu công việc. Quỹ bảo
hiểm xã hội thu không đảm bảo đủ chi, việc chi trả lương hưu và các khoản trợ cấp bảo
hiểm xã hội thường xuyên bị chậm, ảnh hưởng lớn đến đời sống của người hưởng chế
độ bảo hiểm xã hội.
Để khắc phục những hạn chế và bất cập của chính sách BHXH trước đây, xây
dựng một chính sách BHXH phù hợp với quá trình đổi mới của nền kinh tế nhiều thành
phần, đáp ứng được nguyện vọng của người lao động, trên cơ sở chế độ BHXH của
Hiến pháp năm 1992 và của Bộ luật lao động, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
12/CP ngày 26/01/1995 và Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 về BHXH và thành
lập hệ thống BHXH. Có thể nói đây là hai văn bản quan trọng và có tính đột phá giúp
cho ngành BHXH Việt Nam dần đi vào quỹ đạo chung của BHXH Thế giới. Ngày
24/01/2002 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 20/2002 QĐ – TTg sát nhập BHYT
vào BHXH Việt Nam. Đây là bước tiến mới nhằm làm cho hệ thống BHXH nước ta
được hoàn chỉnh hơn và tránh được những hiện tượng cồng kềnh, chồng chéo trong
quản lý.
Ngày 29/06/2006, Quốc hội nước ta chính thức thông qua Luật BHXH. Bộ luật
này có hiệu lực từ ngày 01/01/2007. Để cụ thể hóa Luật BHXH, Chính phủ ban hành
Nghị định số 152/2006/NĐ – CP ngày 22/12/2006 hướng dẫn một số điều của Luật về
BHXH bắt buộc. Quyết định số 41/2007/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
26/03/2007về quản lý tổ chức đối với BHXH Việt Nam. Ngày 28/08/2008 Chính phủ
ban hành Nghị định số 94/2008/NĐ – CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Theo Luật BHXH hiện hành, nước ta thực hiện cả
loại hình BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và BH thất nghiệp. Nhưng BHXH tự
nguyện có hiệu lực từ ngày 01/01/2008 với hai chế độ hưu trí và tử tuất, còn Bảo hiểm
thất nghiệp được thực hiện từ ngày 01/01/2009. Như vậy, BHXH Việt Nam đã có hành

lang pháp lý vững chắc để tổ chức triển khai mọi hoạt động của mình.Chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với BHXH Việt Nam là khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ
chức, cá nhân tham gia BHXH ngày càng đông đảo.
Với những kết quả đạt được trong hơn 10 năm qua, BHXH Việt Nam đã góp
phần quan trọng trong việc ổn định và đảm bảo đời sống cho lao động, từ đó góp phần
đảm bảo ổn định kinh tế, chính trị và xã hội.
Cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam:
TỔNG GIÁM ĐỐC
Phó Tổng giám đốc
Ban kiểm tra
Văn phòng
Ban hợp tác quốc tế
Ban tổ chức
Ban cấp sổ, thẻ
Ban thực hiện chính sách BHXH
Tạp chí BHXH
Trường đào tạo nghiệp vụ BHXH
Viện khoa hoc BHXH
Ban thực hiện chính sách BHYT
BHXH QUẬN, HUYỆN, THỊ XÃ
Phòng BH
tự nguyện
Phòng TC-HC
Trung tâm
CNTT
Trung tâm lưu
trữ
Ban thi đua
khen thưởng

Ban chi
Ban KH_TC
Ban thu
Phòng giám định -
Chi
Phó Tổng giám đốc
HỘI ĐỒNG QUẢN LÝ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Ban tuyên truyền
GIÁM ĐỐC BHXH TỈNH
Phó giám đốc
Phòng CĐ-CS
Phòng KH-TC
Phòng thu BHXH
Phòng CNTT
Phòng kiểm tra
Báo BHXH
Phó giám đốc
2.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của BHXH Việt Nam
Theo Nghị định số 94/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 08 năm 2008 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam thì
nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản của BHXH Việt Nam là:
 Trình Thủ tướng Chính phủ chiến lược phát triển ngành Bảo hiểm Xã hội Việt Nam; kế
hoạch dài hạn, năm năm, hàng năm về hoạt động của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam…
 Đề xuất với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ,
chính sách về bảo hiểm xã hội; kiến nghị thanh tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân trong
việc thực hiện bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật…
 Đề xuất với Bộ Y tế xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách về bảo hiểm y tế;
kiến nghị thanh tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện bảo hiểm y tế;
cùng tham gia xác định mức đóng, phạm vi quyền lợi của người khám, chữa bệnh theo

chế độ bảo hiểm y tế và cơ chế chi trả chi phí khám, chữa bệnh…
 Ban hành văn bản hướng dẫn về thủ tục, chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện việc giải
quyết chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và thu, chi bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật.
 Giải quyết các chế độ ốm đau, thai sản; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử
tuất; dưỡng sức phục hồi sức khoẻ sau ốm đau, thai sản và sau khi điều trị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp.
 Tổ chức thu BHXH, bảo hiểm thất nghiệp của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, người sử
dụng lao động và người lao động; tổ chức chi trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề, hỗ
trợ tìm việc làm, đóng bảo hiểm y tế cho người được hưởng trợ cấp thất nghiệp theo
quy định của pháp luật.
 Quản lý và sử dụng các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo nguyên tắc tập trung
thống nhất, công khai, minh bạch, đúng mục đích theo quy định của pháp luật.
 Giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo về việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật.
 Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và mối quan hệ công tác của
các đơn vị trực thuộc.
 Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
 Định kỳ 6 tháng, báo cáo Hội đồng quản lý Bảo hiểm Xã hội Việt Nam về tình hình
thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Hàng năm, báo cáo Chính phủ về tình hình
quản lý và sử dụng các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
2.2.Thực trạng triển khai chế độ trợ cấp ốm đau ở BHXH Việt Nam giai
đoạn 2005-2009
2.2.1 Quy định pháp lý liên quan đến chế độ trợ cấp ốm đau tại Việt Nam
Theo Luật BHXH Việt Nam năm 2006 về chế độ trợ cấp ốm đau
 Đối tượng hưởng
1.Người lao động được hưởng chế độ này khi bị ốm đau, tai nạn rủi ro phải nghỉ
việc (có xác nhận của cơ sở y tế)
Trường hợp ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự hủy hoại sức khỏe, do say rượu
hoặc sử dụng ma túy, chất gây nghiện khác khì không được hưởng chế độ ốm đau

2.Có con dưới 7 tuổi bị ốm đau, phải nghỉ việc để chăm sóc con (có xác nhận
của cơ sở y tế).
 Thời gian hưởng
1. Thời gian tối đa hưởng chế độ ốm đau trong một năm đối với người lao động
quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 2 của Luật BHXH tính theo ngày làm việc
không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần và được quy định như sau:
a) Làm việc trong điều kiện bình thường thì được hưởng ba mươi ngày nếu đã
đóng bảo hiểm xã hội dưới mười lăm năm; bốn mươi ngày nếu đã đóng từ đủ mười lăm
năm đến dưới ba mươi năm; sáu mươi ngày nếu đã đóng từ đủ ba mươi năm trở lên;
b) Làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc làm việc thường
xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên thì được hưởng bốn mươi ngày nếu
đã đóng bảo hiểm xã hội dưới mười lăm năm; năm mươi ngày nếu đã đóng từ đủ mười
lăm năm đến dưới ba mươi năm; bảy mươi ngày nếu đã đóng từ đủ ba mươi năm trở
lên.
2. Người lao động mắc bệnh thuộc Danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ
Y tế ban hành thì được hưởng chế độ ốm đau như sau:
a) Tối đa không quá một trăm tám mươi ngày trong một năm tính cả ngày nghỉ
lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần;
b) Hết thời hạn một trăm tám mươi ngày mà vẫn tiếp tục điều trị thì được hưởng
tiếp chế độ ốm đau với mức thấp hơn.
3. Thời gian hưởng chế độ ốm đau đối với người lao động quy định tại điểm d
khoản 1 Điều 2 của Luật BHXH còn tuỳ thuộc vào thời gian điều trị tại cơ sở y tế thuộc
quân đội nhân dân và công an nhân dân.
4.Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau
a) Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau trong một năm được tính theo số
ngày chăm sóc con tối đa là hai mươi ngày làm việc nếu con dưới ba tuổi; tối đa là
mười lăm ngày làm việc nếu con từ đủ ba tuổi đến dưới bảy tuổi.
b) Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia bảo hiểm xã hội, nếu một người đã
hết thời hạn hưởng chế độ mà con vẫn ốm đau thì người kia được hưởng chế độ.

 Mức hưởng
Mức hưởng chế độ ốm đau được quy định tại Thông tư số 03 /2007/TT-
BLĐTBXH ngày 30/01/2007 và Thông tư số 19/2008/TT-BLĐTBXH ngày 23/9/2008
của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Trong đó qui định có 2 trường hợp, như sau:
 Mức hưởng chế độ ốm đau theo thời gian quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật BHXH,
Điều 9 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP được tính như sau:
Mức hưởng chế
độ ốm đau
=
Tiền lương, tiền công đóng
BHXH của tháng liền kề
trước khi nghỉ việc
26 ngày
x 75(%) x
Số ngày nghỉ việc được
hưởng chế độ
Số ngày nghỉ việc được hưởng chế độ ốm đau được tính theo ngày làm việc
không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.
 Người lao động mắc bệnh thuộc danh mục cần chữa trị dài ngày: quy định tại mục 1
của Thông tư số 19/2008/TT-BLĐTBXH, ngày 23/9/2008 của Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội, người lao động hưởng chế độ ốm đau theo khoản 2 Điều 23 Luật Bảo
hiểm xã hội được tính như sau:
Mức hưởng chế độ
ốm đau đối với
bệnh cần chữa trị
dài ngày
=
Tiền lương, tiền công đóng
BHXH của tháng liền kề
trước khi nghỉ việc

x
Tỷ lệ
hưởng
chế độ
ốm đau
(%)
x
Số tháng nghỉ
việc được hưởng
chế độ ốm đau
Trong đó:
- Tỷ lệ hưởng chế độ ốm đau:
+ Bằng 75% với thời gian tối đa là 180 ngày trong một năm;
+ Bằng 65% đối với trường hợp hết thời hạn 180 ngày trong một năm mà người
lao động vẫn tiếp tục điều trị, nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 30 năm trở lên.
+ Bằng 55% đối với trường hợp hết thời hạn 180 ngày trong một năm mà người
lao động vẫn tiếp tục điều trị, nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 15 năm đến dưới 30
năm.
+ Bằng 45% đối với trường hợp hết thời hạn 180 ngày trong một năm mà người
lao động vẫn tiếp tục điều trị, nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm.
 Số tháng nghỉ việc được tính theo tháng dương lịch, trường hợp có ngày lẻ thì cách tính
mức hưởng chế độ ốm đau cho những ngày này như sau:
Mức hưởng chế
độ ốm đau đối
với bệnh cần
=
Tiền lương, tiền công đóng
BHXH của tháng liền kề
trước khi nghỉ việc
x Tỷ lệ

hưởng chế
độ ốm đau
x Số ngày nghỉ
việc được hưởng
chế độ ốm đau
chữa trị dài ngày 26 ngày (%)
Trong đó:
- Tỷ lệ hưởng chế độ ốm đau theo quy định tương tự như trên
2.2.2. Cơ sở chi trả
Trong thời gian từ năm 2005 đến 2009 Việt Nam đã áp dụng 2 văn bản pháp quy
quy định về quản lý, chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn, cụ thể:
+ Quyết định số 1184/QĐ-BHXH-BC ngày 26/09/2003 của Tổng Giám đốc
BHXH Việt Nam quy định về quản lý, chi trả BHXH bắt buộc có hiệu lực thi hành từ
năm 2004-2006.
+ Quyết định số 845/QĐ-BHXH-BC ngày 18/6/2007 của Tổng Giám đốc BHXH
Việt Nam về việc ban hành Quy định quản lý, chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội bắt
buộc có hiệu lực thi hành từ năm 2007 đến nay.
Về nguồn chi trả từ năm 2004 đến 2008 đã có sự thay đổi, cụ thể :
 Từ năm 2004 đến 2006 áp dụng theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 quy định quỹ
BHXH được hình thành từ các nguồn sau :
- Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những
người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả chế độ hưu trí, tử tuất và
5% chi chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN
- Người lao động đóng bằng 5% tiền lương hàng tháng để chi chế độ hưu trí và
tử tuất
- Nhà nước hỗ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ đối với người lao động.
- Các nguồn khác
 Từ năm 2007-2008, áp dụng theo Luật BHXH số 71/2006/QH11 và Nghị
định 152/2006/NĐ-CP thì nguồn hình thành quỹ BHXH ở Việt Nam chủ yếu từ:
- Người lao động đóng góp 5% mức tiền lương, tiền công hàng tháng vào quỹ

BHXH để chi các chế độ hưu trí, tử tuất.
- Người sử dụng lao động đóng 15% trên tổng quỹ tiền lương, tiền công đóng
bảo hiểm xã hội của người lao động. Trong đó: 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; 1% vào
quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất.
- Nhà nước tham gia hỗ trợ nguồn lực tài chính để đảm bảo cân đối quỹ BHXH.

×