Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa thực ti n thực hiện tại công ty TNHH dƣợc phẩm đông đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.78 KB, 55 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn tới thầy hướng dẫn khóa luận của tôi, Thầy
Nguyễn Thái Trường đã tạo mọi điều kiện, động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành tốt
khóa luận này. Sự hiểu biết sâu sắc về chuyên môn cũng như kinh nghiệm của thầy
chính là tiền đề giúp tôi đạt được những thành tựu và kinh nghiệm quý báu.
Xin cảm ơn các Thầy cô giáo tại Trường Đại học Thương Mại đã dành nhiều tâm
huyết truyền đạt và giảng dạy các kiến thức quý báu cũng như tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi làm việc trên khoa để tiến hành tốt khóa luận của mình.
Tôi cũng xin cảm ơn bạn bè và gia đình đã luôn bên tôi, cổ vũ và động viên tôi
những lúc khó khăn để có thể vượt qua và hoàn thành tốt khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2017
Sinh viên
Lã Phương Thảo

1


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...............................................................................................................i
MỤC LỤC.................................................................................................................... ii
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài......................................................................1
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu...................................................................2
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề cần nghiên cứu..........................................................3
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.........................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................4
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp:................................................................................5
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU
CHỈNH VẤN ĐỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA........................................6
1.1. Một số khái niệm và đặc điểm cơ bản liên quan đến pháp luật giao kết hợp


đồng mua bán hàng hóa..............................................................................................6
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa................................6
1.1.2. Khái niệm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.............................................8
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa……........................................................................................................................8
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa...............8
1.2.2. Nội dung của pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.......9
1.3. Các nguyên tắc của pháp luật điều chỉnh về vấn đề giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa.............................................................................................................. 12
1.3.1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.....13
1.3.2. Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng.............................13
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN TẠI CÔNG TY TNHH DƯỢC PHẨM ĐÔNG ĐÔ.....................................15
2.1. Tổng quan tình hình và nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa............................................................................................15
2.1.1. Tổng quan tình hình pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.....15
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa……...................................................................................................................... 16
2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa..................................................................................................................... 17

2


2.2.1. Thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về đề nghị giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa......................................................................................................17
2.2.2. Thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa.....................................................................................19
2.2.3. Thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về thời điểm xác lập hợp đồng

mua bán hàng hóa......................................................................................................21
2.2.4. Thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng mua bán hàng hóa.....................................................................................22
2.3. Thực trạng thực hiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa trong Công ty TNHH Dược phẩm Đông Đô............................25
2.3.1. Thực trạng thực hiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
trong Công ty TNHH Dược phẩm Đông Đô..............................................................25
2.3.2. Đánh giá thực trạng thực hiện các quy phạm pháp luật về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa tại Công ty TNHH Dược phẩm Đông Đô...................................28
2.4. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu........................................................29
2.4.1. Những kết quả đạt được..................................................................................29
2.4.2. Những hạn chế................................................................................................30
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..................................31
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa.............................................................................................................. 31
3.2. Một số kiến nghị cụ thể góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa................................................32
3.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa..................................................................................................................... 32
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật điều chỉnh về
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa........................................................................34
3.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu...................................................37
KẾT LUẬN................................................................................................................38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Để tồn tại và phát triển, cá nhân hay tổ chức đều phải tham gia vào nhiều mối
quan hệ xã hội khác nhau, trong đó việc các bên thiết lập với nhau những quan hệ để
chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
đóng vai trò quan trọng và là tất yếu đối với đời sống xã hội.
Song việc chuyển giao các lợi ích vật chất này không phải tự nhiên thiết lập mà
chỉ được hình thành khi có hành vi có ý chí của chủ thể, nói như Các Mác thì: “Tự
chúng, hàng hóa không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho
những vật đó trao đổi với nhau, thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như
những người mà ý chí nằm trong các vật đó”. Theo đó, chỉ khi có sự thể hiện và thống
nhất ý chí giữa các bên thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành và
được gọi là hợp đồng. Hợp đồng theo nghĩa chung nhất được hiểu là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong
những quan hệ cụ thể.
Ở nước ta, việc điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ hợp đồng đã được áp dụng từ
lâu, song nó chỉ được hoàn thiện hơn và phát triển mạnh khi nước ta bước vào công
cuộc đổi mới với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của
Nhà nước. Để đáp ứng đòi hỏi khách quan của nền kinh tế cần một hệ thống pháp luật
thống nhất điều chỉnh quan hệ hợp đồng và để tạo điều kiện thuận lợi về mặt pháp luật
khi đất nước hội nhập kinh tế quốc tế WTO Quốc hội đã ban hành Bộ luật Dân sự
2015 và Luật Thương mại 2005 để điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Việc ban hành Bộ
luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005 là cần thiết và quan trọng, đã tiến một
bước dài trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng.
Pháp luật hợp đồng với sứ mệnh là nền tảng pháp lý của mọi sự thỏa thuận tự
nguyện luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các quan hệ hợp đồng bình
đẳng, an toàn, cùng có lợi cho các tổ chức, cá nhân với mục đích đạt được lợi nhuận
tối đa đã trở thành động lực trực tiếp của các bên tham gia quan hệ hợp đồng thương
mại. Trong các loại hợp đồng thì hợp đồng mua bán hàng hoá có vai trò quan trọng lớn
đối với mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh. Đó là quan hệ trao đổi hợp pháp mà tất cả các

tổ chức sản xuất, kinh doanh đều phải thực hiện trong quá trình tồn tại và phát triển
của chúng.
Để quá trình áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng được thuận lợi thì cần
nghiên cứu thấu đáo các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa. Sự

1


hiểu biết sâu sắc về các quy định của pháp luật càng lớn thì sẽ giúp doanh nghiệp tránh
được rủi ro càng cao, đặc biệt khi xảy ra tranh chấp. Do vậy, việc quan tâm và nghiên
cứu kỹ lưỡng về pháp luật giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa rất quan trọng và có
tính cấp thiết cao. Ngoài ra, do có sự thay đổi văn bản luật điều chỉnh pháp luật hợp
đồng mua bán hàng hóa, cụ thể là Bộ luật Dân sự 2015 vừa có hiệu lực vào 01/01/2017
nên việc thực thi còn gây nhiều bỡ ngỡ cho doanh nghiệp. Xuất pháp từ thực tiễn cũng
như tính thời sự của vấn đề này, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa - Thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Dược phẩm Đông
Đô” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu
Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005 là hai văn bản luật điều chỉnh
chính nên sẽ được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu. Các công trình chủ
yếu xoay quanh việc nghiên cứu và phân tích các quy định trong hệ thống pháp luật
điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa, chỉ ra những vấn đề mà Luật Thương mại còn
đang mắc phải. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như “Quyền tự do giao kết
hợp đồng ở Việt Nam – Lý luận và thực tiễn” (Phan Thông Anh, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 23/2011). Nghiên cứu thực trạng tự do giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật
về vấn đề này.
Về việc phân tích các rủi ro pháp lý trong giao kết hợp đồng cũng có nhiều công
trình nghiên cứu kỹ lưỡng, ví dụ như Khóa luận tốt nghiệp: “Những rủi ro pháp lý
trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam” của tác giả Hồ Thu

Thảo – Đại học Luật Hà Nội năm 2012. Hay bài viết: “Kiểm soát rủi ro trong quá trình
mua bán hàng hóa từ khâu dự thảo hợp đồng”của tác giả Nguyễn Hoài Thu trên báo
Nghề Luật, Học viện Tư pháp 2016.
Về góc độ nghiên cứu riêng giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa thì cũng đã có
nhiều công trình nghiên cứu có thể kể đến như khóa luận: “Pháp luật về giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH thương mại và dịch
vụ tổng hợp quốc tế Việt Nam” của tác giả Trần Quang Anh – Đại học Thương Mại
2015. Ngoài ra còn có Luận văn Thạc sĩ: “Một số vấn đề về giao kết hợp đồng dân sự
trong pháp luật Việt Nam” của tác giả Vũ Đức Lịch – Hà Nội 2010 nghiên cứu về giao
kết hợp đồng dân sự từ đó đối chiếu với hợp đồng mua bán hàng hóa.
Ngoài ra, khi Bộ luật Dân sự 2015 mới có hiệu lực đã có những công trình
nghiên cứu kỹ lưỡng và so sánh Bộ luật Dân sự 2015 với Bộ luật Dân sự 2005 và đánh
giá, nhận xét mà tiêu biểu trong đó là “Bình luận Khoa học Những điểm mới Bộ luật

2


Dân sự năm 2015” của PGS.TS Đỗ Văn Đại (Chủ biên). Công trình đã chỉ ra những
điểm mới của luật mới so với luật cũ và đưa ra nhận xét khách quan về việc khắc phục
được những hạn chế của luật cũ và chỉ ra những điểm bất cập của luật mới
Xem xét một cách khái quát, hầu như đã có rất nhiều công trình tập trung nghiên
cứu về lí luận cũng như thực tiễn các quy định trong Luật Thương mai 2005 nhưng lại
chưa có một công trình nào làm rõ được quy định cụ thể của Bộ luật Dân sự 2015 về
vấn đề giao kết hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng. Khi Bộ
luật Dân sự 2015 có hiệu lực thi hành thì các công trình nghiên cứu về các vấn đề liên
quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa đều thiếu tính thời sự, không phân tích được
những điểm mới theo pháp luật hiện hành. Do đó, với sự kế thừa nghiên cứu và phân
tích đánh giá, lấy điểm mới là phân tích theo Bộ luật Dân sự 2015 mới đưa vào thực
thi, tác giả hi vọng khóa luận sẽ là một công trình nghiên cứu đáp ứng được tính cấp
thiết hiện nay.

3. Xác lập và tuyên bố vấn đề cần nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể như sau:
Thứ nhất, phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung của hợp đồng mua bán hàng
hóa và giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ hai, các vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm nguyên tắc
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa,
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, thời điểm có hiệu lực và điều
kiện có hiệu lực của giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ ba, đánh giá được thực trạng thực hiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa, trên cơ sở liên hệ thực tiễn tại Công ty TNHH Dược phẩm Đông Đô.
Thứ tư, nêu ra được một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến
hợp đồng mua bán hàng hóa, đặc biệt là việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
trong Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005. Bên cạnh đó, khóa luận cũng
kết hợp phân tích thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH Dược phẩm Đông Đô nhằm làm
rõ hơn những bất cập, thiếu sót để từ đó đưa ra một số kiến nghị trong các quy định
của Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005 về việc giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa.
b. Mục tiêu

3


Với đề tài đã chọn, tác giả muốn làm rõ các quy định mới của pháp luật về giao
kết hợp đồng bằng cách phân tích thực trạng pháp luật và thực trạng thi hành trong
việc giao kết hợp đồng, trên cơ sở những ưu điểm và tồn tại để đưa ra các kiến nghị
nhằm hoàn thiện các quy định về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.

Do vậy, mục tiêu mà khóa luận hướng tới là đưa ra các kiến nghị, đề xuất để
hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa để giúp cho doanh
nghiệp khi giao kết hợp đồng tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật và nâng cao
thực thi luật pháp về trình tự, thủ tục, nội dung và hình thức giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa.
c. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về thời gian, khóa luận sẽ nghiên cứu pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa thương mại từ thời điểm Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực nhưng có sự đối
chiếu với Bộ luật Dân sự 2005.
Về nội dung, khóa luận tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về
hợp đồng mua bán hàng hóa trên cơ sở phân tích Luật Thương mại 2005 và Bộ luật
Dân sự 2015 đối với việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, từ đó thấy được những
bất cập hiện có để đưa ra kiến nghị giúp hoàn thiện Luật Thương mại 2005 nói riêng
và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung.
Về không gian, khóa luận nghiên cứu dựa trên phạm vi các quy định của Luật
Thương mại 2005 và Bộ luật Dân sự 2015 hướng đến đối tượng chính là hợp đồng mua
bán hàng hóa trong doanh nghiệp, ngoài ra khóa luận còn có sự đối chiếu với các quy
định của Bộ luật Dân sự 2005 và tham chiếu tới một số Luật Thương mại trên thế giới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của đề tài là Chủ nghĩa Mác Lênin về duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về nền kinh tế thị trường, về hợp đồng mua bán hàng hóa, về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa của các pháp nhân trong điều kiện tự do hóa thương mại và hội nhập
kinh tế quốc tế cũng là kim chỉ nam cho phương pháp luận nghiên cứu của đề tài.
Ở chương 1 của khóa luận tác giả sử dụng phương pháp phân tích các vấn đề
chung về hợp đồng mua bán, chủ thể, đối tượng, hình thức và nội dung của hợp đồng.
Dựa trên phương pháp lý thuyết kết hợp với các phương pháp thực tiễn như quan sát,
điều tra, tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn để có sự nhận định và quan điểm đánh giá
những điểm đạt được và những bất cập trong quá trình thực hiện các văn bản pháp luật
liên quan tới các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam liên quan tới giao kết hợp

đồng mua bán hàng hóa. Đến chương 2, tác giả sử dụng phương pháp phân tích nhằm
làm rõ những quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, có sự
4


đối chiếu với luật cũ mà cụ thể ở đây là Bộ luật Dân sự 2005 qua đó thấy được những
điểm mới so với luật cũ cũng như bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành. Ở
chương 3, tác giả đã sử dụng phương pháp suy diễn và tổng hợp ý kiến để đưa ra
những kiến nghị, đóng góp để hoàn thiện được vấn đề còn tồn tại từ phía công ty cũng
như trong công tác hoàn thiện pháp luật Nhà nước.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp:
Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng
mua bán hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa. Thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH Dược phẩm Đông Đô.
Chương 3: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
VẤN ĐỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1. Một số khái niệm và đặc điểm cơ bản liên quan đến pháp luật giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Trong nền kinh tế thị trường, hợp đồng kinh tế là sự thỏa thuận của các chủ thể

kinh doanh theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng. Nhà nước chỉ có thể sử dụng
pháp luật để tác động vào các quan hệ hợp đồng để đảm bảo lợi ích chính đáng của các
chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó và lợi ích chung của xã hội.
Căn cứ theo khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại 2005 thì hoạt động “mua bán hàng
hóa là hoạt động thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền
sở hữu hàng hóa cho người mua và nhận thanh toán; người mua có nghĩa vụ thanh
toán cho người bán và nhận hàng hóa theo thỏa thuận”. Hoạt động mua bán hàng hóa
được thể hiện dưới hình thức pháp lý là các hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong quan hệ
mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh – thương mại là một
dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản. Theo Điều 430 Bộ luật Dân sự 2015: “Hợp
đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở
hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán.”
1.1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1.2.1.Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo Luật Thương mại 2005, các chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là
thương nhân hoặc ít nhất một bên là thương nhân.
Theo Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005 quy định: “Thương nhân bao gồm
tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc
lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.” Thương nhân là cá nhân bao gồm các
hộ kinh cá thể có đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động thương mại một cách
thường xuyên và độc lập. Thương nhân là tổ chức bao gồm các tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp có thể bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần và các tổ chức kinh tế khác.
Các thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các
địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm.
6



1.1.1.2.2.Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo Điều 24 Luật Thương mại 2005 quy định về hình thức của hợp đồng mua
bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi
cụ thể của các bên. Văn bản hợp đồng có thể do các bên thỏa thuận hoặc lập theo hình
thức có sẵn, phụ lục hợp đồng cũng được coi là một trong những hình thức của hợp
đồng và có hiệu lực như hợp đồng. Trong trường hợp pháp luật có quy định về hình
thức của hợp đồng như: văn bản công chứng chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép
thì phải tuân theo quy định đó.
1.1.1.2.3.Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa. Khoản 2 Điều 3 Luật
Thương mại 2005 quy định:
“Hàng hóa bao gồm:
Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
Những vật gắn liền với đất đai”.
Hàng hóa trong hợp đồng thương mại có thể hướng đến việc giao và nhận hàng
hóa ở một thời điểm trong tương lai. Hàng hóa trong các giao dịch này không phải là
những hàng hóa thương mại thông thường mà phải là những loại hàng hóa nằm trong
danh mục hàng hóa giao dịch tại Sở giao dịch do Bộ trưởng Bộ Công thương quy định
và đã được quy định cụ thể ở Điều 64, Điều 66 và 68 Luật Thương mại 2005.
1.1.1.2.4.Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng nói chung là các điều khoản do các bên thỏa thuận, thể
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Nội dung của hợp đồng
mua bán hàng hóa là các điều khoản do các bên thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ
của bên bán và bên mua trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng bắt buộc phải bao gồm những nội dung chủ yếu nào là tùy thuộc vào
quy định của pháp luật từng quốc gia. Việc pháp luật quy định nội dung của hợp đồng
mua bán có ý nghĩa hướng các bên tập trung vào thỏa thuận các nội dung quan trọng
của hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện và phòng ngừa các tranh chấp có
thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật Thương mại Việt Nam không quy
định hợp đồng mua bán hàng hóa phải bao gồm nội dung bắt buộc nào. Tuy nhiên, ta

có thể thấy rằng, một hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường phải chứa đựng sự
thỏa thuận về đối tượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn và địa
điểm nhận giao hàng.
Trong quan hệ mua bán hàng hóa, các bên không chỉ bị ràng buộc bởi nhưng điều
khoản đã thỏa thuận với nhau mà còn chịu sự ràng buộc bởi những quy định của pháp

7


luật, tức là những điều khoản pháp luật có quy định nhưng các bên không thỏa thuận
trong hợp đồng.
1.1.2. Khái niệm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Luật Thương mại 2005 và Bộ luật Dân sự 2015 đều không đưa ra khái niệm cụ
thể về giao kết hợp đồng là gì, tuy nhiên theo quy định liên quan đến giao kết hợp
đồng từ Điều 385 đến Điều 408 của Bộ luật Dân sự 2015 có thể thấy giao kết hợp
đồng dân sự là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên tắc và trình tự
nhất định để qua đó xác lập với nhau các quyền và nghĩa vụ dân sự. Từ đó, giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa cũng chính là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo
những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau quyền và nghĩa vụ
trong quan hệ mua bán hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa muốn có hiệu lực được pháp luật bảo vệ thì
phải tuân theo những quy định của pháp luật về các điều khoản có hiệu lực của hợp đồng.
Thứ nhất, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hợp pháp. Thường thì các bên giao
kết phải có đầy đủ năng lực hành vi.
Thứ hai, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện, tức là nó xuất
phát từ ý chí thực, từ sự tự do ý chí của các bên trong các thỏa thuận của hợp đồng đó.
Thứ ba, nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức của xã hội. Đối
tượng của hợp đồng không thuộc hàng hóa cấm giao dịch, công việc cấm thực hiện.
Bên cạnh đó nội dung của hợp đồng cần cụ thể, bởi vì việc xác lập nghĩa vụ trong hợp
đồng phải cụ thể và có tính khả thi. Những nghĩa vụ trong hợp đồng mà không thực

hiện được thì hợp đồng cũng không được coi là có hiệu lực pháp lý làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của các bên.
Thủ tục và hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể thức nhất định phù
hợp với những quy định của pháp luật đối với loại hợp đồng mua bán hàng hóa.[17]
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa
 Cơ sở chính trị
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ năm 1975, Việt Nam bắt tay vào
công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước ở cả hai miền Nam – Bắc. So với các nước
trong khu vực và trên thế giới thì Việt Nam có nền kinh tế chính trị ổn định. Điều này
đã tạo điều kiện thuận lợi để nước ta hội nhập với các quốc gia trên thế giới. Kinh tế
và sự giao lưu quốc tế ngày càng phát triển kéo theo cho sự phát triển của các quan hệ
xã hội, các quan hệ dân sự và thương mại. Hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa ngày
càng phát triển, việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa ngày càng trở nên phức tạp
8


hơn. Trước tình hình đó, Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh
những quan hệ trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt động này.
 Cơ sở kinh tế:
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã mở rộng quan hệ
kinh tế với nhiều quốc gia, nước ta cũng đã tham gia và trở thành thành viên chính
thức của nhiều tổ chức kinh tế lớn như WTO, AFTA, APEC... Ngoài ra nước ta cũng
ký kết nhiều văn bản hợp tác kinh tế song phương, đa phương với nhiều quốc gia trên
thế giới. Vì thế hệ thống pháp luật Việt Nam liên tục được cải cách để phù hợp với quy
định chung của quốc tế và sự đa dạng của các hoạt động thương mại. Hoạt động mua
bán hàng hóa ngày càng phát triển và mang lại nguồn thu dồi dào cho nền kinh tế quốc
dân vì vậy cần thiết phải có một hành lang pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa để họ yên tâm hơn
trong quá trình giao kết tránh những thiệt hại không đáng có cho cả hai bên.
 Cơ sở xã hội:
Trong nhà nước pháp quyền, mọi quan hệ xã hội đều cần được điều chỉnh bởi
pháp luật. Quan hệ mua bán trao đổi hàng hóa là một phần của quan hệ xã hội. Hoạt
động giao kết hợp đồng cũng làm phát sinh ra những mối quan hệ giữa các chủ thể
tham gia. Thực chất của hoạt động này là thỏa thuận giữa các bên nhằm thực hiện mục
tiêu nhất định, nếu như bên đề nghị giao kết hợp đồng hướng tới mục tiêu bán được
hàng hóa thì bên chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng muốn mua được hàng hóa mà
họ mong muốn. Việc ban hành các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa sẽ đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia, từ đó các mối quan hệ giữa mọi
cá nhân và tổ chức trong xã hội sẽ được xây dựng, duy trì và phát triển.[4]
1.2.2.Nội dung của pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Việc áp dụng luật nào để điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa được
thực hiện theo nguyên tắc chung, đó là: Bộ luật Dân sự là căn cứ chung, mang tính
nguyên tắc cho hợp đồng mua bán hàng hóa; những quy định về hợp đồng mua bán
hàng hóa ở các văn bản pháp luật chuyên ngành thì được ưu tiên áp dụng trước Bộ luật
Dân sự. Như vậy, khi điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hóa, trước hết dùng luật chuyên
ngành là Luật Thương mại năm 2005, trong trường hợp nội dung cần điều chỉnh mà luật
chuyên ngành không quy định thì áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự.
Sau đây là một số nội dung cơ bản của Bộ luật Dân sự 2015 được áp dụng để
điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa hiện nay ở Việt Nam.
1.2.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng:
9


Theo Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
“1. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và
chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc

tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị).
2. Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề
nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời
thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng
nếu có thiệt hại phát sinh.”
Vậy đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và
chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã đề nghị được xác
định cụ thể. Tùy thuộc theo nội dung mà có thể là lời chào bán hàng hóa hoặc chào
mua hàng hóa, đồng thời đưa ra một thời hạn để bên kia xem xét có quyết định chấp
nhận hay không (thời hạn này tùy vào trường hợp có thể là do hai bên thỏa thuận hoặc
do một bên ấn định).
Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực (Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015)
được xác định do bên đề nghị ấn định hoặc khi bên được đề nghị nhận được đề nghị
đó. Như vậy trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, bên đề nghị có thể ấn định
thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực hoặc khi bên được đề nghị nhận được
lời đề nghị. Thời điểm được xác định là bên được đề nghị nhận được lời đề nghị:
- Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được
chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân;
- Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị;
- Khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các
phương thức khác.
Thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng: Lời đề nghị giao kết hợp đồng chưa
phải là hợp đồng nhưng đã có tính chất ràng buộc đối với người đề nghị. Tuy nhiên,
theo Điều 389 Bộ Luật Dân sự 2015 thì bên đề nghị vẫn có thể thay đổi hoặc rút lại đề
nghị khi bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị
trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị.
Ngoài ra, nếu như bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng
trước đó thì được coi là hình thành nên một đề nghị mới. Và nếu như chính bên được
đề nghị muốn thay đổi nội dung đề nghị giao kết hợp đồng trước đó thì được xem như
bên được chào hàng đưa ra một lời chào hàng mới. (Điều 392 Bộ luật Dân sự 2015)

Hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng:
Theo Điều 390 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

10


“Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy bỏ đề nghị nếu đã nêu rõ quyền này
trong đề nghị và bên được đề nghị nhận được thông báo về việc hủy bỏ đề nghị trước
khi người này gửi thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.”
Trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng hủy bỏ đề nghị giao kết ban đầu do đã
nêu ra quyền này trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị trước khi bên
được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Như vậy trong quan hệ mua bán hàng hóa, bên chào hàng phải nêu rõ quyền
được hủy bỏ lời chào hàng của mình trong chào hàng và phải thông báo cho bên được
chào hàng trước khi bên được chào hàng trả lời chấp nhận.
Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng:
Theo Điều 391 Bộ luật Dân sự 2015 thì đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt
trong trường hợp sau:
“1. Bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng;
2. Bên được đề nghị trả lời không chấp nhận;
3. Hết thời hạn trả lời chấp nhận;
4. Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;
5. Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực;
6. Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên được đề nghị trong thời hạn chờ bên
được đề nghị trả lời.”
Việc chấm dứt đề nghị kết hợp đồng mua bán hàng hóa – chấm dứt chào hàng
cũng tuân theo những quy định trên.
1.2.2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là việc bên được đề nghị nhận lời đề nghị
và đồng ý tiến hành toàn bộ nội dung hợp đồng với bên đã đề nghị (Điều 393 Bộ luật

Dân sự 2015).
Theo Điều 394 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thời hạn chấp nhận giao kết hợp
đồng như sau:
- Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu
lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận
được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của
bên chậm trả lời.
- Trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách
quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp
nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không
đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị.

11


- Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại
hoặc qua phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc
không chấp nhận, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận về thời hạn trả lời.
Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có
hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý
1.2.2.3. Thời điểm xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một phần trong số hợp đồng dân sự nên thời
điểm giao kết hợp đồng được Bộ luật Dân sự 2015 điều chỉnh. Căn cứ theo Điều 400
Bộ luật Dân sự 2015 thì thời điểm giao kết hợp đồng có hiệu lực khi:
- Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao
kết. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp
đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của
thời hạn đó.
- Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về
nội dung của hợp đồng.

- Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào
văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản. Trường hợp
hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao
kết hợp đồng được xác định theo thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói.
1.2.2.4. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa
Căn cứ theo Điều 401 Bộ luật Dân sự2015 thì hợp đồng được giao kết hợp pháp
có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên
quan có quy định khác. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận
của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
Kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện đúng theo quyền và
nghĩa vụ đã cam kết như trong hợp đồng. Nếu các bên giao kết hợp đồng không thực
hiện nghĩa vụ đã quy định trong hợp đồng, sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý nhất
định theo hình thức đã được thỏa thuận.
1.3. Các nguyên tắc của pháp luật điều chỉnh về vấn đề giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa là kết quả của quá trình giao kết. Do đó, việc giao
kết hợp đồng dân sự phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Việc quy định nguyên
tắc giao kết hợp đồng nhằm bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao kết,
hướng dẫn xử sự của các chủ thể trong quá trình giao kết và thiết lập quan hệ hợp đồng
hợp pháp.

12


1.3.1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã
hội.
Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thoả mãn được các nhu cầu về đời sống vật
chất cũng như tinh thần, Bộ luật Dân sự cho phép mọi chủ thể được quyền “tự do giao
kết hợp đồng”. Theo nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể
đều có quyền tham gia giao kết bất kì một hợp đồng dân sự nào, nếu họ muốn mà

không ai có quyền ngăn cản. Bằng ý chí tự do của mình, các chủ thể có quyền giao kết
những hợp đồng dân sự đã được pháp luật quy định cụ thể cũng như những hợp đồng
dân sự khác dù rằng pháp luật chưa quy định. Tuy nhiên, sự tự do ý chí đó phải nằm
trong một khuôn khổ nhất định. Bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ
thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của
toàn xã hội. Vì vậy, tự do của mỗi chủ thể phải không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Nằm trong mối liên hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi một chủ thể vừa có
quyền “tự do giao kết hợp đồng” vừa có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và đạo đức xã
hội. Lợi ích của cộng đồng (được quy định bằng pháp luật) và đạo đức xã hội được coi
là “sự giới hạn” ý chí tự do của mỗi một chủ thể trong việc giao kết hợp đồng dân sự
nói riêng, cũng như đối với mọi hành vi nói chung của họ.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tính cộng đồng và đạo đức xã hội không cho phép
các cá nhân được tự do ý chí tuyệt đối để biến các hợp đồng dân sự thành phương tiện
bóc lột.
1.3.2. Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng.
Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quan hệ dân sự. Quy luật giá trị đòi hỏi các
bên khi thiết lập các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau. Không một ai được lấy
lí do khác biệt về thành phần xã hội, dân tộc, giới tính, tôn giáo, hoàn cảnh kinh tế…
để làm biến dạng các quan hệ dân sự. Mặt khác, chỉ khi nào các bên bình đẳng với
nhau về mọi phương diện trong giao kết hợp đồng thì ý chí tự nguyện của các bên mới
thật sự được bảo đảm. Vì vậy, theo nguyên tắc trên, những hợp đồng được giao kết
thiếu bình đẳng và không có sự tự nguyện của các bên sẽ không được pháp luật thừa
nhận. Tuy nhiên, đánh giá một hợp đồng có phải là ý chí tự nguyện của các bên hay
không là một công việc tương đối phức tạp và khó khăn trong thực tế.
Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia. Vì
thế, muốn xem xét các chủ thể có tự nguyện trong giao kết hợp đồng hay không, cần
phải dựa vào sự thống nhất biện chứng giữa hai phạm trù: Ý chí và sự bảy tỏ ý chí.
Như chúng ta đã biết, ý chí là mong muốn chủ quan bên trong của mỗi một chủ thể.
Nó phải được bày tỏ ra bên ngoài thông qua một hình thức nhất định. Ý chí và sự bày


13


tỏ ý chí là hai mặt của một vấn đề, chúng luôn có quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít
với nhau.
Ý chí tự nguyện chính là sự thống nhất giữa ý muốn chủ quan bên trong và sự
bày tỏ ý chí đó ra bên ngoài. Vì vậy, để xác định một hợp đồng dân sự có tuân theo
nguyên tắc tự nguyện hay không cần phải dựa vào sự thống nhất ý chí của người giao
kết hợp đồng và sự thể hiện (bày tỏ) ý chí đó trong nội dung của hợp đồng mà người
đó đã giao kết. Chỉ khi nào hợp đồng là hình thức phản ánh một cách khách quan,
trung thực những mong muốn bên trong của các bên giao kết thì việc giao kết đó mới
được coi là tự nguyện.
Như vậy, tất cả các hợp đồng được giao kết do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối hoặc đe
dọa đều là những hợp đồng không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện khi giao kết.
Và vì thế, nó sẽ bị coi là vô hiệu (xem thêm Điều 122, 126, 127 Bộ Luật Dân sự 2015).

14


15


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIAO
KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
CÔNG TY TNHH DƯỢC PHẨM ĐÔNG ĐÔ
2.1. Tổng quan tình hình và nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa
2.1.1. Tổng quan tình hình pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Trong một vài năm trở lại đây, Nhà nước đã thực hiện đường lối đổi mới cơ chế

kinh tế với sự thừa nhận đa hình thức sở hữu, đa hình thức kinh doanh. Quá trình đổi
mới kinh tế ở nước ta hiện nay đã đạt được những thành tựu nổi bật. Nhưng quá trình
đó gắn liền với nguy cơ tự do về Chính phủ, gian lận kinh doanh, thương mại,… Hơn
nữa, nước ta đã hội nhập vào nền kinh tế quốc tế thì càng cần Nhà nước phải có một
khung pháp lý thương mại để điều chỉnh các hoạt động thương mại đúng chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Mặc dù Bộ luật Dân sự 2015 vừa mới có hiệu lực thay thế cho Bộ luật Dân sự
2005 sửa đổi bổ sung các quy định về hoạt động mua bán hàng hóa, kèm theo quy định
của Luật Thương mại 2005 về mua bán hàng hóa nhưng hoạt động thương mại nói
chung và hoạt động mua bán hàng hóa nói riêng khá phức tạp và còn nhiều vấn đề còn
tồn tại. Mỗi thành phần kinh tế, mỗi cá nhân cần phải tìm hiểu, tiếp cận và nhận thức
đúng đắn các hoạt động thương mại đúng luật, nhằm hạn chế những tồn tại kinh tế
không đáng có. Việc nền kinh tế mở rộng, số lượng hợp đồng xác lập mối quan hệ
ngày càng tăng, tuy nhiên không ít hợp đồng mua bán hàng hóa lại được hình thành
không tuân theo các quy định của pháp luật khiến số vụ tranh chấp xảy ra ngày một
nhiều. Những tranh chấp này hầu hết đều bắt nguồn trước khi hình thành hợp đồng,
khi cả hai bên giao kết hợp đồng với nhau đã không thỏa thuận rõ ràng những điều
khoản cần thiết để đảm bảo quyền và lợi ích của mỗi bên, các quy định của pháp luật
hầu như chỉ tập trung vào giai đoạn sau khi hợp đồng hình thành, còn các quá trình
giao kết trước đó lại không có nhiều chế tài áp dụng khiến quá trình giao kết có nhiều
dấu hiệu vi phạm nguyên tắc diễn ra.
Cùng với những biến đổi đa dạng của xu thế kinh tế trong xã hội hiện nay, giao
kết hợp đồng ngày càng chứng tỏ được tầm quan trọng bởi nếu chủ thể tham gia quan
hệ mua bán hàng hóa nắm rõ được những vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng sẽ tạo
cho mình sự chủ động trong thỏa thuận, đảm bảo được quyền lợi của mình một cách
toàn diện nhất. Trong quan hệ mua bán hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa nói
chung và vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng được rất nhiều các quy
16



định từ Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005 điều chỉnh, tuy nhiên với sự
thay đổi không ngừng của nền kinh tế đòi hỏi những quy định mới phù hợp cùng
những chế tài áp dụng chính xác hơn.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa
2.1.2.1. Nhân tố chủ quan
 Nhân tố con người
Con người đóng vai trò trung tâm, là chủ thể chính của mọi hoạt động, quyết
định trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Trình
độ, năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh của ban giám đốc tốt thì sẽ đảm bảo được
kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp đề ra, cho phép việc thực hiện các hợp đồng mua
bán hàng hóa có được các chiến lược kinh doanh đúng đắn, nhanh nhạy với thị trường,
tận dụng các cơ hội có được và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tiếp
đó là trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp, đây là
những người trực tiếp thực hiện các hoạt động mua bán hàng hóa. Họ trực tiếp đi giao
dịch ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa và thực hiện chúng, trong quá trình thực hiện
hợp đồng họ luôn giám sát và đôn đốc công việc cho tới khi hoàn thành. Chính vì vậy
mà họ là nhân tố quyết định hiệu quả của việc thực hiện hợp đồng.
 Nguồn tài chính
Tài chính hay vốn là nhân tố cực kỳ quan trọng và quyết định đến sự tồn tại của
doanh nghiệp cũng như hoạt động mua bán hàng hóa. Có nguồn tài chính dồi dào sẽ
đảm bảo hoạt động mua bán hàng hóa được thực hiện và diễn ra liên tục. Với khả năng
huy động vốn của doanh nghiệp tốt thì có thể tăng khả năng cạnh tranh bằng các biện
pháp như ứng trước tiền hàng, cho phép thanh toán chậm, đưa ra các điều khoản thanh
toán ưu đãi và dễ dàng hơn trong việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
2.1.2.2. Nhân tố khách quan
 Nhân tố kinh tế
Hiện nay trong nền kinh tế thị trường đặc biệt khi tham gia vào WTO tiêu thụ sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ là hoạt động chính, là vấn đề tất yếu của hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Các giao dịch mua bán hàng hóa theo đó mà diễn ra và chiếm một

số lượng chủ yếu trong các giao dịch dân sự. Sử dụng pháp luật là công cụ thực hiện
các giao dịch dân sự và gắn liền với các hoạt động mua bán là hợp đồng mua bán hàng
hóa. Các hoạt động trao đổi, mua bán của các doanh nghiệp hiện nay dù ít hay nhiều,
dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đều đã sử dụng hợp đồng mua bán hàng hóa như một
công cụ hữu hiệu để thỏa thuận các điều khoản giữa hai bên.

17


 Nhân tố môi trường pháp luật
Sự ổn định về chính trị, đường lối ngoại giao, sự cân bằng các chính sách của nhà
nước, vai trò và chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Chính phủ, sự điều tiết và
khuynh hướng can thiệp của Chính phủ vào đời sống kinh tế xã hội, các quyết định
bảo về người tiêu dùng, hệ thống pháp luật, sự hoàn thiện và hiện thực thi hành, chúng
có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động mua bán hàng hóa của doanh nghiệp. Các chính
sách bao gồm luật, các văn bản dưới luật, các quy trình quy phạm kỹ thuật sản xuất tạo
ra một hành lang cho các doanh nghiệp hoạt động, các hoạt động của doanh nghiệp
như sản xuất kinh doanh hay hoạt động mua bán hàng hóa đều phải dựa vào quy định
của pháp luật. Doanh nghiệp phải chấp hành các quy định của pháp luật, phải thực
hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước, với xã hội và với người lao động như thế
nào là do pháp luật quy định (trách nhiệm nộp thuế, trách nhiệm đảm bảo vệ sinh môi
trường, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, tuân thủ các
quy định khi thực hiện hợp đồng…).
2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa
2.2.1. Thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về đề nghị giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa
Khi một bên muốn thiết lập một hợp đồng dân sự thì ý muốn đó phải thể hiện ra
bên ngoài thông qua một hành vi nhất định. Chỉ có như vậy, phía đối tác mới có thể
nhận biết được ý muốn của họ và từ đó mới có thể đi đến việc giao kết hợp đồng. Để

bên được đề nghị có thể hình dung được hợp đồng đó như thế nào, người đề nghị phải
đưa ra những điều khoản của hợp đồng một cách cụ thể và rõ ràng. Đề nghị giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ là một lời chào hàng từ một bên, tùy thuộc theo nội
dung mà có thể là lời chào bán hàng hóa hoặc chào mua hàng hóa, đồng thời đưa ra
một thời hạn để bên kia xem xét quyết định chấp nhận hay không (thời hạn này tùy
vào trường hợp có thể là do hai bên thỏa thuận hoặc do một bên ấn định).
Theo Bộ luật Dân sự 2005, đề nghị giao kết hợp đồng chỉ được coi là ràng buộc
trách nhiệm đối với bên đưa ra đề nghị nếu đề nghị này được gửi tới bên được đề nghị
đã được xác định cụ thể, hiệu lực của đề nghị và chấp nhận đề nghị còn phụ thuộc vào
thời hạn được xác định trong đề nghị. Do đó làm hạn chế trường hợp đề nghị giao kết
được gửi đến nhiều chủ thể (không xác định cụ thể) nói chung. Đề khắc phục hạn chế
này, Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015 đã có thay đổi đáng kể theo hướng mở rộng phạm
vi lời đề nghị: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng
và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định
hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị)”. Đề nghị giao kết hợp
18


đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này
của bên đề nghị đối với bên đã đề nghị được xác định hoặc tới công chúng. Ở đây, theo
Bộ luật Dân sự 2015, chào bán ra công chúng là hình thức chào bán công khai, không
riêng cho cá nhân hay tổ chức nào mà nổi bật nhất là hình thức quảng cáo. Khi một
thương nhân muốn chào hàng với khách hàng, ngoài sản phẩm ra thì thương nhân phải
đính kèm thông tin như: phẩm chất chất lượng sản phẩm, giá, hạn sử dụng… Khi
khách hàng chọn mua sản phẩm đó, thì hợp đồng được hình thành giữa bên thương
nhân và khách hàng. Nếu sản phẩm không được như thông tin bên thương nhân đưa ra,
theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 thì bên thương nhân đã vi phạm hợp đồng và
hợp đồng vô hiệu do có dấu hiệu giả dối. Việc thay đổi như vậy khắc phục được hạn
chế của Bộ luật Dân sự 2005 về trường hợp đề nghị giao kết được gửi đến nhiều chủ
thể (không xác định cụ thể) nói chung và chủ thể được giao kết hợp đồng là công

chúng. Bộ luật Dân sự 2015 đang dần hoàn thiện để hướng tới bảo vệ quyền lợi của
bên được đề nghị giao kết hợp đồng. Đây là một quy định đúng đắn và phù hợp với
tình hình kinh tế - xã hội hiện nay.
Ngoài ra, bên đề nghị giao kết không được giao kết hợp đồng với bên thứ ba nếu
như bên được đề nghị chưa trả lời khi trong đề nghị giao kết hợp đồng có thời hạn trả
lời. (Khoản 2 Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015).
Việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau.
Người đề nghị có thể trực tiếp (đối mặt) với người được đề nghị để trao đổi, thoả thuận
hoặc có thể thông qua điện thoại… Bên cạnh đó, đề nghị giao kết còn có thể được thực
hiện bằng việc chuyển công văn, giấy tờ qua đường bưu điện.
Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực (Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015)
được xác định do bên đề nghị ấn định hoặc khi bên được đề nghị nhận được đề nghị
đó. Như vậy trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, bên đề nghị có thể ấn định
thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực hoặc khi bên được đề nghị nhận được
lời đề nghị. Thời điểm được xác định là bên được đề nghị nhận được lời đề nghị khi đề
nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được chuyển đến
trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân; đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin
chính thức của bên được đề nghị; hoặc khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết
hợp đồng thông qua các phương thức khác.
Lời đề nghị giao kết hợp đồng chưa phải là hợp đồng nhưng đã có tính chất ràng
buộc đối với người đề nghị. Tuy nhiên, theo Điều 389 Bộ luật Dân sự 2015 thì bên đề
nghị vẫn có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong trường hợp bên được đề nghị chưa
nhận được đề nghị hoặc bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề
nghị và điều kiện đó đã đến.
19


Ngoài ra, nếu như bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng
trước đó thì được coi là hình thành nên một đề nghị mới.
Trường hợp hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng thì theo Điều 390 Bộ luật Dân sự

2015, trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng hủy bỏ đề nghị giao kết ban đầu do đã
nêu ra quyền này trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị trước khi bên
được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Theo luật định, trong khoảng thời gian kể từ thời điểm bên được đề nghị nhận
được đề nghị cho đến kết thúc thời hạn trả lời chấp nhận, bên đề nghị sẽ không được
thay đổi lời đề nghị của mình. Việc quy định như vậy gây khó khăn cho những lời đề
nghị không có thời hạn trả lời khiến cho bên đưa ra đề nghị bị thiệt thòi.
Tuy đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa thuộc vấn đề pháp lý của luật
chuyên ngành nhưng Luật Thương mại 2005 lại không có quy định cụ thể về đề nghị
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa mà phải tuân theo luật chung là Bộ luật Dân sự
2015. Điều này dẫn tới thiếu sót vì không tìm thấy điều chuyên biệt về đề nghị giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
2.2.2. Thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là việc bên được đề nghị nhận lời đề nghị
và đồng ý tiến hành việc giao kết hợp đồng với người đã đề nghị. Thời hạn chấp nhận
nhận giao kết hợp đồng được hiểu như sau (Điều 394 Bộ luật Dân sự 2015): Khi bên
đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được
thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi
đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời.
Trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà
bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao
kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý
với chấp nhận đó của bên được đề nghị. Trường hợp khi các bên trực tiếp giao tiếp với
nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại hoặc qua phương tiện khác thì bên được đề
nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận về thời hạn trả lời. Ngoài ra, khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì
việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng sẽ là thông báo của bên được đề nghị
chuyển cho bên đề nghị về việc chấp thuận toàn bộ nội dung đã nêu trong đề nghị giao

kết hợp đồng. Như vậy, đề nghị giao kết hợp đồng chỉ được coi là được chấp nhận nếu
bên được đề nghị chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong đề nghị giao kết hợp

20


đồng. Thời hạn chấp nhận được tính từ thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng được
chuyển đi cho bên được đề nghị đến hết thời hạn chấp nhận đề nghị được ghi trong đề
nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Thời điểm chấp nhận là thời điểm thông
báo chấp nhận đề nghị được chuyển cho bên đề nghị. So với Bộ luật Dân sự 2005 thì
Bộ luật Dân sự 2015 đã bổ sung thêm về thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng
khi bên đề nghị không rõ thời hạn trả lời: “Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả
lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp
lý”. Rõ ràng trong luật cũ đã không có trường hợp bên đề nghị không ấn định thời hạn
trả lời đề nghị và Bộ luật Dân sự 2015 đã khắc phục hạn chế này.[3]
Chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có thể được rút lại theo Khoản 1 Điều 389 Bộ
luật Dân sự 2015: “Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao
kết hợp đồng trong trường hợp sau đây:
a) Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị
trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị;
b) Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị
có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.”
Việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng chỉ đơn giản là hiểu là việc trả lời chấp
nhận của bên được đề nghị và đồng ý tiến hành giao kết hợp đồng sau đó. Tuy nhiên
quy định về việc chấp nhận nội dung của một lời đề nghị giao kết hợp đồng của Bộ
luật Dân sự 2015 còn tồn tại hạn chế. Trong Công ước viên 1980 về Hợp đồng mua
bán hàng hóa, tại Khoản 2 Điều 19 có quy định như sau: “Tuy nhiên một sự phúc đáp
có khuynh hướng chấp nhận chào hàng nhưng có chứa đựng các điều khoản bổ sung
hay những điều khoản khác mà không làm biến đổi một cách cơ bản nội dung của chào
hàng thì được coi là chấp nhận chào hàng, trừ phi người chào hàng ngay lập tức không

biểu hiện bằng miệng để phản đối những điểm khác biệt đó hoặc gửi thông báo về sự
phản đối của mình cho người được chào hàng. Nếu người chào hàng không làm như
vậy, thì nội dung của hợp đồng sẽ là nội dung của chào hàng với những sự sửa đổi nêu
trong chấp nhận chào hàng.”, theo đó xét hành vi trả lời đề nghị giao kết hợp đồng có
khuynh hướng chấp nhận thì vẫn coi là một chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nếu
bên đề nghị đồng ý. Quy định của Công ước viên 1980 linh hoạt hơn Bộ luật Dân sự
2015 ở chỗ cho phép bên được đề nghị thay đổi một vài nội dung trong lời chào hàng
nhằm đảm bảo được quyền lợi của mình khi tiến hành giao kết hợp đồng, trong khi Bộ
luật Dân sự 2015 hạn chế điều này. Bộ luật Dân sự 2015 quy định phải chấp nhận toàn
bộ nội dung chào hàng có thể khiến bên được đề nghị gặp phải một số bất lợi nhất định
khi không được thỏa thuận mà vẫn muốn giao kết hợp đồng.[10]

21


Tuy rằng mua bán hàng hóa thuộc lĩnh vực thương mại nhưng trong Luật Thương
mại 2005 không có bất kỳ điều khoản nào quy định về việc chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa mà cũng chỉ dựa trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự
2015. Bên nhận được chào hàng trả lời cho bên chào hàng trong thời hạn quy định
bằng một thông báo chấp thuận toàn bộ nội dung đã nêu trong lời chào hàng. Thời hạn
chấp nhận chào hàng được tính từ thời điểm chào hàng được chuyển đi cho bên được
chào hàng đến hết thời hạn chấp nhận chào hàng được ghi trong lời chào hàng. Trong
trường hợp thời hạn chấp nhận chào hàng không được xác định rõ ràng là bao nhiêu
ngày. Bên cạnh đó, thời điểm chấp nhận là thời điểm bản thông báo chấp nhận được
chuyển đi cho bên chào hàng. Đây chính là thời điểm bắt đầu trách nhiệm của bên
chấp nhận chào hàng. Trong trường hợp bên được chào hàng chấp nhận chào hàng sau
khi hết thời hạn chấp nhận chào hàng quy định thì chấp nhận đó không có hiệu lực, trừ
trường hợp bên chào hàng thông báo ngay cho bên được chào hàng về việc mình chấp
nhận dù quá hạn.
Bên cạnh đó Điều 396 Bộ luật Dân sự 2015 đã sửa đổi quy định trong trường hợp

bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi đồng thời cũng dự liệu trường hợp bên được đề
nghị đã chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nhưng sau đó có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi. Hơn nữa, điều luật này cũng đã ghi nhận thêm với những nội
dung giao kết gắn với nhân thân bên được đề nghị việc trả lời chấp nhận giao kết hợp
đồng không có giá trị.
2.2.3. Thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về thời điểm xác lập hợp
đồng mua bán hàng hóa
Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa không có quy định riêng, theo quy định của
Bộ luật Dân sự năm 2015 được lấy làm cơ sở pháp lý khi tham gia giao kết của các
bên chủ thể trong quan hệ mua bán hàng hóa về nguyên tắc chung về hợp đồng, thủ tục
giao kết, thời điểm hợp đồng giao kết.
Theo Điều 400 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thời điểm giao kết hợp
đồng dân sự:
“1. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp
đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của
thời hạn đó.
3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận
về nội dung của hợp đồng.

22


×