ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
PHẠM THỊ LAN
PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG VÀ BIẾN ĐỘNG SỬ DỤNG ĐẤT GIAI
ĐOẠN 2000 – 2010 PHỤC VỤ QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN
THÀNH PHỐ THÁI BÌNH ĐẾN NĂM 2020
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà Nội 2010
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển, định hướng đúng đắn là cơ sở quan trọng. Định
hướng được thể hiện thông qua các chiến lược quy hoạch phát triển. Mục tiêu
hướng tới cao nhất là sử dụng hiệu quả, tiết kiệm và bền vững các nguồn tài
nguyên. Đất đai là nguồn tài nguyên đặc biệt. Mọi hoạt động của con người đều
trực tiếp hoặc gián tiếp cần tới đất đai. Do đó trong tiến trình phát triển, nhu cầu
về đất luôn có xu hướng tăng mà nguồn cung tự nhiên của đất là không đổi. Điều
này dẫn tới những mâu thuẫn gay gắt giữa những người sử dụng đất, giữa các
mục đích sử dụng đất. Quy hoạch sử dụng đất là công tác có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc quản lý và sử dụng đất đai, góp phần tích cực trong việc điều hòa
các mâu thuẫn phát sinh. Chất lượng của hệ thống quy hoạch sử dụng đất có ảnh
hưởng mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã hội và tới sự phát triển của toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Vì vậy việc định hướng, lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất là nội dung quan trọng được quan tâm hàng đầu ở mọi quốc gia. Để đưa ra
được phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hợp lý thì việc phân tích hiện
trạng, đánh giá biến động sử dụng đất nhằm làm rõ những mặt tích cực và hạn
chế trong sử dụng đất là rất cần thiết.
2
Thành phố Thái Bình là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế xã hội và khoa
học kỹ thuật của tỉnh Thái Bình. Thành phố Thái Bình được thành lập vào năm
2004 theo Nghị định 117/NĐCP của Chính phủ trên cơ sở diện tích tự nhiên
(4.330,53 ha) và dân số của thị xã Thái Bình [19]. Năm 2007 thành phố Thái Bình
mở rộng địa giới hành chính thêm 5 xã theo Nghị định số 181/2007/NĐCP của
Thủ tướng Chính phủ. Năm 2009 thành lập phường Hoàng Diệu trên cơ sở diện
tích tự nhiên và dân số của xã Hoàng Diệu. Thành phố Thái Bình sau khi điều
chỉnh địa giới hành chính có diện tích tự nhiên 6.770,85 ha, chiếm 4,32% diện tích
tự nhiên toàn tỉnh, có 19 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 10 phường: Lê
Hồng Phong, Đề Thám, Quang Trung, Bồ Xuyên, Kỳ Bá, Phú Khánh, Trần Hưng
Đạo, Trần Lãm, Tiền Phong, Hoàng Diệu và 9 xã: Đông Hòa, Phú Xuân, Vũ Chính,
Vũ Phúc, Đông Thọ, Đông Mỹ, Vũ Lạc, Vũ Đông, Tân Bình [23]. Thành phố Thái
Bình là vùng đất bằng phẳng, có cao độ 2,6m, có sông Trà Lý chảy qua với chiều
dài 6,7km, có hệ thống sông đào đã được nâng cấp, kè bờ. Chất đất ở đây có
nguồn gốc phát sinh từ các cồn và bãi cát biển nhưng được bồi đắp phù sa nên
rất thích hợp cho việc gieo trồng lúa nước và cây rau màu. Nơi đây cũng rất ổn
định về địa chất, phù hợp với việc phát triển các ngành công nghiệp hay xây
dựng những công trình cao tầng. Trong những năm gần đây thành phố có tốc độ
đô thị hóa nhanh dẫn đến nhiều biến động về sử dụng đất, nhất là việc chuyển
mục đích từ đất nông nghiệp, chủ yếu là đất lúa sang mục đích phi nông nghiệp.
3
Để phát huy tiềm năng sẵn có nhất là tiềm năng đất đai, đồng thời thực
hiện mục tiêu kinh tế xã hội của thành phố đã đề ra trong những năm tới, cần
phân tích hiện trạng và biến động sử dụng đất để đưa ra phương án định hướng
sử dụng đất đai một cách hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả nhằm hạn chế sự chồng
chéo và giải quyết các mâu thuẫn về quan hệ đất đai, làm cơ sở để tiến hành
giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế xã hội và đảm bảo môi trường sinh thái. Do đó học viên chọn đề tài:
"Phân tích hiện trạng và biến động sử dụng đất giai đoạn 2000 – 2010 phục
vụ quy hoạch phát triển thành phố Thái Bình đến năm 2020".
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích hiện trạng sử dụng đất của thành phố Thái Bình các
năm 2000 và 2010 tiến hành đánh giá biến động sử dụng đất giai đoạn 2000
2010. Từ đó đề xuất các định hướng sử dụng đất của thành phố đến năm 2020
góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất của thành phố Thái Bình.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Điều tra, thu thập tài liệu, số liệu, bản đồ có liên quan đến khu vực
nghiên cứu.
Thu thập tài liệu, số liệu về hiện trạng sử dụng đất năm 2000, 2010 của
thành phố Thái Bình.
Đánh giá biến động sử dụng đất giai đoạn 2000 2010.
Phân tích quan hệ giữa hoạt động kinh tế xã hội và biến động sử dụng
đất trong khu vực.
Dự báo xu thế biến động sử dụng đất của thành phố Thái Bình đến
2020.
Đề xuất định hướng sử dụng đất phục vụ phát triển kinh tế xã hội và
bảo vệ môi trường thành phố Thái Bình đến 2020.
Xây dựng bản đồ định hướng sử dụng đất thành phố Thái Bình đến năm
2020.
4
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp điều tra, khảo sát
Đây là phương pháp dùng để điều tra thu thập các tài liệu, số liệu về điều
kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, các số liệu thống kê, kiểm kê về diện tích các
loại đất ở thời điểm hiện trạng để phục vụ cho việc quy hoạch phát triển thành
phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đến năm 2020.
Phương pháp kế thừa
Kế thừa các tài liệu, số liệu, bản đồ đã có để làm cơ sở cho việc nghiên
cứu đề tài.
Phương pháp thống kê, so sánh
Trên cơ sở các số liệu, tài liệu thu thập được, tiến hành thống kê, so sánh
số liệu qua các năm để thấy được sự biến động, thay đổi về cơ cấu các loại đất.
Do tiêu chí thống kê đất đai năm 2000, năm 2005 và năm 2010 khác nhau. Vì vậy cần
quy đổi chỉ tiêu thống kê về cùng một hệ thống chỉ tiêu thống nhất phục vụ cho
việc so sánh, phân tích, đánh giá được chuẩn xác.
- Ph¬ng ph¸p phân tích, đánh giá tổng hợp: dùng để phân tích và đưa ra
đánh giá về tình hình sử dụng đất, biến động sử dụng đất của thành phố Thái
Bình.
Phương pháp bản đồ: dùng để thể hiện bản đồ hiện trạng sử dụng đất
và xây dựng bản đồ định hướng sử dụng đất thành phố Thái Bình.
5. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về sử dụng đất đô thị.
Chương 2: Hiện trạng sử dụng đất và biến động sử dụng đất thành phố
Thái Bình giai đoạn 2000 2010.
Chương 3: Đề xuất định hướng sử dụng đất thành phố Thái Bình đến năm
2020.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐÔ THỊ
1.1. Vấn đề sử dụng đất đô thị
1.1.1 Khái niệm về đô thị và đất đô thị
1.1.1.1. Khái niệm về đô thị
Đô thị được định nghĩa là một khu dân cư tập trung thoả mãn 2 điều kiện:
Về cấp quản lý: Đô thị là thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền quyết định thành lập.
Về trình độ phát triển: Đô thị phải đạt những tiêu chuẩn sau:
Thứ nhất, đô thị có chức năng là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên
ngành, cấp quốc gia, cấp vùng liên tỉnh, cấp tỉnh, cấp huyện hoặc là một trung
tâm của vùng trong tỉnh; có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của cả
nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất định.
Thứ hai, đối với khu vực nội thành phố, nội thị xã, thị trấn yêu cầu:
+ Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp được tính trong phạm vi ranh giới nội
thành, nội thị, khu vực xây dựng tập trung phải đạt tối thiểu 65% so với tổng số
lao động.
+ Hệ thống công trình hạ tầng đô thị được xây dựng đồng bộ (hệ thống
công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội) đã được đầu tư xây dựng đạt 70%
yêu cầu của đồ án quy hoạch xây dựng theo từng giai đoạn; đạt quy chuẩn, tiêu
chuẩn kỹ thuật và các quy định khác có liên quan.
+ Quy mô dân số toàn đô thị tối thiểu phải đạt 4.000 người trở lên.
+ Mật độ dân số phù hợp với quy mô, tính chất và đặc điểm của từng loại
đô thị và được tính trong phạm vi nội thành, nội thị và khu phố xây dựng tập
trung của thị trấn [24].
Căn cứ vào các nội dung yêu cầu trên có thể định nghĩa một cách khái quát
về đô thị như sau: “Đô thị là điểm dân cư tập trung với mật độ cao, chủ yếu là
lao động phi nông nghiệp (trên 65% xét ở khu vực nội thị), là trung tâm tổng
6
hợp hay chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của một
vùng lãnh thổ (có thể là cả nước, hoặc một tỉnh, một huyện), có cơ sở hạ tầng
thích hợp và dân số nội thị tối thiểu là 4000 người (đối với miền núi tối thiểu là
2800 người). Đô thị gồm các loại: thành phố, thị xã và thị trấn. Đô thị bao gồm
các khu chức năng đô thị” [17].
1.1.1.2. Khái niệm đất đô thị
Đất đô thị đượ c định nghĩa là đất nội thành, nội thị xã, thị trấn sử dụng
để xây dựng nhà ở, trụ sở cơ quan, tổ chức, c ơ s ở t ổ ch ức kinh doanh, c ơ s ở
hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, quốc phòng, an ninh và vào các mục đích
khác nhằm phát triển kinh tế xã hội cho một vùng lãnh thổ. Ngoài ra, đất
ngoại thành, ngoại thị nếu đã có quy hoạch đượ c cơ quan nhà nướ c có thẩm
quyền phê duyệt để phát triển đô thị cũng đượ c quản lý như đất đô thị [29].
Phân vùng chức năng đất đô thị:
Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, đất đô thị bao gồm: Đất sử dụng
vào mục đích xây dựng các công trình công cộng; Đất ở; Đất khu công nghiệp và
kho tàng; Đất cây xanh; Đất xây dựng mạng lưới giao thông và kỹ thuật hạ tầng;
Đất vùng ngoại ô [29].
1.1.2. Vấn đề sử dụng đất hiện nay ở nước ta
Việt Nam có diện tích tự nhiên 33.105.135 ha, đứng thứ 55/200 quốc gia, là
nước có quy mô diện tích thuộc loại trung bình; có dân số đông 86.210.800
người, đứng thứ 12/200 quốc gia, vì vậy bình quân diện tích đất trên đầu người
vào loại thấp 3.840 m2/người (0,3 – 0,4 ha/người), đứng thứ 120/200 quốc gia
trên thế giới bằng mức 1/6 bình quân thế giới.
Trước đây, khi dân số thế giới còn ít hơn ngày nay rất nhiều, đa số các cộng
đồng xã hội đã sinh sống một cách hài hoà với môi trường tự nhiên, trong đó có
tài nguyên đất đai là nguồn cung cấp dồi dào cho nhu cầu tồn tại của con người.
Một vài thế kỷ gần đây, dân số thế giới tăng nhanh đã thúc đẩy nhu cầu về
lương thực, thực phẩm. Song trong đó, nhịp độ phát triển nhanh chóng của các
7
cuộc cách mạng về kinh tế và kỹ thuật,... là nguyên nhân dẫn đến việc tàn phá
môi trường tự nhiên và khai thác triệt để các nguồn tài nguyên, đặc biệt là tài
nguyên đất đai.
Hơn nhiều thập kỷ qua, không ngoài quy luật, đó tình trạng sử dụng đất ở
nước ta cũng bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự gia tăng dân số nhu cầu lương thực
và các yêu cầu thiết yếu khác. Nhiều khu vực tài nguyên đất đai bị suy thoái
một cách nghiêm trọng bởi việc phá rừng và khai thác bừa bãi các tài nguyên rừng
và tài nguyên khoáng sản, hoặc tình trạng đô thị hoá nhanh chóng gia tăng.
Đánh giá tình hình sử dụng đất giai đoạn 2000 2010 ta nhận thấy rằng bên
cạnh những mặt tích cực đã đạt được thì việc sử dụng đất vẫn có những biểu
hiện thiếu bền vững như sau:
Đối với khu vực đất nông nghiệp: Mặc dù đã tập trung thực hiện việc dồn
điền đổi thửa thành công ở nhiều nơi nhưng nhìn chung thửa đất nông nghiệp
vẫn còn quá nhỏ, toàn quốc còn tới 70 triệu thửa đất nông nghiệp, bình quân mỗi
hộ có từ 3 – 15 thửa, do đó canh tác manh mún, chưa tạo thuận lợi để thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Chưa có sự đầu tư để sử dụng đạt hiệu quả cao đối với 1.168.529 ha đất
nương rẫy, việc sử dụng đất chưa trở thành động lực để xoá đói, giảm nghèo và
tiến tới phát triển bền vững kinh tế xã hội miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Việc chuyển một bộ phận đất chuyên trồng lúa cho mục đích phát triển
công nghiệp và dịch vụ chưa được cân nhắc một cách tổng thể đang là vấn đề
cần chấn chỉnh. Cần cân nhắc hiệu quả đầu tư cả về hiệu quả kinh tế lẫn xã
hội và môi trường, khuyến khích đầu tư hạ tầng cơ sở để chuyển đất nông
nghiệp kém hiệu quả sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp, hạn chế việc
tận dụng hạ tầng hiện có tại các vùng đất nông nghiệp có năng xuất cao để đầu
tư phát triển công nghiệp và dịch vụ.
Mặc dù diện tích rừng tăng nhưng rừng tự nhiên vẫn tiếp tục bị tàn phá và
suy giảm chất lượng ở nhiều nơi, mức độ phục hồi chậm; nơi có nhiều đất có
8
thể trồng rừng thì mật độ dân cư thưa, hạ tầng quá thấp kém. Trong thời gian 4
năm 2001 2004, diện tích rừng bị cháy, bị chặt phá là 34.821 ha, trong đó rừng bị
cháy là 23.500 ha (tập trung ở Đồng Bằng sông Cửu Long với 12.844 ha, Tây Bắc
và Đông Bắc với 5.524 ha), rừng bị chặt phá là 11.320 ha (tập trung ở Tây
Nguyên với 4.206 ha, Đông Nam Bộ với 2.348 ha).
Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để thực hiện các dự án đầu
tư phi nông nghiệp chưa giải quyết được quyền lợi, việc làm, ổn định tại khu
vực nông thôn. Nhiều nơi trao cho người nông dân tiền bồi thường, hỗ trợ về đất
khá cao nhưng không định hướng được phương thức sử dụng nên đã dẫn đến
tình trạng tiêu cực trong sử dụng.
Đối với khu đất phi nông nghiệp: Đất dành cho đầu tư hạ tầng kỹ thuật
chưa thực sự được chú ý trong quy hoạch dài hạn. Đặc biệt, đầu tư hạ tầng cho
khu vực nông thôn còn thiếu nên chưa bảo đảm điều kiện để giải quyết xoá đói,
giảm nghèo thực sự cho người nông dân.
Vấn đề đất ở, nhà ở đang là khâu yếu và có nhiều vướng mắc hiện nay,
đặc biệt là nạn đầu cơ đất ở, đất dự án nhà ở kéo dài trong nhiều năm, mặc dù
gần đây đã được chấn chỉnh nhưng hậu quả để lại khá nặng nề, nhất là giá đất
vẫn còn ở mức cao làm hạn chế những cố gắng về nhà ở, đất ở.
Nhiều tỉnh thuộc vùng Đồng Bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ còn có
tình trạng đất ở, đất nghĩa địa, đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp chưa
được quy hoạch, vẫn phân bố rải rác, xen kẽ giữa các cánh đồng và trong khu
dân cư, ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường, khó nâng cấp đời sống người nông
dân trong khu dân cư nông thôn với hạ tầng đồng bộ.
Quỹ đất dành cho xã hội hoá các lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá,
thể dục thể thao chưa được quy hoạch đầy đủ, chưa thực hiện đúng các chính
sách ưu đãi về đất cho các nhà đầu tư thuộc các lĩnh vực này.
Đến nay cả nước đã và đang xây dựng khoảng 249 khu công nghiệp, khu
chế xuất tập trung nhưng vẫn đang ở trạng thái bị động vì thiếu các nhà đầu tư
9
có tiềm lực lớn; sử dụng đất còn lãng phí do chưa có quy hoạch đồng bộ; nhiều
khu công nghiệp đã hoàn thành nhưng mức độ lấp đầy rất thấp; còn nhiều nhà
đầu tư được bàn giao đất nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không đúng tiến
độ, thiếu hiệu quả; giá thuê đất gắn với hạ tầng ở nhiều nơi còn quá cao, chưa
thu hút nhà đầu tư sản xuất vào khu công nghiệp; vấn đề bảo vệ môi trường
chưa được chú trọng ngay từ đầu nên đang phát sinh nhiều hậu quả xấu về môi
trường, khó khắc phục.
Về đối tượng sử dụng đất ngoài hộ gia đình, cá nhân, phần lớn là do các tổ
chức trong nước sử dụng, diện tích đất do tổ chức nước ngoài, cá nhân nước
ngoài sử dụng chiếm tỷ trọng không đáng kể (toàn quốc chỉ có 43.364 ha đất do
các tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài sử dụng, chỉ chiếm 0,13% tổng diện
tích đất tự nhiên).
Chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất không cao, thiếu tính hệ
thống, chưa có được lời giải tốt về hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường, chưa
bảo đảm tính liên thông giữa cả nước với các tỉnh.
Sự chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất nói chung đã bảo đảm tính phù hợp với
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhưng hiệu quả chưa cao. Hiện tượng chuyển
đổi mục đích sử dụng đất tự phát, chạy theo lợi ích riêng vẫn chưa được khắc
phục. Nhiều tỉnh để dự trữ quỹ đất phi nông nghiệp nhiều hơn khả năng đầu tư
nên dẫn tới tình trạng hoặc là “quy hoạch treo” do không triển khai được hoặc là
trình trạng “dự án treo” do giao đất cho chủ đầu tư thiếu năng lực. Việc chuyển
mục đích sử dụng ồ ạt từ đất lúa sang đất nuôi tôm tại một số tỉnh ven biển đã
dẫn đến ô nhiễm môi trường, mặn hoá diện tích trồng lúa, người nông dân không
còn đất để sản xuất nông nghiệp mà nuôi tôm lại bị dịch bệnh, thua lỗ.
Như vậy, để ngăn chặn tình trạng sử dụng lãng phí tài nguyên đất do sự
thiếu hiểu biết cũng như do chạy theo lợi ích trước mắt của người dân gây ra,
Nhà nước cần có những quyết định hướng dẫn cụ thể về sử dụng đất và quản lý
đất đai, sao cho nguồn tài nguyên này có thể được khai thác tốt nhất cho nhu cầu
10
của con người hiện tại và trong tương lai phục vụ phát triển kinh tế xã hội một
cách có hiệu quả.
1.1.3. Vấn đề sử dụng đất đô thị
Nếu Cổ Loa được xem là đô thành đầu tiên được xây dựng vào năm 255
trước công nguyên, thì đô thị nước ta đã hình thành và phát triển trên 2000 năm.
Theo quy luật thì sự tác động các yếu tố kinh tế và xã hội trong đó yếu tố công
nghiệp và giao thông có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển đô
thị. Riêng đối với nước ta bao cuộc xâm lăng của nước ngoài và các cuộc chiến
tranh giữ nước cũng có vai trò khá quan trọng.
Nhìn chung công nghiệp chậm phát triển nhưng dân số tăng nhanh, đặc
biệt các đô thị miền Nam, việc sử dụng đất đô thị chưa hợp lý, phát triển thiếu
sự cân đối cần thiết theo các chức năng đô thị. Công tác quản lý đất đô thị chưa
thật sự chặt chẽ, kỷ cương. Hiện tượng lấn chiếm, mua bán chuyển nhượng
trái phép còn khá phổ biến, nhất là các đô thị lớn. Một trong những chỉ tiêu định
hướng quan trọng nhất để đánh giá mức độ đô thị hoá là dân số đô thị. Ở nước
ta sự tăng dân số toàn quốc ảnh hưởng không tương xứng với mức đô thị hoá
đồng thời cũng thể hiện trình độ kinh tế còn quá chậm.
Mật độ dân số đô thị
Mật độ dân số đô thị là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiện trạng sử dụng
đất ở các nước phát triển. Mật độ dân số càng tăng thì quá trình đô thị hóa càng
diễn ra không cân đối. Nguyên nhân chính là do sự bùng nổ dân số, tỷ lệ dân
nhập cư lớn hơn di cư, sự mâu thuẫn sâu sắc giữa nông thôn và đô thị, quan trọng
là kết cấu hạ tầng đô thị không theo kịp tốc độ tăng dân số đô thị, điều đó đồng
nghĩa với sự mất cân bằng sinh thái đô thị.
Mật độ dân số đô thị các vùng sinh thái rất khác nhau và ngay trong một đô
thị đất vùng trung tâm, các phố cũ mật độ dân số có thể gấp 23 lần mật độ dân
số trung bình đô thị đó. Mật độ dân số đô thị năm 2009 TP.Hồ Chí Minh trung
bình 35.662 người/km2, một số phường trên 40.000 người/km2, Hà Nội 13.090
11
người/km2, các đô thị vùng Đồng bằng sông Cửu Long khoảng 4000 – 5000
người/km2. Nhìn chung mật độ dân số đô thị ở nước ta tương đối lớn, trong điều
kiện hiện nay thì mật độ dân số như vậy là thiếu cân đối.
Đất ở đô thị
Đất ở đô thị phụ thuộc vào địa hình, khí hậu, kinh tế xã hội và số tầng cao
trung bình các đô thị. Trong 30 năm qua, mặc dù thời gian đầu gặp nhiều khó
khăn nhưng hàng năm Nhà nước đã rất quan tâm đến việc đầu tư cho xây dựng
nhà ở và các cơ sở hạ tầng tại các đô thị. Trong những năm gần đây với cơ chế
mới, đất ở đô thị cũng tăng lên nhanh chóng do Nhà nước cấp đất và mở rộng thị
trường bất động sản cho người dân tự do mua bán nhưng đồng thời thấy rõ quỹ
đất đô thị đã ngày càng bị thu hẹp.
Đất cây xanh, công viên đô thị
Tiêu chuẩn diện tích cây xanh/người dân đô thị (m2/người) rất quan trọng để
đánh giá môi trường sinh thái đô thị. Nhìn chung đô thị nước ta diện tích cây xanh
trên đầu người rất thấp mặc dù nước ta rất thuận lợi cho cây xanh sinh trưởng và
phát triển.
Chưa có một công trình nào nghiên cứu sự hợp lý đất cây xanh theo quan
điểm sinh thái đô thị và phát triển lâu bền. Tuy nhiên, theo quy phạm thiết kế quy
hoạch đô thị đã bước đầu đề xuất diện tích cây xanh trung bình trên đầu người
như bảng 1.
Tiêu chuẩn này là thấp so với một số nước phát triển ở châu Âu, cây xanh
rất được coi trọng, bảo vệ cây xanh đã thấm vào máu thịt của mỗi người dân nên
diện tích cây xanh trên đầu người rất cao như Pari 10 m2/người, Berlin 15
m2/người, Maxcơva 40 m2/người. Các đô thị ở Việt Nam diện tích cây xanh rất
thấp, nhất là đồng bằng sông Cửu Long rồi đến các đô thị Đông Nam Bộ, Nam
Trung Bộ dưới 1 m2/người. Các đô thị miền Bắc có khá hơn nhưng đều dưới 1,5
m2/người.
Bảng 01: Chỉ tiêu đất cây xanh đô thị [15]
12
Loại đô thị
Diện tích cây xanh
Diện tích cây xanh sử dụng công cộng
toàn đô thị
(m2/người)
(m2/người)
Toàn khu dân dụng
Khu ở
I,II
1015
58
34
III, IV
710
78
34
V
710
1214
34
(Nguồn: Quy chuẩn xây dựng Việt Nam 1997)
Đối với đô thị nghỉ mát, diện tích cây xanh toàn đô thị tối thiểu phải là 30
40 m2/người.
Đất giao thông đô thị
Giao thông đô thị là một yếu tố quan trọng quyết định hình thành cơ cấu đô
thị và sự phát triển kinh tế xã hội đô thị, là yếu tố tác động trực tiếp với đời
sống thường nhật của người dân đô thị. Tuy một số năm gần đây Nhà nước ta
quan tâm đến việc phát triển đất giao thông đô thị nhưng đất giao thông đô thị
hiện nay còn ở mức thấp chỉ chiếm trên dưới 10% đất đô thị. Trong khi đó ở các
nước phát triển không tính tới điều kiện phương tiện giao thông hiện đại thì tỷ
lệ đất giao thông đô thị chiếm trung bình 35 40% diện tích đô thị. Toàn thành
phố Pari diện tích đất là 10.500 ha thì tổng số diện tích hệ thống đường xá kiên
lộ là 4.500 ha chiếm 42%. Các nước Đông Nam Á như Singapo, Malaixia,
Indonexia tỷ lệ đất giao thông đô thị cũng rất lớn.
Theo dự báo, tỷ lệ đất giao thông đô thị ở nước ta trong tương lai phải đạt
1520% diện tích đô thị, bình quân diện tích giao thông đầu người là khoảng 15
20 m2. Nhưng hiện nay ở Hà Nội và nhiều đô thị bình quân diện tích đất giao
thông trên đầu người thấp nên là một trong những nguyên nhân gây ra hiện tượng
tắc nghẽn giao thông thường xuyên tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh,...
Các loại đất đô thị khác
Bao gồm đất cơ quan trường đại học, dạy nghề, viện nghiên cứu, đất quốc
phòng trong đô thị, đất công nghiệp kho tàng,... nhìn chung chiếm diện tích tương
13
đối lớn so với nhu cầu nên sử dụng còn lãng phí, nhiều nơi sử dụng không đúng
mục đích. Một số năm trước, tình trạng các cơ quan xí nghiệp chia hoặc bán cho
cán bộ công nhân viên làm nhà ở khá phổ biến. Riêng đất quốc phòng đặc biệt
đối với các đô thị miền Nam là sự tiếp quản đất quân sự của chế độ cũ nên đất
quốc phòng trong đô thị rất lớn, nhiều nơi bỏ trống hoặc cho thuê, chia đất cho
cán bộ quân đội làm nhà ở không theo quy hoạch đô thị gây nên sử dụng đất lộn
xộn sai mục đích và lãng phí.
1.2 Mối quan hệ giữa biến động sử dụng đất và phát triển đô thị
1.2.1 Biến động đất đai
Biến động là bản chất của mọi sự vật, hiện tượng. Mọi sự vật, hiện tượng
không bao giờ bất biến mà luôn luôn biến động không ngừng, động lực của mọi
sự biến động đó là quan hệ tương tác giữa các thành phần của tự nhiên và xã hội.
Như vậy để khai thác tài nguyên đất đai của một khu vực có hiệu quả, bảo vệ
nguồn tài nguyên quý giá này và không làm suy thoái môi trường tự nhiên thì nhất
thiết phải nghiên cứu biến động của đất đai. Sự biến động đất đai do con người
sử dụng vào các mục đích kinh tế xã hội có thể phù hợp hay không phù hợp với
quy luật của tự nhiên, cần phải nghiên cứu để tránh việc sử dụng đất đai có tác
động xấu tới môi trường sinh thái.
Nghiên cứu biến động đất đai là xem xét quá trình thay đổi của diện tích đất
đai thông qua thông tin thu thập được theo thời gian để tìm ra quy luật và những
nguyên nhân thay đổi từ đó có biện pháp sử dụng đúng đắn với nguồn tài nguyên
này. Biến động sử dụng đất đai bao gồm các đặc trưng sau:
Quy mô biến động:
+ Biến động về diện tích sử dụng đất nói chung
+ Biến động về diện tích của từng loại hình sử dụng đất
+ Biến động về đặc điểm của những loại đất chính.
Mức độ biến động:
14
+ Mức độ biến động thể hiện qua số lượng diện tích tăng hoặc giảm của
các loại hình sử dụng đất giữa đầu thời kỳ và cuối thời kỳ nghiên cứu.
+ Mức độ biến động được xác định thông qua việc xác định diện tích tăng,
giảm và số phần trăm tăng, giảm của từng loại hình sử dụng đất đai giữa cuối và
đầu thời kỳ đánh giá.
Xu hướng biến động: Xu hướng biến động thể hiện theo hướng tăng hoặc
giảm của các loại hình sử dụng đất; xu hướng biến động theo hướng tích cực
hay tiêu cực.
Những nhân tố gây nên biến động sử dụng đất đai
+ Các yếu tố tự nhiên của địa phương là cơ sở quyết định cơ cấu sử dụng
đất đai vào các mục đích kinh tế xã hội, bao gồm các yếu tố sau: vị trí địa lý, địa
hình, khí hậu, thuỷ văn, thảm thực vật.
+ Các yếu tố kinh tế xã hội của địa phương có tác động lớn đến sự thay
đổi diện tích của các loại hình sử dụng đất đai, bao gồm các yếu tố: sự phát
triển của các ngành kinh tế (dịch vụ, xây dựng, giao thông và các ngành kinh tế
khác,...); sự gia tăng dân số; các dự án phát triển kinh tế của địa phương; thị
trường tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá,...
1.2.2 Đô thị hoá và sử dụng đất
“Đô thị hóa là một quá trình diễn thế kinh tế xã hội văn hoá không
gian gắn liền với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, trong đó diễn ra sự phát triển
các nghề nghiệp mới, sự chuyển dịch cơ cấu lao động, sự phát triển đời sống
văn hoá, sự chuyển đổi lối sống và sự mở rộng không gian thành đô thị, song
song với việc tổ chức bộ máy hành chính và quân sự”. Theo quan điểm này thì
quá trình đô thị hóa cũng bao gồm sự thay đổi toàn diện về các mặt: cơ cấu kinh
tế, dân cư lối sống, không gian đô thị, cơ cấu lao động,… [30].
Chiến lược phát triển đô thị quốc gia là một bộ phận khăng khít, hữu cơ
trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta. Theo dự
báo, trong vài thập kỷ tới khoảng từ năm 2020 trở đi, khi các vùng tăng trưởng kinh
15
tế (TP Hồ Chí Minh Biên Hoà Vũng Tàu, Hà Nội Hải Phòng Quảng Ninh, Đà
Nẵng Huế Nha Trang) đã mạnh và sẽ không có lợi nếu tiếp tục “tăng sức ép”
phát triển tại các vùng tăng trưởng, thì việc phát triển các hệ thống trung bình, nhỏ
(các thị xã, thị trấn) trong toàn quốc trở nên cấp bách và rất quan trọng.
Như vậy, trên góc độ toàn quốc, quá trình đô thị hoá và phát triển đô thị như
là một sức ép mang tính quy luật trong quá trình phát triển kinh tế xã hội quốc
gia. Trong quá trình đó tài nguyên đất là một yếu tố quan trọng và quyết định
hàng đầu.
Trong những năm qua, dưới tác động của nền kinh tế thị trường đất đai đã,
đang và sẽ là một thành phần to lớn trong kinh doanh, sản xuất, thương mại nói
chung và thị trường bất động sản nói riêng. Và điều đó rõ ràng là một bộ phận
quỹ tài nguyên đất, đặc biệt là đất nông nghiệp và lâm nghiệp được chuyển sang
dùng cho xây dựng và phát triển đô thị. Đây là vấn đề đang được quan tâm cho
mọi quốc gia đặc biệt là các nước mà nền sản xuất nông nghiệp đang đóng góp
một tỷ trọng đáng kể cho nền kinh tế quốc dân.
1.2.3 Ý nghĩa thực tiễn của việc đánh giá biến động sử dụng đất đai
Đánh giá biến động sử dụng đất đai có ý nghĩa rất lớn đối với việc sử dụng
đất đai: Việc đánh giá biến động của các loại hình sử dụng đất là cơ sở phục vụ
cho việc khai thác tài nguyên đất đai đáp ứng phát triển kinh tế xã hội và bảo
vệ môi trường sinh thái.
Mặt khác, khi đánh giá biến động sử dụng đất đai cho ta biết được nhu cầu
sử dụng đất đai giữa các ngành kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng. Dựa vào vị
trí địa lý, diện tích tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên của khu vực nghiên cứu, từ
đó biết được sự phân bố giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế và biết được những
điều kiện thuận lợi khó khăn đối với nền kinh tế xã hội và biết được đất đai
biến động theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực nhằm đưa ra phương hướng
phát triển đúng đắn cho nền kinh tế và các biện pháp sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên đất đai, bảo vệ môi trường sinh thái.
16
Do đó đánh giá biến động sử dụng đất có ý nghĩa hết sức quan trọng, là tiền
đề, cơ sở đầu tư và thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, để phát triển đúng
hướng, ổn định trên tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội và sử dụng hợp lý nguồn
tài nguyên quý giá của quốc gia.
1.3 Cơ sở khoa học của quy hoạch sử dụng đất đô thị
1.3.1 Quy hoạch sử dụng đất đai nói chung
Quy hoạch sử dụng đất đai là hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và
pháp chế của Nhà nước về tổ chức sử dụng và quản lý đất đai đầy đủ, hợp lý,
khoa học và có hiệu quả cao nhất thông qua việc phân bổ quỹ đất đai (khoanh
định các mục đích và các ngành) và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất
(các giải pháp sử dụng cụ thể) nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội, tạo
điều kiện bảo vệ đất bảo vệ môi trường [34].
Căn cứ pháp lý của việc lập quy hoạch sử dụng đất đai
Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của đất đai nêu trên, Đảng và Nhà
nước ta đã đưa những quan điểm về sử dụng và bảo vệ đất như sau: Đất đai,
rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển,
thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí
nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học,
kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy
định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân.
Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật,
bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả [33].
Điều 6 của Luật Đất đai năm 2003 xác định một trong những nội dung quản
lý Nhà nước về đất đai là quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [33].
Điều 31 của Luật Đất đai năm 2003 đã quy định căn cứ để quyết định giao
đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất bao gồm:
17
Quy ho ạch, k ế ho ạch s ử d ụng đấ t hoặ c quy hoạch xây dự ng đô thị ,
quy ho ạch điểm dân c ư nông thôn đã đượ c cơ quan Nhà nướ c có thẩ m
quy ền xét duy ệt.
Nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án đầu tư, đơn xin giao đất, thuê
đất, chuyển mục đích sử dụng đất [33].
Các quy định cụ thể về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai được thể hiện
tại Mục 2, chương II Luật Đất đai 2003 bao gồm 10 điều (Điều 21, 22, 23,..., 30)
bao gồm các quy định về nguyên tắc, căn cứ để lập quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất; nội dung quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất; trách nhiệm lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất và thẩm quyền quyết định, xét duyệt quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất.
Ngoài ra còn có các văn bản pháp luật (Thông tư, Nghị quyết,...) có liên
quan đến đất đai khác.
1.3.2 Quy hoạch sử dụng đất đô thị
1.3.2.1. Khái niệm
Quy hoạch sử dụng đất đô thị là tổng thể các biện pháp kinh tế, kỹ thuật,
sinh thái và pháp chế để tổ chức sử dụng hợp lý đất đô thị. Nó là quá trình căn cứ
vào yêu cầu đối với đất cho sự phát triển các ngành kinh tế, các doanh nghiệp và
chất lượng, tính thích nghi của bản thân đất, tiến hành phân phối đất cho các
ngành, các doanh nghiệp, điều chỉnh quan hệ đất, xác định công dụng kinh tế
khác nhau của các loại đất, sắp xếp hợp lý đất đô thị và sắp xếp tương ứng các
tư liệu sản xuất khác và sức lao động có quan hệ với sử dụng đất [29].
1.3.2.2. Nhiệm vụ của quy hoạch sử dụng đất đô thị
Trong đô thị mức độ hợp lý của việc sử dụng đất đô thị có ảnh hưởng tất
yếu đối với mức độ của hiệu suất sử dụng đất và hiệu quả lao động. Vì vậy
nhiệm vụ cơ bản của quy hoạch sử dụng đất đô thị là tổ chức sử dụng hợp lý
đất đô thị với các nội dung sau:
18
Điều tra, nghiên cứu, phân tích tổng hợp điều kiện tự nhiên kinh tế xã
hội, thực trạng sử dụng đất.
Nắm rõ số lượng và chất lượng đất đai làm căn cứ chuẩn xác để tiến
hành phân phối và điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất. Muốn làm tốt điều này trước
hết cần tổ chức tốt việc đăng ký sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, cung cấp những số liệu gốc cho việc xây dựng hệ thống bản đồ sổ
sách làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý sử dụng đất đô thị và giám sát sự biến
động sử dụng đất đô thị.
Phân phối hợp lý quỹ đất đô thị cho các nhu cầu sử dụng đất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và các tư liệu sản xuất khác. Ngoài
mục đích tăng trưởng kinh tế, còn phải chú ý phòng ngừa hậu quả của việc sử
dụng không tốt các loại đất, gây ra cho môi trường sinh thái.
1.3.2.3. Nguyên tắc cơ bản trong quy hoạch sử dụng đất đô thị
Quy hoạch sử dụng đất đô thị tuân theo tất cả các nguyên tắc trong quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói chung. Ngoài ra nó cũng có các nguyên tắc riêng
trong sử dụng đất đô thị. Đó là:
a, Nguyên tắc phân công khu vực của việc quy hoạch sử dụng đất đô thị:
Căn cứ vào tính chất tự nhiên và vị trí của các mảnh đất khác nhau trong đô
thị, tuỳ theo tình hình cụ thể của từng nơi mà xây dựng phương hướng và
phương thức sử dụng của mỗi mảnh đất. Căn cứ vào nguyên tắc lợi thế so sánh
phân công khu vực của sử dụng đất đô thị phân ra 3 nguyên tắc cụ thể:
+ Nguyên tắc phân công có lợi tuyệt đối: Đó là ưu thế tuyệt đối trên mảnh
đất nào đó của đô thị với những lợi thế mà các mảnh đất khác không có được.
Dựa vào những ưu thế đó mà phát triển thành các ngành tương ứng nhằm thu
được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất (ví dụ: khu đô thị ven biển thì nên phát
triển hải cảng, bãi tắm, làm muối...).
19
+ Nguyên tắc phân công có lợi tương đối: tức là lựa chọn mảnh đất có công
dụng thích hợp nhất trong số những mảnh đất có thể thích hợp cho mục đích sử
dụng. Vì vậy ở trung tâm đô thị thường xây dựng cửa hàng hơn là xây dựng nhà ở.
+ Nguyên tắc phân công ưu thế tối đa và ưu thế tối thiểu: bố trí các mảnh
đất có các ưu điểm, nhược điểm sao cho chúng có thể trao đổi sản phẩm với
nhau với giá thành thấp nhất. Điều đó sẽ làm tăng ưu thế của mảnh đất này tới
tối đa, giảm nhược điểm của mảnh đất kia tới tối thiểu.
b, Nguyên tắc lựa chọn vị trí khu vực:
Lựa chọn vị trí khu đất đô thị cụ thể bao gồm lựa chọn vị trí khu vực công
nghiệp, lựa chọn vị trí khu vực thương nghiệp, lựa chọn vị trí khu vực dân cư,
lựa chọn vị trí khu vực ngoại thành. Để lựa chọn hợp lý vị trí khu vực đất đô thị,
cần tiến hành phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến chúng cụ thể như sau:
Đối với việc lựa chọn vị trí khu vực công nghiệp: cần chú ý đến các nhân
tố: Nhân tố tự nhiên (đất đai, khoáng sản, nhiên liệu,...); nhân tố thị trường (quy
mô, cơ cấu, sức chứa của thị trường); nhân tố giao thông vận tải (đường sá,
phương tiện, trình độ tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động giao thông vận
tải), nhân tố xã hội (dân số, việc làm, thu nhập); nhân tố hành vi (trạng thái, tâm
lý, lối sống đạo đức)
Đối với việc lựa chọn vị trí khu vực thương nghiệp chủ yếu: Quy mô và cơ
cấu dân cư đô thị; khoảng cách giữa các trung tâm thương nghiệp trong khu vực;
nhu cầu, thị hiếu của dân cư đô thị và vùng lân cận.
Đối với việc lựa chọn vị trí khu vực dân cư: cần quan tâm đến mức thu
nhập của dân cư đô thị; vị trí địa chỉ các ngôi nhà trong khu dân cư; tố chất của
vùng phụ cận dân cư đô thị.
Đối với việc lựa chọn vị trí khu vực ngoại ô là: cần quan tâm đến khoảng
cách nơi sản xuất nông sản, thực phẩm đến thị trường trung tâm đô thị; sự khác
nhau về diện tích đất cần thiết cho việc sản xuất nông sản của các đơn vị sản
xuất; giá thành vận chuyển nông sản thực phẩm từ ngoại ô và nội thành, nội thị.
20
c, Nguyên tắc quy mô thích hợp của việc sử dụng đất đô thị: Quy mô sử
dụng đất đô thị được quyết định bởi tính chất đô thị. Quy mô sử dụng đất đô thị
là có sự kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế và dân số đô thị theo một tỷ lệ
nhất định. Sự kết hợp chặt chẽ này sẽ đem lại hiệu quả cao trong việc sử dụng
đất đô thị.
d, Nguyên tắc hiệu quả tổng hợp của sử dụng đất đô thị:
Sự vận hành của kinh tế đô thị cần phục tùng mục đích sản xuất của Nhà
nước, điều này đòi hỏi sử dụng đất đô thị phải tuân theo nguyên tắc hiệu quả
tổng hợp của các lĩnh vực kinh tế, xã hội và sinh thái.
Vì vậy, khi xác định quy hoạch sử dụng đất đô thị cần phải tuân theo tất cả
các nguyên tắc trên. Phương án quy hoạch sử dụng đất đô thị có tính khả thi là một
phương án nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, hiệu quả sinh thái, đảm bảo mục tiêu
chiến lược phát triển của đô thị, là phương án tối ưu hoá hiệu quả xã hội.
1.3.2.5. Nội dung chủ yếu của quy hoạch sử dụng đất đô thị
Quy hoạch sử dụng đất đô thị thực chất là quá trình xác định vị trí, quy mô
đất đai cho từng chức năng của đô thị. Quá trình này cần phải dựa trên yêu cầu
cụ thể đối với từng chức năng như sau:
Đất khu đất công nghiệp: Đây là những khu vực sản xuất chính của đô thị.
Quy mô diện tích khu công nghiệp tuỳ thuộc theo vị trí và khả năng có thể phát
triển ở đô thị đó. Thông thường các khu công nghiệp được tổ chức ở ngoài khu dân
dụng thành phố. Trong trường hợp mà các khu công nghiệp được bố trí trong đô thị
thì phải đảm bảo những yêu cầu chung như: tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất
và lao động của người dân; tạo thuận lợi cho việc đi lại và vận tải; tránh được
ảnh hưởng độc hại của sản xuất đến điều kiện vệ sinh môi trường và an toàn của
người dân. Quy hoạch xây dựng khu công nghiệp phải phù hợp với quy hoạch
tổng thể phát triển khu công nghiệp quốc gia [18].
Đất kho tàng: Chủ yếu bố trí ở ngoài khu dân dụng thành phố. Đất kho tàng
là nơi dự trữ hàng hoá, vật tư, nhiên liệu phục vụ trực tiếp cho sản xuất và sinh
21
hoạt hàng ngày của đô thị. Trừ một số kho tàng mang tính chiến lược và dự trữ
Quốc gia được bố trí ở những vị trí đặc biệt theo yêu cầu riêng, các khu vực kho
tàng khác của đô thị đều nằm trong cơ cấu quy hoạch phát triển đô thị. Nói chung
các kho tàng được bố trí gần các đầu mối giao thông và các khu công nghiệp.
Đất xây dựng các khu ở: Bao gồm đất xây dựng các khu nhà ở mới và cũ
trong thành phố thường được bố trí tập trung xung quanh các khu trung tâm của
đô thị, phục vụ nhu cầu về nhà ở, nghỉ ngơi của dân cư đô thị. Trong đó bộ phận
đất đai xây dựng nhà ở là bộ phận chiếm diện tích lớn nhất trong khu đất dân
dụng, trên đó giải quyết nhu cầu về nhà ở, về sinh hoạt văn hoá, giáo dục và
những yêu cầu khác liên quan đến sinh hoạt hàng ngày của người dân.
Thông thường khu đất ở được giới hạn bởi hệ thống đường nội bộ, các
tuyến đường phố phân chia khu ở thành các lô đất có quy mô vừa và đủ để đảm
bảo cuộc sống an toàn thoải mái và ổn định lâu dài.
Khu trung tâm các công trình công cộng: Bao gồm khu vực trung tâm chính
trị của đô thị và toàn bộ hệ thống trung tâm phụ khác ở các đơn vị đô thị thấp hơn
như quận, phường, các trung tâm văn hoá, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học,
… phục vụ những nhu cầu thiết yếu của dân cư đô thị. Đất trung tâm thường
được bố trí ở các khu vực có bộ mặt cảnh quan đẹp nhất và nằm ở vị trí trung
tâm của thành phố và các khu vực chức năng khác của thành phố, quận hay
phường.
Đất cây xanh và thể dục thể thao: Bao gồm đất xây dựng các công viên
văn hoá, nghỉ ngơi, các khu thể dục thể thao thành phố, các vườn cây đặc biệt
khác như công viên bách thú, bách thảo, công viên rừng,… Đây vừa là một chức
năng của đô thị vừa là nơi cải tạo điều kiện vi khí hậu và làm cho môi trường
trong sạch. Các vườn cây, mặt hồ còn có chức năng gắn liền con người với thiên
nhiên, tạo mối liên hệ giữa các công trình nhân tạo với môi trường tự nhiên. Hệ
thống cây xanh và mặt nước góp phần làm cho sinh thái đô thị gần với sinh thái
tự nhiên.
22
Mạng lưới giao thông và kỹ thuật hạ tầng:
Mạng lưới giao thông đô thị có chức năng cho phép vận tải hàng hoá và
hành khách liên hệ giữa các khu chức năng của đô thị (giao thông đối nội) và giữa
đô thị với vùng lân cận (giao thông đối ngoại).
Đất vùng ngoại ô: Bao gồm đất dự trữ phát triển đô thị, các khu xây dựng
các công trình đô thị đặc biệt về cơ sở hạ tầng kỹ thuật như trạm xử lý nước,
trạm bơm nước, lọc nước,… các khu quân sự bảo vệ đô thị, các khu quân sự
khác không trực thuộc thành phố, các khu di tích, khu nghĩa trang, khu rừng bảo
vệ,… Các khu đất này được bố trí ngoài thành phố nhưng có quan hệ mật thiết
với mọi hoạt động bên trong thành phố. Tất cả các khu trên được bố trí hài hoà
với nhau trong cơ cấu tổ chức đất đai toàn thành phố.
1.4 Cơ sở xác định quy mô đất đai trong việc lập quy hoạch sử dụng
đất đô thị
Trong thiết kế lập quy hoạch sử dụng đất cần thiết phải xác định được các
yếu tố cơ bản quyết định đến sự hình thành và phát triển đô thị. Đó là:
1.4.1 Vấn đề xác định tính chất đô thị
Mỗi đô thị có một tính chất riêng. Tính chất đó nói lên vai trò và nhiệm vụ
của đô thị trong sự phát triển kinh tế xã hội của một vùng lãnh thổ nhất định.
Đồng thời tính chất đô thị cũng ảnh hưởng lớn đến cơ cấu nhân khẩu, bố cục
đất đai, tổ chức hệ thống giao thông và công trình phục vụ công cộng,… Do vậy
việc xác định đúng đắn tính chất đô thị sẽ tạo điều kiện xác định đúng phương
hướng phát triển phải có của đô thị, từ đó làm nền tảng cho việc định vị đúng
hướng quy hoạch hợp lý cho đô thị.
Để xác định được tính chất của đô thị, cần tiến hành phân tích một cách
khoa học những yếu tố sau:
23
Phương hướng phát triển kinh tế xã hội: Xác định nhiệm vụ kinh tế cụ
thể cho đô thị. Từ đó căn cứ vào các chỉ tiêu kế hoạch cụ thể đối với đô thị để
xác định tính chất của đô thị.
Vị trí của đô thị trong quy hoạch vùng lãnh thổ: quy hoạch vùng lãnh thổ
xác định mối quan hệ qua lại giữa đô thị với các vùng lân cận. Chính mối quan
hệ về kinh tế, sản xuất, văn hoá, xã hội xác định vai trò của đô thị đối với vùng.
Điều kiện tự nhiên của đô thị: Trên cơ sở đánh giá những khả năng về tài
nguyên thiên nhiên, điều kiện địa hình, điều kiện cảnh quan,… có thể xác định
được yếu tố thuận lợi nhất ảnh hưởng đến phương hướng hoạt động về mọi
mặt của đô thị, ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển đô thị.
1.4.2 Vấn đề xác định quy mô dân số đô thị
Quy mô dân số là yếu tố quan trọng để làm cơ sở tính toán dự kiến quy mô
đất đai cũng như bố trí các thành phần đất đai của đô thị. Do đó việc xác định quy
mô dân số là một trong những nhiệm vụ cơ bản nhất khi thiết kế quy hoạch đô
thị hay quy hoạch sử dụng đất đô thị. Việc tính toán quy mô dân số chủ yếu là
theo phương pháp dự báo.
Để xác định quy mô dân số đô thị, trước tiên phải xác định được thành phần
nhân khẩu, cơ cấu dân cư của đô thị đó:
Xác định cơ cấu dân cư đô thị:
+ Xác định cơ cấu dân cư theo giới tính và lứa tuổi: nhằm để nghiên cứu
khả năng tái sản xuất của dân cư tạo điều kiện để tính toán cơ cấu dân cư trong
tương lai. Cơ cấu dân cư theo giới tính và lứa tuổi thường được tính theo độ tuổi
lao động.
+ Xác định cơ cấu dân cư theo lao động xã hội ở đô thị: thông qua việc phân
dân cư đô thị thành các loại:
Nhân khẩu lao động: bao gồm:
24
Nhân khẩu cơ bản: là những người lao động ở các cơ sở sản xuất mang
tính chất cấu tạo nên đô thị như cán bộ công nhân viên các cơ sở sản xuất công
nghiệp, các cơ quan hành chính, kinh tế, viện nghiên cứu,…
Nhân khẩu phục vụ: là những người lao động thuộc các xí nghiệp và các cơ
sở mang tính chất phục vụ riêng cho thành phố.
Nhân khẩu lệ thuộc: là những người không tham gia lao động, ngoài tuổi lao
động: người già, trẻ em dưới 18 tuổi, người tàn tật…
Cách phân loại trên được sử dụng để xác định quy mô dân số đô thị ở nhiều
nước trên thế giới thông qua con đường thống kê, dự báo và cân bằng lao động
xã hội.
Nghiên cứu thành phần dân cư đô thị là một vấn đề phức tạp vì nó luôn
biến động. Việc nghiên cứu và đánh giá đúng sự diễn biến dân số về tất cả các
mặt tạo tiền đề vững chắc cho việc quy hoạch xây dựng đô thị một cách hợp lý.
Dự báo quy mô dân số đô thị:
Dựa vào số liệu thống kê hiện trạng về dân số trong một khoảng thời gian
nhất định, tính tiếp quy mô dân số theo phương pháp ngoại suy. Qua nghiên cứu
ta thấy sự gia tăng dân số đô thị là sự tổng hợp tăng trưởng của nhiều thành phần
khác nhau. Đó là sự tăng tự nhiên, tăng cơ học, tăng hỗn hợp và tăng do nhiều
thành phần khác nữa.
Trong trường hợp đơn giản có thể tính sự tăng dân số tổng hợp như sau:
Pt = [(P01 + P02) . (1 + α β + w r )].t .(1 + r)
Trong đó:
Pt: Số dân dự báo trong khoảng thời gian t
P01: dân số nội thành nội thị
P02: dân số vùng lân cận sát nhập vào đô thị
α : tỷ lệ sinh
β : tỷ lệ tử
w : tỷ lệ nhập cư, di cư
25