Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

Luận án Thạc sĩ Khoa học ngữ văn: Vận dụng bút pháp nghệ thuật thơ Đường vào việc giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 143 trang )


LÊ THỊ THANH THỦY

BÁO CÁO KINH NGHIỆM TOÀN QUỐC

Về:
PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
THƠ ĐƢỜNG
THEO ĐẶC TRƢNG LOẠI THỂ

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
- 1998 -


PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY THƠ ĐƢỜNG
THEO ĐẶC TRƢNG LOẠI THỂ
Phần I
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giảng dạy tác phẩm văn chƣơng trong nhà trƣờng theo đặc trƣng loại thể là vấn đề có
cơ sở khoa học và ý nghĩa thực tiễn đà đúc kết thành lý luận. Năm 1970, nhóm tác giả do ông
Trần Thanh Đạm đứng đầu đã công bố đề tài khoa học này qua cuốn sách" Vấn đề giảng dạy
tác phẩm theo loại thể”
Tác giả đã chỉ rõ:
"Nhà văn sáng tác theo loại thể thì người đọc cũng cảm thụ theo loại thể và người dạy cũng
giảng theo loại thể. Nói một cách khác, phương thức cấu tạo hình tượng mà tác giả đã sử
dụng khi sáng tác qui định phương thức cảm thụ hình tượng đó của người đọc và cũng từ đó
qui định phương thức giảng dạy của chúng ta".
Đây là luận điểm có tính ngun tắc phổ biến. Dựa trên luận điểm đó, tơi đã nghiên cứu
phƣơng pháp giảng dạy thơ Đƣờng theo đặc trƣng loại thể từ vài năm qua.
Thơ Đƣờng Trung Quốc là mảng văn học nƣớc ngồi nằm trong chƣơng trình lớp 9 và lớp 10
phổ thơng, bổ túc. Tuy có ít bài nhƣng chỗ đứng của nó khơng thể bỏ qua. Vì "Thơ Đường là


một thành tựu xuất sắc của nền văn học cổ Trung Hoa, đồng thời cũng là một hiện tượng đặc
biệt trong lịch sử văn học thế giới"(*)
Trong q trình giao lƣu văn hóa giữa hai dân tộc, hàng nghìn năm qua, nhân dân ta đã tiếp
nhận thơ Đƣờng Trung Quốc nhƣ một món ăn tinh thần bổ ích, Thơ Đƣờng chữ Hán đã đƣợc
đọc theo âm Việt, dịch ra tiếng Việt. Nhiều ngƣời thuộc thơ Đƣờng, yêu thơ Đƣờng và sáng
tác thơ Đƣờng, để lại những áng

(*)

Văn học 10 PTTH. 1991. Trần Xuân Đề.

1


thơ hay cho nền văn học nƣớc nhà. Nhƣ vậy, trong nền văn học Việt Nam, thơ Đƣờng đã có
mặt, có hình thức riêng, cùng tồn tại với các thể loại văn học khác Trong nhiều thế kỷ qua.
Việc tìm ra phƣơng pháp giảng dạy theo đặc trƣng loại thể thơ Đƣờng không chỉ đáp
ứng với một số bài thơ Đƣịng Trung Quốc trong chƣơng trình: Ý nghĩa thực tiễn của vấn đề
mở ra phạm vi rộng, nhằm dạy tốt những bài thơ Đƣờng chữ Hán nói chung và cả những bài
thơ Đƣờng Nôm của các tác giả xƣa nay có trong chƣơng trình văn học của trƣờng phổ thơng
và bổ túc.
Thơ Đƣờng hay nhƣng dạy thơ Đƣờng không dễ. Đó là một ngƣỡng cửa chun mơn
khó vƣợt qua. Cuốn sách "cẩm nang" do nhóm tác giả Trần Thanh Đạm biên soạn, chúng tơi
chƣa có may mắn đƣợc đọc (*). Từ nhiều năm nay, các cấp chuyên môn ngành và những nhà
nghiên cƣu cũng chƣa đặt chân đến vùng đất bỏ ngỏ này. Nhiều năm đứng lớp, dạy văn
trƣờng BTTH, mỗi lần đụng đến bài thơ Đƣờng, tôi cảm thấy ngại ngùng nhƣng vẫn cứ phải
làm cái việc bất đắc dĩ. Dạy xong thì khơng bằng lịn với kết qủa. Giáo án mỗi năm mỗi sửa.
Mãi đến khi đƣợc đọc những tài liệu về thi pháp thơ Đƣờng 1(**) tôi mới tìm ra cánh cửa, mở
lời vào phƣơng pháp giảng dạy thơ Đƣờng theo đặc trƣng loại thể.
Những gì trình bày dƣới đây chỉ là công việc phải làm và đã làm của ngƣời giáo viên

dạy văn chƣơng trong nhà trƣờng chúng ta.

(*)

Cuốn sách: "Dạy học giảng văn ở trƣờng PTTH" của tác giả Nguyễn Đức Ân do nhà xuất bản Đồng
Tháp phát hành năm 1997 có giới thiệu chuyên đề "Giảng dạy văn học theo loại thể" của nhóm tác giả Trần
Thanh Đạm.
(**)
1Tài liệu về thi pháp thơ Đƣờng:
- "Hình thức Thơ ca cổ điển Trung Quốc "tác giả PTS. Hồ Sĩ Hiệp" Đại học Quốc Gia TP. Hô Chí
Minh, Trƣờng Đại học lƣu hành nội bộ 1997.
- "Thi pháp thơ Đƣờng" của PTS Nguyễn Thị Bích Hải. Nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế 1995.

2


Phần II
ĐỐI TƢỢNG ÁP DỤNG

I. THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG:
Năm học 1996 - 1997 và 1997 - 1998:

Số lƣợng

Thành phần HV
Lớp 10

Độ tuổi

Tổng số


Nữ

18

25

26

30

31

40

Cán bộ

12

3

/

1

11

Công nhân

l6


5

2

13

1

Nhà sƣi

6

3

/

6

/

Nữ tu sĩ

7

7

3

4


/

Học sinh cũ

40

24

40

/

/

Tống số

81

42

45

24

12

II. PHÂN TÍCH :
- Đối tƣợng áp dụng phƣơng pháp giảng dạy thơ Đƣòng theo đặc trƣng loại thể là
những học viên cán bộ, công nhân, những thanh niên nông thôn sau khi học xong PTCS về

sản xuất ở địa phƣơng mấy năm và một số nhà sù, nữ tu sĩ. Nói chung, họ là những học viên
lớn tuổi vừa trực tiếp công tác, lao động sản xuất và làm việc đạo vừa đi học.
- Thực tế từ 5 năm lại đây, số học viên độ tuổi 31 đến 40 ngày càng giảm, ngƣợc lại,
học viên độ tuổi từ 18 đến 25 tăng nhanh và đang trở thành đối tƣợng chính trong lớp học.
Học viên ở độ tuổi 18 đến 25 tăng; là một chuyển biến khách quan có lợi để nhà
trƣờng xây dựng củng cố nề nếp học tập, có những yêu cầu cao hơn về chất lƣợng dạy và
học. Trong điều kiện đó, phƣơng pháp giảng dạy thơ Đƣờng

3


theo đặc trƣng loại thể đƣợc áp dụng là một thuận lợi.
Mặc dù đƣợc Ban giám đốc Trung tâm GDTX khuyến khích, tạo điều kiện và các bạn
dồng nghiệp trong tổ hỗ trợ, tơi vẫn thấy việc dị dẫm đi vào phƣơng pháp giảng dạy thơ
Đƣờng theo đặc trƣng loại thể là một thu thách quá sức. đầy khó khăn. Tinh thần của tôi là
vừa học hỏi trang bị lý thuyết vừa vận dụng vào thực tế giảng dạy, làm đến đâu xem xét lại
đến đấy để rút tỉa kinh nghiệm đặc biệt là chú trọng những thu hoạch bổ ích cho mình.

Phần III
CÁC PHƢƠNG PHÁP SỬ DỤNG
Thơ Đƣờng Trung Quốc đƣợc các giới nghiên cứu phê bình văn học xƣa nay đánh giá
là một cơng trình nghệ thuật sáng tạo độc đáo. Bƣớc vào giảng dạy thơ Đƣờng phải tiếp cận
với rất nhiều vấn đề. Riêng về thế loại, đã có một hệ thống đa dạng về hình thức. Ở đây
không dám bàn đến tất cả những thể loại sáng tác vào đời Đƣờng Trung Quốc mà chỉ nói tới
những thể thơ cách luật ngũ ngôn hoặc thất ngôn bát cú, tuyệt cú hoặc bài luật cũng có nhiều
vấn đề. Thể thất ngôn bát cú luật thi đƣợc coi là dạng cơ bản, vì từ đó có thể suy ra tất cả các
dạng khác của thơ Đƣờng. Do đó đi vào phƣơng pháp giảng dạy thơ Đƣờng theo đặc trƣng
loại thể, trƣớc hết và chủ yếu là tìm hiểu ở những bài thất ngôn bát cú luật thi.
I. TRANG BỊ CHO HỌC SINH MỘT CHÚT VỐN LIẾNG ĐỂ HỌC THƠ ĐƢỜNG:
1. Thơ Đƣờng luật theo qui phạm có ba dạng chính:

a. Thơ bát cú:
- Thất ngơn bát cú (cả bài tám câu, mỗi câu bảy chữ)
- Ngũ ngôn bát cú (Cả bài tám câu, mỗi cáu năm chữ).

4


b. Thơ tuyệt cú:
- Thất ngôn tuyệt cú (cả bài bốn câu, mỗi câu bảy chữ).
- Ngũ ngôn tuyệt cú (cả bài bốn câu, mỗi câu bốn chừ).
c. Thơ bài luật:
Dạng kéo dài của thơ Đƣờng luật. Cả bài gồm mƣời câu trở lên, thƣờng lấy số vần
chẵn chục, tên bài thơ ghi rõ "thập vận", hoặc "nhị thập vận"...
2. Bố cục truyền thống của bài thơ Đƣờng là đề, thực, luận, kết:
a. Ở bài tuyệt cú (Tứ tuyệt):
- Đề: câu 1
- Thực: câu 2
- Luận: câu 3
- Kết: câu 4
b. Ở bài bát cú:
- Đề: câu 1 và 2
- Thực: câu 3 và 4
- Luận: câu 5 và 6
- Kết: câu 7 và 8
c. Nhiệm vụ của đề, thực, luận, kết:
- "Đề" có nhiệm vụ mở ý cho cả bài thơ. Ở bài bát cú, câu thứ nhất là "phá đề" thực
hiện nhiệm vụ của "đề"; câu thứ hai là "thừa đề" tiếp ý của "phá đề" để chuyển vào thân bài.
Bút pháp thơ Đƣờng thƣờng "phá đề" theo lối "khai môn kiến sơn" (mỏ cửa thấy núi),
tức là nói thẳng vào sự việc.
- "Thực", cịn gọi là thích thực hay cặp trạng để giải thích rõ ý của đầu

bài. Các cụ xƣa nói "Thảo xà hơi tuyến, bất túc bất ly" nghĩa là rắn cỏ, đƣờng
tro, chẳng tới sát mà cũng chẳng rời xa. "Thực" nghĩa là đƣa ra những hình ảnh

5


thực để phát triển ý thơ cho "đề".
- "Luận" là nói rõ, là khai thác mở rộng ý của "đề" và "thực"
- "Kết" là kết thúc ý toàn bài thơ, cần làm nổi bật tứ thơ, dụng ý của bài thơ, thái độ tƣ
tƣởng, tình cảm của tác giả.
3. Bố cục bài thơ tuyệt cú có quan hệ gần gũi với bài bát cú luật thi:
"Tuyệt cú" là một thể thơ có nguồn gốc và đời sống riêng, nhƣng từ khi có luật thi đời
Đƣờng, thì nó trở nên rất gần gũi với kiểu bài bát cú. Bố cục của nó giống nhƣ đƣợc "cắt" từ
bài bát cú ra.
a. Dạng thứ nhất:
Cắt lấy bốn câu trên. Trƣờng hợp này hai câu đuổi đổi nhau.
b. Dạng thứ hai:
Cắt lấy bón câu đuổi. Trƣờng hợp này hai câu trên đối nhau.
c. Dạng thứ ba:
Cắt lấy bốn câu giữa. Trƣờng hợp này cả bốn câu phải đối nhau từng đôi môt
d. Dạng thứ tư:
Cắt lấy hai câu đầu và hai câu cuối. Trƣờng họp này không đối.
4. Sơ đồ niêm, luật, vần của bài bát cú:
Minh họa qua bài "Đăng cao" của Đỗ Phủ
Ký hiệu :

a/

Đòn cân thanh điệu;
(T) thanh trắc, (B) thanh bằng


b/

Niêm là chất dính về thanh điệu giữa các liên thơ.

6


c/ Mỗi cặp câu: l với 2; 3 với 4; 5 với 6 và 7 với 8 là những liên thơ. ý liên kết với
nhau.
d/ B°: Vần. Bài bát cú luật thi có 5 vần gieo ở tiếng cuối các câu 1; 2; 4; 6 và 8.
Bài tứ tuyệt có 3 vần, gieo ở cuối câu 1, 2 và 4 . Đó là hệ thống vần chính cách, chƣa
kể phá cách.
SƠ ĐỒ VỀ NIÊM, LUẬT, VẦN CỦA THƠ ĐƢỜNG.

7


5. Thi nhãn (còn gọi là nhãn tự)
Theo pháp tự của thơ cổ thể, câu thơ ngũ ngôn, lấy chữ thứ ba làm cơ nữu; câu thơ
thất ngôn, lấy chữ thứ năm làm cơ nữu. Đó là những chữ hay nhất khéo nhất trong câu thơ,
hội tụ những tình cảm, vẻ đẹp của ý thơ.
Trong một bài bát cú hay tuyệt cú có thể có một đến hai chữ cơ nữu, tập trung ý tình,
tạo nên cái thần của bài thơ, những chữ đó đƣợc gọi là "thi nhãn" hay "nhãn tự".
Trƣờng hợp đặc biệt, "thi nhãn" (nhãn tự) không nằm ở vị trí cơ nữu, có thể nằm ở
chữ cuối cùng của bài thơ để gây ấn tƣợng mạnh.
6. Đối:
Là hình thức tu từ do hai câu có số chữ bằng nhau, từ loại đối nhau, ý đối nhau. Luật
thi bắt buộc hai liên giữa của bài bát cú phải thực hiện đúng phép đối, làm cho hình thứ bài
thơ cân đối, hài hịa, hồn mỹ và ý thơ hàm súc.

**
*
Sáu nội dung trên đây đƣợc in thành văn bản nhân tiết giới thiệu chung về thơ Đƣờng,
chúng tôi hƣớng dẫn học viên sử dụng. Nhờ văn bản này, anh chị em có đƣợc cái vốn ban đầu
để soạn bài và tiếp thu kiến thức bài giảng.
Thông qua việc khái quát về vai trò của thơ Đƣờng đối với văn học nhân loại, học
viên thấy đƣợc khơng chỉ có nhân dân Trung Hoa yêu thích thơ Đƣờng mà nhiều dân tộc trên
thế giới đã khao khát tìm đến thơ Đƣờng. Bao đời nay nhân dân ta đã dành cho thơ Đƣờng
một chỗ đứng trong nền văn học của mình. Học viên nhận ra rằng học thơ Đƣờng là việc làm
cần thiết và bổ ích.
Chúng tơi đã hƣớng dẫn anh chị em cách đọc một bài thơ Đƣờng: đọc nguyên tác, đọc
bản dịch nghĩa và đọc thơ dịch. Cần thiết nhất là biết đối chiếu giữa bản thơ dịch với thơ
ngun tác để có giọng điệu thích hợp. Đọc kết hợp với tìm hiểu, giải thích ý nghĩa một số từ
Hán Việt trong bài, trên cơ sở đã nghiên

8


cứu nội dung bản dịch.
Đây là bƣớc khởi động tích cực vừa tạo tâm thế cần thiết, vừa có vốn liếng trang bị
ban đầu để đọc thơ Đƣờng. Việc làm này giống nhƣ nhƣng luống cày vỡ để sau này bừa đi
xáo lại, tạo nên màu mỡ trong việc tiếp thu cái hay cái đẹp của thơ Đƣờng.
II. ĐỐI CHIẾU CHẶT CHẼ BÀI THƠ DỊCH VỚI NGUYÊN TÁC ĐỂ PHÁT
TRIỂN ĐẦY ĐỦ NHỮNG GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT.
Ở mỗi bài thơ Đƣờng, sách giáo khoa đều có phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ. Ba văn
bản nhƣng chỉ là một bài thơ, một chỉnh thể nghệ thuật. ý nghĩa này nằm đầy đủ ở văn bản
nguyên tác. Bản dịch chỉ giúp ta hiểu về nội dung câu chữ. Văn bản dịch thơ cũng là một
chỉnh thể nghệ thuật nhƣng không thay đƣợc văn bản nguyên tác.
Những bài thơ dịch hay nổi tiếng nhƣ "Tỳ bà hành" của Bạch Cƣ Dị do Phan Huy
Thực chuyển thể sang song thất lục bát, hoặc bài "Hồng Hạc Lâu" của Thơi Hiệu do Tản Đà

dịch sang thể thơ lục bát. Hay là hay về ngơn từ, nội dung, có thể đến mức lột đƣợc cái thần
của nguyên tác, đem mọi ý tình tác giả vào bản dịch của mình, nhƣng niêm, luật, nhịp, vần,
đối, của bài thơ thì khơng giữ đƣợc. Đó là chƣa kể những trƣờng hợp bản dịch làm mất đi
khơng ít giá trị nội dung nghệ thuật.
Khi dạy đến bài "Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng" của Lý
Bạch, tôi hƣớng dẫn học viên đối chiếu bài thơ dịch của cụ Ngô Tất Tố với nguyên tác. Anh
chị em phát hiện từ "cố nhân" dịch là "bạn", từ "cơ phàm" dịch là "bóng buồm", nghĩa khơng
sát. Tôi hƣớng dẫn lớp đem ra sâu chuỗi từ ghép Hán Việt có yếu tố "cố" nhƣ là: cố nhân, cố
tri, cố hƣơng, cố đô, cố quốc... để xác định sắc thái biểu cảm giống nhau của chúng. Tất cả
đều thừa nhận rằng yếu tố "cố" đem đến cho những từ ghép này sự hoài niệm về quá khứ,
nhớ tiếc những gì đã gắn bó, đã thuộc về mình, nhƣ máu thịt của mình.
Liên hệ đến bài "Tân xuất ngục học đăng sơn" (mới ra tù tập leo núi) rút từ "Nhật ký
trong tù" của Bác Hồ tôi nhớ trong đó có hai câu:
Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh

9


Dao vọng Nam thiên ức cố nhân
Dịch nghĩa:
Một mình bồi hồi bước dạo trên đỉnh núi Tây Phong.
Trơng về phía trời Nam xa xăm nhớ bạn cũ.
Tác giả Nam Trân dịch:
Bồi hồi dạo bước Tây Phong lĩnh
Trông lại trời Nam nhớ bạn xưa
Tác giả T. Lan dịch:
Bùi ngùi dạo đỉnh Tây Phong
Trơng về cơ quốc chạnh lịng nhớ ai.
Phải thừa nhận rằng thơ dịch rất hay, hay từ ngôn từ đến âm điệu nhƣng sắc thái biểu
cảm ở các từ "bạn xƣa" và "nhớ ai" thì khác nhau. Ai cũng thừa nhận từ "cố nhân" dịch là

"nhớ ai" biểu hiện đƣợc sự dính líu quan hệ lƣu lại tình ngƣời nguyên vẹn, không nhạt phai,
không mất di; trong khi từ "bạn xƣa" biểu cảm một ấn tƣợng đã lùi xa, mờ nhạt, không mang
ý nghĩa "cố nhân" nữa.
Trở lại từ "bóng buồm" nói trên, ta thấy chỉ có hình ảnh vật đƣợc nói tới, khơng có
sắc thái biểu cảm tâm cảnh. Phải là "bóng buồm lẻ loi" mới thay thế đƣợc từ "cơ phàm". Bởi
vì nỗi buồn chia ly đã định hƣớng cho đôi mắt, khiến cho Lý Bạch chỉ thấy một cánh buồm
đơn chiếc của Mạnh Hạo Nhiên mất hút giữa màu xanh bất tận của trời nƣớc bao la.
Thực tế trên cho phép khẳng định bản dịch thơ không thể thay thế đƣợc nguyên tác.
Bài thơ dịch chỉ giúp ngƣời đọc có ý niệm nhanh về nội dung, làm cơ sở để hiểu nguyên tác.
Do vậy việc giảng dạy những bài thơ chữ Hán nói chung và thơ Đƣờng Trung Quốc nói riêng
khơng thể thốt ly ngun tác. Chỉ trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa bài thơ dịch với bài thơ
nguyên tác ta mới phát hiện, khám phá đầy đủ cái hay, cái đẹp của bài thơ.

10


III. TẠO TÂM THẾ CHO HỌC VIÊN BƢỚC VÀO HỌC THƠ ĐƢỜNG:
Tâm thế là trạng thái tâm lý tinh thần của con ngƣời. Từ xƣa, ngƣời Trung Quốc quan
niệm "Tâm chủ thần minh", nghĩa là thần chí, thần sắc con ngƣời đều do tâm thống quản.
Tâm có định, thần chí mới n, thần sắc mới bình ổn. Tâm có định lời nói mới có mạch lạc
chủ ý, việc tiếp thu kiến thức mới sáng suốt. Do đó, tâm thế nói ở đây là trạng thái tâm lý
thăng bằng, tinh thần bình ổn, khơng bị những buồn hận, lo nghĩ,... ở ngồi đời xâm chiếm,
khuấy động.
Ngày xƣa, có một thời, chữ Hán (Nho) đƣợc đề cao là "chữ thánh hiền". Mỗi khi đọc
"sách thánh" các cụ ta thƣờng phải tạo cho mình một tâm thế thích hợp để lĩnh hội ý nghĩa
cao siêu trong từng câu chữ. Ở cái thời "văn, sử, triết bất phân", chữ Hán còn là thứ văn tự
khó đọc, khó hiểu, ý tứ thâm trầm, cho nên tạo tâm thế không chỉ vi ý thức tôn nghiêm đối
với "chữ thánh", "sách thánh" mà cịn vì mục đích tiếp thu kiến thức. Việc các cụ khép cửa
vào thƣ phịng n tĩnh đọc sách là hình thức tạo tâm thế để nâng cao hiệu quả tiếp thu kiến
thức. Đặc biệt, đến kỳ bình văn thì yêu cầu tạo tâm thế đƣợc đƣa lên thành nghi lễ trọng thể.

Dƣới nhang trầm thơm tỏa khói, ơng thầy đạo cao đức trọng bậc nhất đứng ra bình
văn cho hàng trăm nho sĩ áo lƣơng khăn đống ngồi nghe. Thơ văn hay đƣợc ngƣời giọng tốt
đọc. Khơng khí văn chƣơng tràn ngập cảm hứng, đó chính là tâm thế tốt nhất mở đƣờng cho
những lời bình.
Ngày nay, việc tạo tâm thế cho tiết học văn chƣơng là trạng thái tâm lý cần thiết.
Những tác động tâm lý, tạo khơng khí hứng thú sẽ hứa hẹn một tiết học tốt.
Dạy bài giới thiệu chung về thơ Đƣờng, có ý nghĩa nhƣ việc mở cánh cửa đầu tiên để
nhìn vào một thế giới mới, học sinh cần đƣợc khái quát những giá trị tinh hoa về nội dung và
nghệ thuật của thi ca đời Đƣờng. Những ví dụ so sánh một câu thơ, một khổ thơ giữa tác giả
Việt Nam với tác giả thơ Đƣờng sẽ đem lại sự hiểu biết nguồn gốc, điển cố điển tích, có tác
dụng kích thích ham muốn tìm tịi cho đối tƣợng tiếp thu.
Ví dụ : Câu thơ trong "Truyện Kiều" củaNguyễn Du :
"Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngối cịn cười gió đơng"
có nguồn gốc từ hai câu thơ của Thôi Hộ trong bài "Đề đô thành nam trang":
"Nhận diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiểu đông phong"

11


Cùng nói về tình u, về nỗi niềm mong nhớ một giai nhân nhƣng Thôi Hộ chỉ thắy
một khách quan "hoa đào nhƣ cũ, cƣời với gió đơng". Với Nguyễn Du qua những từ "trƣớc,
sau, nào "ta thấy một Kim Trọng đang chăm chú tìm kiếm và cuối cùng là tuyệt vọng. Từ
"năm ngối", "cịn" khiến cho ngƣời đọc nhận ra chàng Kim nhìn hoa đào mà chỉ thấy hình
ảnh hoa đào năm ngoái bên nàng Kiều với nụ cƣời để lại. Nụ cƣời hoa đào của Nguyễn Du là
hình ảnh ẩn dụ tƣợng trƣng hiện diện trong nỗi niềm tƣởng nhớ ngƣời yêu của Kim Trọng,
đầy ấn tƣợng chủ quan của chủ thể trữ tình.
Nhƣ vậy, từ thơ Thơi Hộ, Nguyễn Du đã tiếp thu và tìm đƣợc cách nói ý nhị, sáng tạo,
đầy ấn tƣợng.

Việc tạo tâm thế, tạo khơng khí văn chƣơng cho mỗi tiết học, theo tơi, đó là một q
trình tác động vào cảm hứng, cảm xúc của đối tƣợng. Từ khâu giới thiệu bài mới đến đọc
mẫu, ngơn từ nói của thầy, cách nêu và dẫn dắt vấn đề, cách giảng bình.... đều tham dự vào
việc tạo tâm thế, giữ vững trƣờng tâm thế của tiết học. Tuy nhiên, giới thiệu bài có vai trị
quyết định, vì nó đƣa đƣợc tâm lý của thầy và trò vào trạng thái hƣng phấn, tạo nên những
khát khao, chờ đón tiếp nhận cái đẹp văn chƣơng. Muốn đạt đƣợc yêu cầu tạo tâm thế việc
giới thiệu bài mới nhất thiết phải ngắn gọn và truyền cảm.
Ví dụ: Ở bài "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng" của Lý Bạch, ta
có thế nói:
Thơ Đƣờng Trung Quốc là một cống hiến nghệ thuật độc đáo cho văn học nhân loại.
Để thấy đƣợc nét độc đáo đó, chúng ta hãy tìm hiểu qua bài thơ "Hồng Hạc lâu tống Mạnh
Hạo Nhiên chi Quảng Lăng" của Lý Bạch, một thiên tài thơ của đời Đƣờng.
Khi dạy bài "Đăng cao" của Đỗ Phủ, ta có thể giới thiệu:
Nếu Lý Bạch là đỉnh cao của mảng thơ Đƣờng lãng mạn thì Đỗ Phủ cũng là trái núi
sừng sững của mảng thơ Đƣờng hiện thực. "Đăng cao" là một trong những kiệt tác của nhà
thơ hiện thực đó.
Thơ Đƣờng hay nhƣng dạy đƣợc hay càng khó. Do đó việc tạo tâm thế đi vào tiết học
là một u cầu có tính sƣ phạm. Đây cũng là một nét đẹp ấn tƣợng trong giảng dạy văn
chƣơng, khơng nên bỏ qua, để góp phần tạo hiệu quả lên lớp.

12


IV. TẬP TRUNG KHAI THÁC NHỮNG ĐẶC TRƢNG NGHỆ THUẬT CỦA THƠ
ĐƢỜNG :
1. Nét độc đáo của thế giới ngôn từ thơ đƣờng:
Khuôn khổ bài thơ Đƣờng đã định sẵn. Nếu là thất ngơn bát cú luật thi thì cả bài có 56
chữ; nếu là ngũ ngơn tứ tuyệt thì cả bài chỉ có 20 chữ. Vì câu chữ hạn chế nên nhà thơ phải
rút lấy những yếu tố cốt lõi của ngôn từ trong ngôn ngữ dân tộc, phải sử dụng cách nói hiệu
quả nhất, rất ít dùng những từ mơ tả cụ thể.

Từ "n ba" trong bài Hồng Hạc Lâu" của Thơi Hiệu đã có đến bốn cách hiểu. Có
ngƣời hiểu "yên ba" là sƣơng khói mù mịt lan trên sóng. Có ngƣời hiểu "yên ba" là mây chiều
phản chiếu mờ ảo trên mặt sơns rợn sóng. Lại có cách hiểu "yên ba" là khói lam chiều từ rất
nhiều thuyền bè trên sông Trƣờng Giang nấu cơm tỏa bồng bềnh trên sóng. Cuối cùng, cịn
có ngƣời hiểu "n ba" chỉ là ảo giác của nhà thơ.
Yên là khói, ba là sóng, yên ba là khói sóng mà có đến bốn cách hiểu. Đó chính là
tính đa nghĩa, là đặc trƣng lời ít ý nhiều, giàu sắc thái biểu cảm của ngôn từ thơ Đƣờng.
Ở những nhà thơ tài hoa nhƣ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cƣ Dị . . . ngôn từ thơ đƣợc sử
dụng rất giản dị, mang ý nghĩa khái quát cao, nội dung dồn nén. Tuy giản dị nhƣng khơng
mộc mạc. Nó đƣợc chọn lọc thăng hoa trong cảm quan của nhà thơ. Đó là thứ ngôn từ mang
dấu ấn cá nhân, giàu sắc biểu cảm, ý nghĩa hàm ẩn sâu sắc mà đời sau gọi là đặc trƣng của
"lời Đƣờng".
Thôi Hiệu đã dùng từ "hồng hạc" khi thì biểu tƣợng về chim, khi thì biểu tƣợng về
lầu, trong đó là mối quan hệ dính líu giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái mất và cái cịn ở nhân
gian. Đó là chƣa kể đến những "thi nhãn" (còn gọi là nhãn tự) của bài thơ. Thi nhãn là mắt
thơ, là những từ đắc địa nhất, có giá trị biểu cảm lớn, thể hiện cái "thần" của bài thơ, kết đọng
những tâm tình sâu kín của nhà thơ.
Thơng thƣờng, ở bài thơ hay mới có "thi nhãn". Một bài cũng chỉ có một đến hai chữ
ở vị trí cơ nữu hoặc ở ngịai vị trí cơ nữu, đƣợc gọi là "thi nhãn".

13


"Thi nhãn" là những viên ngọc đẹp nhất trong ngôn từ thơ Đƣờng.
"Vọng Lƣ Sơn bộc bố" là bài tuyệt cú của Lý Bạch có bốn câu nhƣ sau:
Nhật chiếu hương lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
Trong bài chữ "lạc" là "thi nhãn". Phép ẩn dụ tạo ra hình ảnh đẹp: Sơng Ngân Hà từ

chín tầng trời lạc xuống để chỉ thác núi Lƣ cao vịi vọi. Cả bài thơ chuẩn bị cho hình ảnh ẩn
dụ này. Mọi cái bất ngờ, vẻ đẹp của tứ thơ tập trung ở chữ "lạc".
Bài "Tĩnh dạ tƣ " của Lý Bạch có bốn câu:
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hướng.
Chữ "tƣ" ở câu cuối là "thi nhãn".
Bài thơ" có ba câu tả trăng, riêng câu cuối dành cho nỗi nhớ quê hƣơng. Tuy tả trăng
nhƣng hình ảnh nào cũng ẩn hiện nỗi nhớ. Ánh trăng vào tận phòng mà con ngƣời vẫn thao
thức. Thức nhƣng vẫn chập chờn nên mới tƣởng ánh trăng là sƣơng. Khi đã tỉnh hẳn nhà thơ
mới ngẩng đầu ngắm trăng sáng. Thấy trăng rồi thì nỗi nhớ quê hƣơng xâm chiếm tất cả tâm
hồn. Con ngƣời viễn khách suy ngẫm gì, hồi tƣởng lại những gì ở q hƣơng, tác giả khơng
nói đến. Chỉ một chữ "tƣ" đã đủ có một khoảng trống không cùng về không gian, thời gian
quá khứ để ngƣời đọc liên tƣởng.
Trong bình giảng thơ, "thi nhãn" là những tín hiệu nghệ thuật, những điểm sáng, cần
tập trung khai thác.

14


2. Giảng bình "thi nhãn" (nhãn tự) trong thơ Đƣờng:
Thơng thƣờng giảng bình từ có ba bƣớc :
Bƣớc 1: Giải thích nghĩa đen, nghĩa văn cảnh của từ.
Bƣớc 2: Phát hiện các yếu tố nghệ thuật có liên quan đến từ (Nếu là thơ cần chú ý cả
âm thanh, sắc thái biểu cảm, vị trí của từ... ).
Bƣớc 3: Bình ý nghĩa, tác dụng về mặt biểu cảm của từ.
Khi thực hiện, bƣớc một có thể gợi mở, dẫn dắt để học viên trả lời. Bƣớc hai và ba
khó hơn, thƣờng là giáo viên phải trực tiếp. Đặc biệt là bƣớc ba, cần đẩy lên cao trào cảm
xúc. Đây chính là chỗ tâm hồn gặp tâm hồn. Hồn thơ thi nhân và cảm nhận, xúc động của

ngƣời bình truyền sang học viên để rồi cùng gặp gỡ vui buồn, đau hận, xót xa với tình đời.
Nhờ vậy mà học viên có thể "mê" thơ Đƣờng, "mê" những tiết nghe giảng bình thơ Đƣờng.
Ví dụ: Giảng bình từ "sầu" ở bài "Hồng Hạc Lâu" của Thơi Hiệu:
Bƣớc 1: "Sầu" là nỗi buồn đeo bám tâm trạng hiện ra nét mặt; cử chỉ, lời nói.. là trạng
thái tâm lý nặng nề xảy ra trƣớc những mất mát lớn, nhất là về tình cảm, niềm tin. Từ "sầu" ở
đây là tâm trạng hoài cổ, trƣớc sự mất còn hƣng phế của xã hội.
Bƣớc 2: Âm trầm bình thanh của từ "sầu" ở vị trí cuối bài thơ nhƣ một tiếng tơ trùng
gieo xuống. Bài thơ khép lại nhƣng âm vang của tiếng nhạc buồn còn vọng mãi.
Bƣớc 3: Cả bài thơ 56 chữ thì 55 chữ trƣớc đó chỉ là những bƣớc chuẩn bị cho một
chữ "sầu" rơi xuống "đắc địa" ở vị trí cuối bài. Một từ "sầu" chứa đựng tất cả những tiếc nuối
quá khứ, những thất vọng với hiện tại, với bao buồn đau của một thời, một đời kết đọng trong
tâm hồn nhà thơ.
Để lời bình có sức truyền cảm, trƣớc hết ngƣời thầy phải cảm, phải thực sự xúc động
nhƣ hóa thân trong tâm hồn thi nhân thì mới đem đến những rung động mạnh mẽ ở trái tim
học viên.

15


3. Khai thác những yếu tố niệm, luật, vần, điệu của bài thơ:
Thơ Đƣờng có hình thức cấu tạo ổn định. Mỗi dạng bài nhƣ một khuôn đúc. Niêm,
luật, vần, đối, bố cục chặt chẽ. Hiểu những qui luật này là có trong tay chiếc chia khóa để giải
mã các hình thức thể hiện của thơ Đƣờng.
Ngƣời xƣa đã thâu tóm hệ thống thanh luật của thơ Đƣờng trong câu: "Nhất tam, ngũ
bất luận; nhị, tứ, lục phân minh". Nghĩa là các chữ một, ba, năm trong câu thơ đƣợc linh
động; cịn các chữ hai, bốn, sáu thì phải đúng luật.
Trong bài "Đăng cao", Đỗ Phủ lấy thanh trắc để khởi cách. Các thanh bằng (B), trắc
(T) ở mỗi sâu chuỗi ngang đều đặt đúng vị trí ở các chữ 2, 4 và 6, khi thì T - B - T, khi thì B T - B . . ., tạo nên những đòn cân thanh điệu cân xứng.
Giữa các câu tiếp giáp hai liên có các cặp thanh B, T trên dƣới, tạo thành "niêm", kết
dính các liên thơ theo một luật. Câu 2, niêm với câu 3; câu 4 niêm với câu 5; câu 6 niêm với

câu 7. và câu 8 niêm với câu 1 thành vòng tròn khép kín hệ thống thanh diệu hai chiều ngang
dọc. Đỗ Phủ khéo sắp xếp hai thanh B "thiên cao" ổ câu 1 và hai thanh B "tân đình" ở câu 8,
hoặc hai thanh B "Trƣờng Giang" ở câu 4 và hai thanh B "bi thu" ở câu 5 thành những tuyệt
liên. Nhờ vậy mà hệ thống thanh âm cả bài thơ bám vào câu 1; bám vào khoảng giữa bài thơ
thật chặt chẽ.
Trong "Đăng cao", nhịp thơ chẵn trƣớc lẻ sau, ngắt 2/2/3, nhìn tổng thể là 4/3. Đọc cả
bài thơ lên, nhịp đó tạo thành lóp sóng trầm bổng nối tiếp, rất uyển chuyển. Vần gieo ở tiếng
cuối các câu 1;2;4;6 và 8, là những vần bằng (ai, hồi, lai, đài, bơi) hợp với nội dung trữ tình
của bài thơ.
Toàn bộ hệ thống thanh, nhịp và vần ở đây đã tạo nên âm hƣởng bài thơ hài hịa, hơ
ứng, giàu tính nhạc, mang giọng điệu rất đặc trƣng của thơ Đƣờng.
Nhờ có trong tay bản sơ đồ niêm, luật, vần của thơ Đƣờng, anh chị em học viên hiểu
và cảm nhận đƣợc âm hƣởng của bài thơ. Nâng cao lên một bƣớc, giáo viên dẫn dắt học viên
hiểu đƣợc những giá trị gợi cảm trong bản hòa tấu của

16


những yếu tố nghệ thuật đó.
Ở bốn câu thơ đầu trong bài "Hồng Hạc lâu" của Thơi Hiệu, luật B, T bị phá cách.
Đòn cân thanh điệu ở câu đầu lẽ ra là T - B - T nhƣng lại là B - B - T và không gieo vần ở
chữ cuối câu. Đây là lối khởi đầu mạch ý tự nhiên. Sau này, vần B gieo ở tiếng cuối câu chẵn
đầy đủ, do đó, phá cách nhƣng khơng lạc vận. Câu thơ thứ hai đến năm thanh B phù bình,
làm cho âm hƣởng thơ từ thanh thốt nhẹ nhàng bổng trở nên trầm hùng, để rồi lại lắng dịu
nhƣ ban đầu. Âm hƣởng ấy là tình điệu diễn tả nỗi niềm bâng khuâng, buồn bực trƣớc sự mất
còn trên cõi đời đang choán hết tâm hồn nhà thơ.
Trên cái nền thanh luật, niêm, vần bài thơ là nhạc điệu, tình điệu, hồn thơ. Đó là
những khía cạnh tinh tế. Chỉ có dày cơng trên con đƣờng cheo leo của thi pháp thơ. Đƣờng
mới có thể năm bắt đƣợc qui luật của những yếu tố nghệ thuật đó.
4. Phép đối trong thơ Đƣờng:

Phép đối là linh hồn thi pháp của thơ Đƣờng, là mục tiêu khai thác trong giảng dạy
thơ Đƣờng. Về hình thức có đối thanh, đối từ loại và đối ý trong liên. Nội bộ câu cịn có phép
tự đối. Về nội dung có chính đối và nghịch đối. Trong bài bát cú, dù ngũ ngôn hay thất ngôn
hai liên giữa đều phải thực hiện phép đối.
Một bài luật thi, có hai liên thực đối và luận đối đƣợc xem là chỉnh thể, "Đăng cao"
của Đỗ Phủ là mộc ngoại lệ điển hình. Ơng thực hiện phép đối ở cả 4 liên. Nhìn vào sơ đồ
luật B, T, học viên có thể nhận ra phép đối thanh. Từng cặp chữ sóng đơi trên dƣới, B đối T,
T đối B xen kẽ theo luật. Ví dụ, ở liên đề, tác giả dùng "trắc khởi cách" (*) để mở:
Phong

Chử

(*)

cấp

thanh

thiên

sa

cao

bạch

“Cấp” chữ thứ hai ở câu đầu là T khởi cách

17


viên

khiếu

điểu

phi

ai

hồi


.
Ở đây có 5/7 cặp đổi thanh, trừ cặp 3 rơi vào "nhất, tam, ngũ bất luận" và cặp 7 làm
vần.
Đối từ loại có nghĩa là danh từ đối danh từ, động từ đối động từ, tính từ đối tính từ,
thực từ đối thực từ và hƣ từ đối hƣ từ... Ở luận đối của bài "Đăng cao" có các cặp từ đối sau:
Vạn lý / bi thu / thường tác khách
Bách niên / đa bệnh / độc đăng đài
Vạn lý - Bách niên là danh từ đối danh từ. Bi thu - đa bệnh là tính từ đối tính từ.
Thƣờng tác khách - độc đăng đài là cụm động từ đối cụm động từ.
Các vế đối từ loại có thể chia nhỏ hơn nhƣng xét thấy không cần thiết, để ở mức độ
hiện tại nó sẽ cùng khn với hình thức dối ý. Đọc lên, ta thấy cặp luận có hình thức chính
đối, ý tƣơng hỗ, phối hợp lẫn nhau mở rộng trƣờng liên tƣởng. Ngƣời đọc nhận ra, chỉ bằng
hai câu thất ngôn, Đỗ Phủ đã diễn tả tám tầng ý thƣơng đau (**) đè nặng cuộc đời tàn tạ của
nhà thơ. Mặt khác phép đối thanh, đối từ, góp phần cùng với nhịp điệu, tạo âm hƣởng trầm
hùng, diễn tả nỗi lòng trầm uất bi thƣơng của ông.
Khai thác đến mức đó cũng khẳng định tài hoa của Đỗ Phủ. Các phép đối ở đây đạt
đến mức cơng chỉnh, vừa khéo vừa khơng trùng lặp, ý tình lại sâu xa.

Trong "Hồng Hạc lâu" Thơi Hiệu đã dùng từ láy "lịch lịch" đối "thê thê" (mồn một Mơn mởn), Sử dụng từ láy tiếng Hán trong thơ Đƣờng là trƣờng hợp hiếm thấy. Thôi Hiệu đã
đạt đƣợc cả ba phƣơng diện đối ngẫu. Lịch lịch - thê thê là đối thanh, T với B, đối từ láy với
từ láy. Về ý, mức độ hiện rõ mồn một đối

(**)

Tám tầng ý thƣơng đau :
- Xa quê nhà "vạn lý"
- Sống giũa mùa thu ảm đạm "bi thu"
- Phải ăn nhờ ở đậu "tác khách"
- Cảnh sống nhờ ấy lại thƣờng xuyên diễn ra "thƣờng tác khách"
- Tấm thân nhiều bệnh "đa bệnh"
- Sống lẻ loi một mình "độc"
- Đã đau yếu lại lên đài cao một mình "độc đăng dài"

18


với mức độ xanh tƣơi mơn mởn. Đây là hình thức chính đối, nghĩa tƣơng hỗ làm nổi bật
đƣờng nét, màu sắc trong bức tranh thiên nhiên hoành tráng.
Ở các tiết học về thơ Đƣờng, học viên thƣờng có khả năng phát hiện đƣợc các hình
thức đối, thấy đƣợc phép đối làm cho câu thơ óng ả, trang nghiêm. Giáo viên phải chỉ ra ảnh
hƣởng của đối còn tràn sang cả địa hạt thanh âm, tạo nghĩa, tạo sắc thái biểu cảm của câu thơ.
5. Kết cấu, bố cục bài thơ:
Ở bài "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng" Nhà thơ Lý Bạch đã
dùng thủ pháp "Khai môn kiến sơn" (mở cửa thấy núi) để đi thẳng vào sự việc đang diễn ra:
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
Cơ phàm viễn ảnh bích khơng tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Dịch thơ :
Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói, Châu Dương xi dịng
Bóng buồm đã khuất bầu khơng
Trơng theo chỉ thấy dịng sơng bên trời
(Ngơ Tất Tố - dịch)
Sự việc ở đây là cảnh chia tay kẻ ở ngƣời đi, diễn ra bên lầu Hoàng Hạc. Tác giả chỉ
tả ngƣời ra đi, khơng nói đến ngƣời ở lại, khơng dùng một từ nào để nói về nỗi lịng bịn rịn,
quyến luyến, xót xa. Một cánh buồm lẻ loi giữa trời nƣớc mênh mơng và dịng Trƣờng Giang
chảy bên trời là những hình ảnh đọng lại trong lịng thi nhân. Vậy mà nói lên tất cả nghĩa tình
sâu nặng với ngƣời ra đi. Mạch ý bài thơ thật kín đáo. Ngƣời đọc phải suy ngẫm từ những
hình ảnh cụ thể ấy mới nhận ra bức tranh tâm cảnh. Điều không nói ra nhƣng lại nói đƣợc sâu
sắc, đó chính là lối kết cấu độc đáo theo kiểu "mạch kị lộ" của thơ Đƣờng.
"Hồng Hạc lâu" của Thơi Hiệu, "Đăng Cao" của Đỗ Phủ . . . đều là những

19


điển hình của lối thơ có kết cấu độc đáo đó.
Nhƣ vậy, kết cấu là mạch ý bên trong, cịn bố cục chỉ là nội dung bên ngoài. Theo bố
cục truyền thống, những bài thơ bát cú hay tuyệt cú luật thi đều có các phần đề, thực, luận,
kết. Ngày nay, trong thực tế giảng dạy, ngoài cách chia bài thơ theo bố cục truyền thống,
ngƣời ta còn căn cứ vào ý để chia đoạn. Bài "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên" có hai ý
rõ rệt. Hai câu đầu tự sự, nói về cảnh chia tay. Hai câu cuối là tâm trạng ngƣời ở lại. "Đăng
Cao" của Đỗ Phủ dành bốn câu đầu tả cảnh, bốn câu sau chủ yếu là ngụ tình.
Khi phân tích bài thơ, tơi xem bố cục chỉ là thao tác cắt ngang nội dung, chia ra cho
dễ nhìn nhận. Kết cấu mạch ý bên trong mới là chính. Có bám vào kết cấu để phân tích thì bộ
phận mới khơng tách rời tồn thể, bài thơ mới không bị chẻ nhỏ, băm nát.
6. Cấu tứ trong thơ Đƣờng:
Một bài thơ hay phải có cấu tứ". Xƣa nay quan niệm vẫn thế. Tứ thơ vốn là một khái

niệm chƣa có định nghĩa rõ ràng. Nhƣng giảng một bài Thơ Đƣờng không thể bỏ qua cấu tứ,
vì đó là nét đẹp của thơ Đƣờng.
Tơi quan niệm, có những điểm tựa giống nhau nhƣ mỗi nhà thơ lại tìm đến một tứ thơ
riêng. Cùng chứng kiến một cánh chim giữa lƣng trời, có ngƣời hƣớng cảm xúc về tình yêu
chung thủy thì nghĩ đến tứ thơ cánh chim mn dặm tìm bạn. Ngƣời hƣớng cảm xúc về cội
nguồn, đất nƣớc thì nghĩ đến tứ thơ cánh chim tìm về tổ ấm, hoặc cánh chím khắc khoải lạc
bầy... Ngƣời tù viễn xứ trên đƣờng đi đày khi bóng chiều bng xuống lại thấy cánh chim
mỏi rã rời, tìm về chốn bình n...
Ngƣời xƣa từng nói "thi tứ ở trong gió tuyết, trên lƣng ngựa, trên cầu Bá Phong hay ở
nơi khóm trúc vắng . . ." Có nghĩa là cảm xúc thẩm mỹ tạo nên tứ thơ không có trong thƣ
phịng mà phải tìm kiếm ở ngồi cuộc sống. Đúng vậy, con ngƣời bầu rƣợu túi thơ kiêm kiếm
khách nhƣ Lý Bạch, bƣớc chân đi khắp nơi danh thắng cho nên mới tìm đến những tứ thơ hay
giữa đất trời sơng núi. Con ngƣời trơi nổi giữa dịng đời đất nƣớc loạn đầy thƣơng đau nhƣ
Đỗ Phủ thì lại

20


tìm thấy hàng trăm tứ thơ hay trong cát bụi.
Ở "Hồng Hạc lâu" Thơi Hiệu sáng tạo ra tứ thơ tuyệt vọng trong hoài niệm quá khứ
và thất vọng trƣớc thực tại để quay về với nỗi buồn kết đọng trong tim.
Ở "Đăng Cao" Đỗ Phủ mƣợn điểm tựa lên cao ngắm nhìn cảnh vật để hƣớng cảm xúc
của mình về nỗi đau nhân thế với tâm trạng trầm uất, bi thƣơng.
Vì tứ thơ là cốt lõi cảm xúc của bài thơ cho nên đƣa về phần tổng kết để nhấn mạnh
vào nhận thức của học viên.
Phần IV

HIỆU QUẢ CỦA CÁC BIỆN PHÁP ÁP DỤNG
I. KẾT QUẢ TỔNG HỢP Ở BỘ MƠN VĂN:
Năm học


Chất lƣợng bộ mơn

TB

Y

TB

KH

G

trở lên

6

61

21

/

82

6,82%

69,38%

23,86%


/

93,18%

2

47

29

3

79

2,47%

58,02%

35,80%

3,70%

97,53%

1994 - 1995
(chƣa áp
dụng
PPGD moi)
88 HV

1996 - 1997
và 1997 1998 (đã áp
dụng PPGD
mới) 81 HY

II. NHẬN XÉT:
1. Những chuyến biến tích cực:
Thời gian hai năm để đánh giá một ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất dễ dàng
cho ra những kết luận cự thể. Ở môi trƣờng giáo dục đào tạo, bất kỳ một thể nghiệm nào,
trong thời gian ngắn ngủi đó cũng chƣa đủ kết luận. Hơn

21


nữa, cho dù là kết quả ở mặt chuyên môn học thuật cũng khơng đơn thuần từ một phía đem
lại.
Từ quan điểm nhìn nhận vấn đề nhƣ vậy, chúng tơi chỉ xin ghi nhận một số chuyển
biến tích cực trong thực tế:
a/ Học viên học văn khơng cịn hiện tƣợng "cúp cua" bỏ tiết học nhƣ những năm
trƣớc. Học viên giỏi đã xuất hiện. Tỷ lệ học viên khá nâng lên và yếu giảm đi.
b/ Những tiết học thơ Đƣòng đã có khơng khí văn chƣơng. Học viên hào hứng học
tập. Nhiều ý kiến mạnh dạn phát hiện từ, giải thích từ, so sánh giữa nguyên tác và bản dịch.
Những vốn liếng ban đầu trang bị để học thơ Đƣờng có tác dụng thiết thực, tạo cơ sở cho học
viên tiếp xúc với thơ Đƣờng.
c/ Trang bị cho học viên một chút vốn liếng để học thơ Đƣờng, đối chiếu chặt chẽ
giữa bài thơ dịch với nguyên tác để phát hiện đầy đủ những giá trị nội dung, nghệ thuật bài
thơ và tập trung khai thác những nét nghệ thuật độc đáo của thơ Đƣờng, giảng dạy theo đặc
trƣng loại thể là những việc làm tôi tự thể nghiệm và lấy làm tâm đắc.
2. Những kết luận rút ra từ kinh nghiệm:
a/ Phƣơng pháp giảng dạy thơ Đƣờng theo đặc trƣng loại thể nảy sinh do nhu cầu áp

dụng với đối tƣợng học viên ngƣời lớn vừa học vừa công tác và lao động sản xuất. Thực tế,
từ năm 1997 trở lại đây, số học viên ổ độ tuổi từ 18 đến 25 tăng nhanh thì chất lƣợng cũng
đƣợc nâng lên (4,35%). Điều đó cho phép tin rằng phƣơng pháp giảng dạy thơ Đƣờng theo
đặc trƣng loại thể chẳng những thích hợp với đối tƣợng học viên ngƣời lớn mà càng phù hợp
với học viên mới bƣớc vào độ tuổi thanh niên.
b/ Học viên trẻ là những thanh niên còn nhẹ gánh gia đình, thời gian học tập ít bị
những khó khăn vƣớng bận của đời thƣờng lấn chiếm, cho nên có điều kiện học tốt hơn. Do
đó phƣơng pháp giảng dạy thơ Đƣờng theo đặc trƣng loại thể có thể triển khai rộng rãi với
học sinh phổ thông trung học. Môi trƣờng giáo dục ở trƣờng phỏ thông tốt, có nền nếp dạy và
học chặt chẽ sẽ là điều kiện áp dụng phƣơng pháp giảng dạy thơ Đƣờng theo đặc trƣng loại
thể có hiệu quả cao hơn.
c/ Phƣơng pháp giảng dạy thơ Đƣờng theo đặc trƣng loại thể là vận dụng sáng tạo từ
luận điểm "Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể" của

22


nhóm tác giả do giáo sƣ Trần Thanh Đạm chủ biên đã tổng kết. Vì vậy, nên nhìn nhận chuyên
đề này là thực tế giảng dạy ở một loại hình tác phẩm văn chƣơng minh họa cho luận điểm
khoa học nêu trên.
d/ Từ cách nhìn nhận góc độ vấn đề nhƣ trên, phƣơng pháp giảng dạy thơ Đƣờng
thuộc loại phƣơng pháp chung có thể áp dụng cho các hình thức thơ sáng tác theo thi pháp
thơ Đƣờng, bao gồm cả Hán, Nôm.

Phần V
VÀI LỜI THAY KẾT LUẬN
Nhƣ phần lý do chọn đề tài đã nói : "Đây chỉ là cơng việc phải làm và đã làm của
ngƣời giáo viên giảng dạy văn chƣơng" để đáp ứng yêu cầu chất lƣợng giáo dục đào tạo trong
nhà trƣờng chúng ta.
Từ những biểu hiện tích cực trong thực tế giảng dạy, chúng tơi ghi nhận, xem đây là

những vấn đề thuộc về phƣơng pháp giảng dạy thơ Đƣờng. Việc tạo tâm thể và trang bị cho
học viên một chút "vốn liếng" để học thơ Đƣờng là cần thiết. Mƣa lâu thấm đất, vì nó có tác
dụng thiết thực. Việc đối chiếu chặt chẽ bài thơ dịch với nguyên tác để phát hiện đầy đủ
những giá trị nội dung và nghệ thuật là phƣơng pháp vừa đƣợc xem là vấn đề có tính ngun
tắc. Bởi vì phƣơng pháp đã thể hiện đạt hiệu quả có tính khẳng định, nên bất kỷ bài thơ dịch
nào cũng khơng thể thốt ly ngun tác. Phƣơng pháp giảng dạy thơ Đƣờng theo đặc trƣng
loại thể chủ yếu tập trung hƣớng vào khai thác những nét độc đáo của ngơn từ thơ Đƣịng,
khai thác các yếu tố niêm, luật, vần, điệu và phép đối, cách giảng bình những tín hiệu nghệ
thuật ở "thi nhãn" (nhãn tự), kết cấu và tứ thơ. Những yếu tố không gian, thời gian nghệ thuật
trong tác phẩm cịn q mới, chúng tơi chƣa có dịp giới thiệu ở đây.
Tóm lại, phƣơng pháp giảng dạy thơ Đƣờng theo đặc trƣng loại thể là vận dụng phát
triển từ luận điểm "Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại

23


×