Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Khảo sát tình hình sử dụng thuốc trị rối loạn tâm thần tại khoa lão - tâm thần Bệnh viện Nguyễn Tri Phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.49 KB, 7 trang )

Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014

KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC TRỊ RỐI LOẠN TÂM THẦN
TẠI KHOA LÃO – TÂM THẦN BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG
Nguyễn Hữu Đức*, Võ Nguyên Khôi*, Nguyễn Thị Cẩm Tú**

TÓM TẮT
Mở đầu: Theo Tổ chức Y Tế Thế Giới, rối loạn tâm thần (RLTT) chiếm 31% trong tổng thiệt hại do các bệnh
thường gặp. Sử dụng thuốc an toàn hợp lý đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà điều trị tại bệnh viện
Nguyễn tri Phương (BVNTP). Khoa Lão– Tâm Thần của bệnh viện hiện chưa xây dựng phác đồ chuẩn để điều
trị RLTT. Vấn đề sử dụng thuốc tại đây rất cần khảo sát và đóng góp từ giới chuyên môn, trong đó có dược sĩ lâm
sàng, nhằm đạt hiệu quả và an toàn.
Mục tiêu: Khảo sát tình hình sử dụng các nhóm thuốc trị RLTT ở bệnh nhân nội trú, đưa ra nhận xét, đề
xuất ý kiến để việc sử dụng thuốc được hợp lý, an toàn.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện theo phương pháp hồi cứu. Đã khảo sát 382 hồ sơ
bệnh án của Khoa Lão– Tâm Thần có chỉ định thuốc RLTT, từ 1/1/2009 – 30/6/2012.
Kết quả: - Điều trị RLTT có 4 nhóm thuốc chính, ngoài ra có thêm các thuốc trị triệu chứng và thuốc bổ. Sử
dụng nhiều nhất là nhóm chống loạn thần (42,89%), tiếp theo là nhóm chống trầm cảm (29,62%), chống lo âu
(20,17%) và ổn định khí sắc (7,32%). - Phối hợp thuốc phổ biến là phối hợp luôn có Olanzapin (nhóm chống loạn
thần không điển hình). - Tỷ lệ bệnh nhân giảm hoặc bớt bệnh chiếm 90,3%. Tác dụng phụ có xảy ra nhưng được
kiểm soát tốt, đặc biệt xảy ra ở nhóm thuốc chống loạn thần điển hình.
Kết luận: Khoa chưa có phác đồ riêng trị RLTT nhưng việc sử dụng thuốc có tuân thủ phác đồ và khuyến
cáo của nước ngoài. Nhìn chung, việc sử dụng thuốc điều trị RLTT ở Khoa Lão – Tâm Thần, bệnh viện NTP qua
khảo sát là tương đối an toàn, hợp lý và hiệu quả.
Từ khóa: Thuốc trị rối loạn tâm thần, thuốc chống loạn thần, thuốc chống trầm cảm, thuốc chống lo âu,
thuốc ổn định khí sắc.

ABSTRACT
INVESTIGATION OF DRUG USE FOR TREATING MENTAL DISORDERS


IN GERIATRIC-PSYCHIATRIC DEPARTMENT OF NGUYEN TRI PHUONG HOSPITAL
Nguyen Huu Duc, Vo Nguyen Khoi, Nguyen Thi Cam Tu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 310 - 316
Background: According to the World Health Organization, mental disorders accounts for 31% of the
total damage caused by common diseases. Rational use of drugs has been major concern of hospital staff of
Nguyen tri Phuong (NTP). Geriatric-Psychiatric department of the hospital has not set up guidelines for treating
mental disorders. It is necessary to review the drug use in the department and collect comments from health
professionals, especially that from clinical pharmacists to optimise the policy of drug use.
Objectives: To review case records of mental disorders drug use on patients in the Geriatric-Psychiatric
Department, NTP hospital from January 1 2009 to June 30 2012 to see appropriateness of medication use.
Methods: A retroprospective method was applied to review 382 prescriptions utilising to treat mental


Khoa Dược, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
** Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Hữu Đức
ĐT: 0918276256
Email:

310

Chuyên Đề Dược Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014

Nghiên cứu Y học

disorders to see appropriateness of medication use. Interviews of medical and pharmacy staff in the
department were conducted regarding prescription and dispensing the drugs.

Results: - Drugs used for treating mental disorder includes 4 groups. Mostly used drugs were
antipsychotics (42.89%), followed by antidepressants (29.62%), anxiolytics (20.17%) and mood stabilizers
(7.32%).- The combination therapy almost included olanzapin, an atypical antipsychotic. - The percentage
of patients who reduced symptoms or removed disease accounted for 90.3%., ADR occurred but well
controlled, especially when using typical antipsychotics.
Conclusion: In general, through investigation the use of mental disorders drugs in the Geriatric –
Psychiatric Department of NTP hospital is relatively reasonable, safe, economic and effective.
Keywords: Mental disorder drug use, antipsychotics, antidepressants, anxiolytics, mood stabilizers.
RLTT, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài này.
MỞ ĐẦU
Rối loạn tâm thần (RLTT) là một bệnh
chiếm tỉ lệ cao ở các nước phát triển. Theo báo
cáo của Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO), ước
tính trên toàn thế giới tỷ lệ các RLTT chiếm
12% dân số. Cũng theo WHO, trong tổng thiệt
hại do các bệnh thường gặp RLTT chiếm 31%,
xếp hàng thứ năm trong 10 nguyên nhân gây
gánh nặng bệnh tật toàn cầu (1).. Ở Mỹ, điều
tra cho thấy 46% dân số thường có đủ tiêu
chuẩn cho việc chẩn đoán bị một RLTT tại một
thời điểm nào đó. Một điều tra vào năm 2004
tại 16 quốc gia châu Âu cho thấy khoảng 27%
người lớn bị ảnh hưởng bởi RLTT ít nhất một
lần trong khoảng thời gian 12 tháng(1). Ở Việt
Nam, theo kết quả điều tra dịch tễ học của
ngành Tâm thần vào năm 2000, tỷ lệ bị RLTT
chiếm khoảng từ 10 - 15% dân số(2). Hiện nay
có 4 nhóm thuốc chủ yếu được sử dụng để
điều trị RLTT(3). Tuy nhiên, yêu cầu dùng
thuốc đúng thường gây không ít lúng túng

cho bác sĩ điều trị trong lựa chọn và phối hợp
thuốc, rất dễ dẫn đến sử dụng thuốc sai. Bệnh
viện Nguyễn Tri Phương (BVNTP) là bệnh
viện đa khoa hạng I, bệnh viện duy nhất trong
thành phố Hồ Chí Minh có Khoa Lão kết hợp
với Tâm Thần, cho nên có điều trị các bệnh
nhân RLTT kể cả người không phải là người
già. Cho tới nay, bệnh viện vẫn chưa có đề tài
khảo sát tính hiệu quả và an toàn trong sử
dụng thuốc trị RLTT.
Với mong muốn góp phần tăng tính hiệu
quả, an toàn hợp lý trong sử dụng thuốc điều trị

Chuyên Đề Dược Học

Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát thực trạng sử dụng thuốc trị RLTT
tại Khoa Lão – Tâm Thần BVNTP nhằm đánh
giá, đóng góp ý kiến giúp cho việc sử dụng
thuốc an toàn, hợp lý tại bệnh viện.

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
Các hồ sơ bệnh án của Khoa Lão – Tâm
Thần có chỉ định thuốc RLTT cho đối tượng từ
45 tuổi trở lên, được lưu trữ tại phòng kế hoạch
tổng hợp, BVNTP từ ngày 1/1/2009 đến ngày
30/6/2012.
Trong đề tài, chúng tôi đã khảo sát 382 mẫu
hồ sơ bệnh án (áp dụng công thức chọn mẫu

theo(3)) có chỉ định thuốc RLTT đáp ứng cho việc
nghiên cứu.

Phương pháp hồi cứu
Tiến hành hồi cứu các hồ sơ bệnh án có sử
dụng thuốc RLTT trong điều trị tại Khoa Lão –
Tâm Thần.
Lập phiếu thu thập thông tin để ghi chép lại
hồ sơ bệnh án. Những chỉ tiêu khảo sát gồm: Đặc
điểm mẫu nghiên cứu (giới tính, tuổi tác, bệnh lý
kèm theo), việc sử dụng thuốc điều trị RLTT tại
Khoa Lão – Tâm Thần (các nhóm thuốc chiếm
ưu thế, các phối hợp thuốc, chỉ định khởi đầu,
tương tác thuốc, theo dõi ADR) và hiệu quả điều
trị. Những tiêu chí đánh giá gồm: Loại thuốc sử
dụng có phù hợp (Chỉ định trong trường hợp
nào, có đúng theo phác đồ điều trị, có theo dõi

311


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014

Nghiên cứu Y học

hiệu quả điều trị); Đường sử dụng, liều dùng,
thời gian sử dụng có đúng không; Phối hợp
thuốc có hợp lý không; Có xảy ra ADR. Từ kết
quả khảo sát đề xuất các biện pháp nhằm cải
thiện những thiếu sót nếu có.


Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn các bác sĩ điều trị để biết rõ vì sao
có thực trạng sử dụng thuốc như khảo sát.

KẾT QUẢ

Bảng 2: Phân bố nhóm tuổi của mẫu nghiên cứu
(N=382)

Đặc điểm bệnh nhân
Giới tính
Qua khảo sát 382 bệnh án, chúng tôi ghi
nhận tỷ lệ nữ mắc bệnh (70,7%) hơn 2,3 lần nam
(29,3%) (Bảng 1).
Bảng 1: Phân bố giới tính của mẫu nghiên cứu
(N=382)
Giới tính
Số lượng
Tỷ lệ

Nữ
270
70,7%

Khoa Lão tiếp nhận BN có độ tuổi từ 60 trở
lên và do kết hợp với khoa Tâm Thần nên
nhận mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, số BN dưới 45
tuổi mắc bệnh RLTT chiếm tỷ lệ rất thấp,
chúng tôi đã chọn lứa tuổi thấp nhất trong

nghiên cứu là 45, và ghi nhận tuổi cao nhất là
94 tuổi, trung bình: 57 ± 2 tuổi. Nhóm tuổi có
tỷ lệ BN đông nhất là nhóm (45-55), nhóm tuổi
ít nhất là nhóm (>85) (Bảng 2).

Nam
112
29,3%

Tổng
382
100%

Tuổi

Tuổi
Số lượng
Tỷ lệ

45-55
155
40,60%

55-65
65-75
75-85
>85
101
58
56

12
26,4% 15,20% 14,70% 3.10%

Tỷ lệ các bệnh kèm theo ngoài RLTT:
Đối tượng nghiên cứu là những BN ở tuổi
trung niên và già nên đa số BN mắc nhiều
bệnh, chiếm tỷ lệ cao nhất là cao huyết áp
(27,8%), tiếp theo là rối loạn lipid huyết
(18,13%), bệnh dạ dày (7,99%), tiểu đường
(5,94%)… (Hình 1).

30.00%
25.00%
20.00%
15.00%
10.00%

Bệnh

5.00%
0.00%
Cao Rối loạn Bệnh lý Tiểu
Thiếu Bệnh lý Bệnh lý Bệnh lý
huyết áp lipid dạ dày đường máu cơ xương gan thận về phổi
huyết
tim cục khớp
bộ

Bệnh
khác


Hình 1: Tỷ lệ các bệnh lý kèm theo ngoài RLTT

Tỉ lệ các loại bệnh trong RLTT (5)
Bảng 3: Tỉ lệ các loại bệnh trong RLTT
Bệnh
F00 Sa sút tâm thần trong bệnh Alzheimer
F01 Sa sút tâm thần trong bệnh mạch máu
F02 Sa sút tâm thần trong các bệnh lý khác
F03 Sa sút tâm thần không xác định

312

Số lượng
10
7
1
9

Phần trăm
2,60%
1,80%
0,30%
2,40%

Chuyên Đề Dược Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Bệnh

F06 Rối loạn tâm thần khác do tổn thương, RL chức năng não và do bệnh cơ thể
F10 Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu
F13 Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng thuốc
F20 Tâm thần phân liệt
F21 Rối loạn kiểu phân liệt
F22 Rối loạn hoang tưởng
F23 Rối loạn loạn thần cấp tính và thoáng qua
F31 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực
F32 Giai đoạn trầm cảm
F41 Rối lạn lo âu khác
F42 Rối loạn ám ảnh-cưỡng chế
F43 Phản ứng với stres trầm trọng và rối loạn thích ứng
F45 Rối loạn dạng cơ thể
F51 Rối loạn giấc ngủ không do nguyên nhân thực thể.
Tổng số

Nghiên cứu Y học
Số lượng
11
21
5
22
1
4
22
11
33
93
1
2

99
30
382

Phần trăm
2,90%
5,50%
1,30%
5,80%
0,30%
1,00%
5,80%
2,90%
8,60%
24.30%
0,30%
0,50%
25,90%
7,90%
100,00%

Theo ICD-10 (6), bệnh RLTT chiếm tỉ lệ cao
nhất là rối loạn dạng cơ thể (25,9%). Tiếp theo là
các bệnh: rối loạn lo âu khác (24,3%), giai đoạn
trầm cảm (8,6%). Ở đây ta thấy bệnh sa sút tâm
thần chiếm tỉ lệ thấp nhưng nếu xét trong nhóm
đối tượng người già nó lại chiếm tỷ lệ cao.

thần phân liệt (TTPL), loạn thần cấp ngoài ra
được chỉ định phối hợp với thuốc trầm cảm để

trị rối loạn lo âu, rối loạn dạng cơ thể, trầm cảm
hoăc bệnh lý thực thể có loạn thần. Nhóm ổn
định sắc khí được chỉ định chủ yếu trong rối
loạn cảm xúc lưỡng cực (Bảng 4).

Tình hình sử dụng thuốc

Bảng 4: Tỷ lệ các nhóm thuốc RLTT được chỉ định

Tỷ lệ sử dụng các nhóm thuốc RLTT
Có 4 nhóm thuốc được dùng chủ yếu. Nhóm
thuốc được sử dụng nhiều nhất là thuốc chống
loạn thần (CLT) (42,89%) , thấp nhất là nhóm ổn
định khí sắc (7,32%). Nhóm CLT dùng cho đa số
các bệnh lý tâm thần, trước tiên là bệnh tâm

Nhóm thuốc

Số lượt dùng

Tỷ lệ

Chống loạn thần

404

42,89%

Chống trầm cảm


279

29,62%

Chống lo âu

190

20,17%

Ổn định khí sắc

69

7,32%

Tổng cộng

942

100,00%

Tỷ lệ sử dụng các thuốc RLTT

Hình 2: Tỷ lệ các thuốc trị RLTT được sử dụng nhiều

Chuyên Đề Dược Học

313



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014

Nghiên cứu Y học

Thuốc dùng nhiều nhất là thuốc Olanzapin
(17,16%), tiếp đó là Diazepam (10,52%),
Propranolol
(8,65%),
Fluoxetin
(6,09%)...
Diazepam dùng để giảm nhanh các triệu chứng
cấp tính như cơn hoảng loạn, loạn thần cấp, sảng

do rượu… và dùng trong những ngày đầu khi
BN mất ngủ. Propranolol dùng để làm giảm các
triệu chứng bứt rứt, bồn chồn, đứng ngồi không
yên (akathisia) thường do thuốc RLTT gây ra.

Tỷ lệ sử dụng các thuốc thuộc thế hệ khác nhau trong cùng nhóm
Bảng 5: Tỷ lệ sử dụng các thuốc thế hệ khác nhau trong cùng nhóm
Nhóm thuốc
Thế hệ 2 (không điển hình)
Thế hệ 1 (điển hình)
SSRI
Các nhóm khác

Chống loạn thần
Trầm cảm


Trong nhóm thuốc CLT, thuốc thế hệ 2 tức
thuốc không điển hình chiếm tỉ lệ cao (76,5%)
gấp hơn 3 lần thuốc thế hệ 1 (23,5%). Thế hệ 1
chủ yếu dùng trong tâm thần phần liệt dạng
nặng không đáp ứng với thuốc thế hệ 2 và trong
trường hợp cấp phải dùng dạng tiêm.

Số lượt dùng
309
95
207
72

Tỷ lệ
76,5%
23,5%
74,2%
25,8%

dùng SSRI (Serotonine selective reuptake
inhibitors) chiếm đa số (74,2%) hơn 3 lần so với
tổng các thuốc thuộc các nhóm khác (25,8%).
Tuy nhiên các thuốc không phải SSRI dùng hiệu
quả trong trường hợp bệnh nặng, thời gian tác
động nhanh và giá thành thường rẻ hơn.

Trong nhóm thuốc chống trầm cảm, tỷ lệ

Tỷ lệ phối hợp thuốc trị RLTT
35.00%

30.00%
25.00%
20.00%
tổng s ố thuốc

15.00%
10.00%
5.00%
0.00%

1 thuốc 2 thuốc 3 thuốc 4 thuốc 5 thuốc 6 thuốc 7 thuốc

Hình 3: Phối hợp thuốc được kê toa trong điều trị RLTT.
Haloperidol dạng tiêm.
Tỷ lệ phối hợp thuốc trị RLTT chiếm tỉ lệ cao
lần lượt là phối hợp 4 thuốc (33,2%), phối hợp 3
thuốc (29,3%).
Tỷ lệ thấp là dùng 1 thuốc (2,6%) và phối
hợp 7 thuốc (1%).
Về cơ bản, BN được điều trị khởi đầu bằng
phối hợp hai thuốc, ít khi dùng một thuốc. Nếu
cần, dùng thêm một thuốc trị triệu chứng bệnh,
hoặc BN có các triệu chứng cấp tính thì dùng
thêm các thuốc tác động nhanh như Diazepam,

314

Tỷ lệ dùng đường cho thuốc trị RLTT
Bảng 6: Tỷ lệ dùng đường cho thuốc RLTT.
Đường dùng

Đường uống (PO)
Đường tiêm
Tổng số

Số lượt dùng
1405
43
1448

Tỷ lệ
97,03%
2,97%
100,00%

Đa số các thuốc trị RLTT đều dùng dạng
uống (97,03%), dạng tiêm dùng ít (2,97%).

Chuyên Đề Dược Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Dạng thuốc tiêm được dùng khi cần tác
dụng nhanh để trị triệu chứng cấp tính (BZD,
một số thuốc CLT thế hệ 1). Hai thuốc dùng
dạng tiêm phổ biến là Diazepam và
Haloperidol để điều trị các triệu chứng như
loạn thần, mê sảng có cơn gây hấn, ngộ độc
thuốc thần kinh… Ngoài ra, vitamin B1 dạng
tiêm để dùng trị sảng rượu.


Tỷ lệ thay thuốc cùng nhóm trong quá trình
điều trị.
Việc thay thuốc thường là thay các thuốc
trong cùng một nhóm khi không đạt hiệu quả
điều trị hoặc xảy ra ADR gây khó chịu cho BN.
Như thay thuốc trong nhóm SSRI với nhau, hoặc
thay Clozapin cho Olanzapin. Từ 382 bệnh án,
chúng tôi thống kê được tỉ lệ thay thuốc cùng
nhóm như sau (Bảng 7.)
Bảng 7: Tỷ lệ thay thuốc cùng nhóm trong quá trình
điều trị
Thay thuốc
Không

Tổng số

Số lượt
336
46
382

Tỷ lệ
88%
12%
100%

Thời gian điều trị
Thời gian nằm viện ngắn nhất: 1 ngày, thời
gian nằm viện lâu nhất: 42 ngày, trung bình:
10.07± 0.63 ngày.

Đa số BN có thời gian nằm viện thường: 8-9
ngày. Khi tình trạng bệnh đã ổn định bác sĩ sẽ
cho xuất viện để điều trị duy trì tại nhà. Một số
xin về sớm, đa số họ là nam lao động chính trong
gia đình. Đối với các BN quá cao tuổi (>80) và
mắc nhiều bệnh thường gia đình xin về nhà tiện
chăm sóc.

Tỷ lệ chẩn đoán nhầm bệnh
Việc chẩn đoán RLTT có khác so với việc
chẩn đoán các bệnh khác, mang tính định tính
do chỉ dựa vào thang đánh giá bệnh như dựa
vào bảng phân loại và chẩn đoán bệnh tâm thần
của Hiệp hội tâm thần Mỹ (DSM-IV). Do đó việc
chẩn đoán nhầm thường xảy ra ở giới hạn cho
phép. Trong khảo sát của chúng tôi, tỷ lệ chẩn
đoán nhầm là 12,3% (Bảng 8).

Chuyên Đề Dược Học

Nghiên cứu Y học

Bảng 8: Tỷ lệ chẩn đoán nhầm bệnh
Chẩn đoán
Giử nguyên
Thay đổi
Tổng cộng

Số lượng
335

47
382

Tỷ lệ
87,7%
12,3%
100,0%

Tỷ lệ chẩn đoán nhầm cao nhất là bệnh rối
loạn cảm xúc lưỡng cực (36.36%), kế tiếp lần lượt
là các bệnh rối loạn dạng cơ thể (17.17%), rối
loạn lo âu (13.98%).

Kết quả điều trị
Tỷ lệ giảm hoặc bớt bệnh chiếm tỷ lệ cao:
90.3%, tỷ lệ bệnh không thay đổi hoặc nặng
thêm: 9,7%.
Bảng 9: Kết quả điều trị
Kết quả điều trị
Giảm hoặc bớt bệnh
Không thay đổi hoặc nặng thêm

Số lượng
345
37

Tỷ lệ
90,3%
9,70%


Tổng số

382

100,0%

ADR
Qua khảo sát và tham khảo ý kiến của bác sĩ,
chúng tôi ghi nhận có các ADR hay gặp: Rối loạn
giấc ngủ; Táo bón hoặc tiêu chảy, khô miệng, hồi
hộp; Nghẹt mũi; Tiết sữa; Triệu chứng ngoại
tháp; Hạ huyết áp tư thế (chóng mặt, say sẩm).
Đây là các ADR đã được báo cáo ở các nhóm
thuốc hướng thần hay xảy ra, cho nên các các bác
sĩ chỉ tư vấn và cho hướng xử trí chứ không báo
cáo ADR.

KẾT LUẬN
Qua khảo sát, chúng tôi đã ghi nhận các đặc
điểm của mẫu nghiên cứu như giới tính, tuổi, các
bệnh lý kèm theo, các loại RLTT… Chúng tôi ghi
nhận chủ yếu có 4 nhóm thuốc trị RLTT được sử
dụng và nhận thấy thuốc thuộc thế hệ mới hơn
(CLT không điển hình, chống trầm cảm SSRI…)
được dùng nhiều hơn. Tùy điều kiện và tình
trạng bệnh, phối hợi thuốc, thay thế thuốc và
dạng thuốc uống hoặc tiêm được dùng phù hợp.
Khoa chưa có phác đồ riêng trị RLTT nhưng việc
sử dụng thuốc có tuân thủ phác đồ và khuyến
cáo của nước ngoài. Khi thấy các triệu chứng đã

giảm, bác sĩ thường cho xuất viện để điều trị duy
trì và tỉ lệ đỡ, khỏi bệnh chiếm tỷ lệ cao (90,3%).

315


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014

Nhìn chung, việc sử dụng thuốc trị RLTT tại
khoa Khoa Lão – Tâm Thần BVNTP là tương
đối hợp lý, an toàn và hiệu quả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.

316

Alonso J. (2004), "Prevalence of mental disorders in Europe:
results from the European Study of the Epidemiology of
Mental Disorders project". Acta Psychiatr Scand Suppl, 109
(420):7-21.
Bùi Đức Trình (2008), Bài giảng tâm thần học, NXB Y học, Thái
Nguyên, 220.
Đặng văn Giáp, Đỗ Quang Dương (2010), Tài liệu phân tích
thống kê và quản lý dữ liệu, Bộ môn Công nghệ Thông tin Dược,

Khoa Dược, Đại học Y Dược TPHCM

4.
5.
6.

Đào Trần Thái (2005), Tâm thần học, NXB Y Học, Hồ Chí
Minh, 1-250.
Lê Ngọc Trọng (2001), Bảng phân loại quốc tế bệnh tật Việt-Anh,
NXB Y Học, 183-277.
WHO World Mental Health Survey Consortium (2004),
“Prevalence, severity, and unmet need for treatment of mental
disorders in the World Health Organization World Mental
Health Surveys”. JAMA, 291(21):2581-2590.

Ngày nhận bài báo:

14.12.2012

Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17.1.2012
Ngày bài báo được đăng: 10.03.2014

Chuyên Đề Dược Học



×