Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khảo sát lão thính ở người trên 50 tuổi có nghe kém

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.23 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nghiên cứu Y học

KHẢO SÁT LÃO THÍNH Ở NGƯỜI TRÊN 50 TUỔI CÓ NGHE KÉM
Keo Vanna*, Trần thị Bích Liên*

TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tình trạng suy giảm thính lực ở người trên 50 tuổi có nghe kém qua thính
lực đồ và nhĩ lượng đồ tại TPHCM.
Thiết kế: nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang.
Phương pháp và đối tượng: các bệnh nhân có tuổi từ 50 trở lên khám TMH vì than phiền nghe kém tại
phòng khám TMH, BV Thống Nhất trong khoảng thời gian tháng 12/2010 đến tháng 7.2011. Bệnh nhân được đo
thính lực, nhĩ lượng, phản xạ cơ bàn đạp.
Kết quả: Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ nam: nữ = 2,7 : 1. Tỉ lệ nam giới cao hơn nhiều so với tỉ lệ
nữ giới. Đối với tai phải, những người dưới 70 tuổi thì chủ yếu là nghe kém tiếp nhận ở độ 1 và độ 2; những
người >70 tuổi chủ yếu là nghe kém độ 2 và độ 3. Đối với tai trái thì ≤60 tuổi là nghe kém tiếp nhận độ 1 (chiếm
53,2%), từ 61 – 70 tuổi chủ yếu nghe kém tiếp nhận độ 1 (36%) và độ 2 (34%). Trên 70 tuổi chủ yếu nghe kém
tiếp nhận độ 3 (38,8%). Dạng thính lực đồ đổ dốc xuống (sloping) cũng là dạng chiếm ưu thế nhất trong các
dạng thính lực: tỉ lệ chung: tai phải: 37,8% và tai trái 42,6%. Những người bị cao huyết áp có thường là nghe
kém tiếp nhận độ 3 và độ 4 cao hơn những người không bị cao huyết áp ở cả tai phải và tai trái ( p<0,001).
Kết luận: chúng tôi ghi nhận nghe kém ở nam nhiều hơn nữ, tuổi cao càng cao thì mức độ nghe kém càng
tăng, chủ yếu là nghe kém tiếp nhận, giảm sức nghe càng nặng nếu có kết hợp với bệnh lý cao huyết áp, tiểu
đường.
Từ khóa: nghe kém

ABSTRACT:
STUDY ON THE OVER-50 YEAR-OLD PEOPLE WITH HEARING LOSS
Keo Vanna, Tran thi Bich Lien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 261 - 266
Aims: Investigation of hearing impairment in people over age 50 have hearing loss through audiogram and


tympanogram in Ho Chi Minh city.
Objective: The aim of the study will find the degree, kind and frequency of patient with hearing loss,
audiogram curve.
Method: all patients aged 50 and over visit ENT for hearing complaints at the ENT clinic, THONG NHAT
hospital from 12/ 2010 to 7/ 2011. Patients have to measured audiogram, tympanogram, acoustic reflect.
Design: Prospective studies, cross-sectional descriptive.
Result: In our study the rate of male: female (2.7:1), male ratio is much higher than the rate of women. For
the right ear, those under 70 years old, mostly sensoryneural hearing loss at 1st and 2nd degree. In those patients
less than 70 years mostly sensoryneural hearing loss at the second and third degrees. For the left ear patients ≤ 60
years were sensoryneural hearing loss at 1st degree (accounting for 53.2%), from 61 to 70 years mostly
sensoryneural hearing loss at 1st degree (36%) and 2nd (34%). Over 70 years major sensoryneural hearing loss
at the 3rd (38.8%). Type of audiogram curve (sloping) is the dominant format in the form of audiogram: the
* Bộ môn Tai Mũi Họng Đại Học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: TS Trần Thị Bích Liên, ĐT: 0903620156

Tai Mũi Họng

Email:

261


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

overall incidence: right ear: 37.8% and 42.6% left ear. Those patients who have hypertension, diabetic are often
sensoryneural hearing loss the third and fourth degree higher than those without hypertension, diabetic in the
right ear and left ear (p<0.001).
Conclusion: We noted hearing loss in men than women, higher age the higher the degree of hearing loss is

increasing, mainly hearing to receive, the more severe hearing loss if the disease is associated with hypertension,
diabetic.
Key word: hearing impairement

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tuổi tác sẽ làm thay đổi cấu trúc giải phẫu,
cấu trúc mô học niêm mạc tai trong như xơ hóa
màng nhĩ, số lượng tế bào lông ngoài và lông
trong, tế bào thần kinh, tế bào nâng đỡ, chuỗi
xương con giảm cử động làm cho việc chuyển
âm giảm, ù tai, chóng mặt xảy ra, kèm với cơ địa
đề kháng kém của người cao tuổi gây nên tình
trạng nghe kém kéo dài dai dẳng(5,1,9). Một số
công trình khảo sát cho thấy rằng khi con người
già đi sẽ chịu đựng một số tình trạng bệnh lý lão
hóa; trong đó ba bệnh lý hàng đầu là cao huyết
áp và thoái hóa khớp và nghe kém tuổi già(2,1,8).
Các công trình tại Mỹ cho thấy nghe kém
thường kết hợp theo tuổi, ảnh hưởng khoảng
30% người có tuổi từ 65 hoặc già hơn; và chiếm
khoảng một nữa dân số ở lứa tuổi 75. Mục đích
của nghiên cứu này là khảo sát các tần số nghe
kém và đánh giá mức độ trầm trọng của khiếm
thính ở bệnh nhân trên 50 tuổi nhằm khuyến cáo
sự phục hồi thính lực bằng các thiết bị trợ thính.

Mục tiêu chính
Khảo sát tình trạng suy giảm thính lực ở
người trên 50 tuổi có nghe kém qua thính lực đồ
và nhĩ lượng đồ tại TPHCM.

Mục tiêu chuyên biệt
Khảo sát thính lực đồ; nhĩ lượng đồ; phản xạ
cơ bàn đạp và các bệnh lý toàn thân ảnh hưởng
đến thính lực ở người trên 50 tuổi có nghe kém.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Đây là nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang.

Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân có tuổi từ 50 trở lên khám

262

TMH vì nghe kém tại phòng khám TMH, BV
Thống Nhất từ tháng 12/2010 đến tháng 7/2011.
Khám TMH có màng nhĩ nguyên vẹn; có kết quả
thính lực đồ, nhĩ lượng đồ, phản xạ cơ bàn
đạp(4,7,3).

Các yếu tố loại trừ
Có các bệnh lý tai ngoài như: nút ráy tai, dị
tật ống tai ngoài, vành tai, có tiền sử viêm tai giữa,
thủng nhĩ.

Phuơng tiện và phương pháp nghiên cứu
Các bệnh nhân từ 50 tuổi trở lên có triệu
chứng về tai như nghe kém khám TMH tại BV
THỐNG NHẤT từ tháng 11 năm 2010 đến tháng
7 năm 2011. Bệnh nhân được khai thác bệnh sử

về những triệu chứng nghe kém, ù tai, chóng
mặt nghề nghiệp không tiếp xúc với tiếng ồn và
tiền sử về cao huyết áp, tiểu đường, đau khớp,
rối loạn lipid máu cá nhân và gia đình, khám
TMH bằng đèn Clar, nội soi tai để xác định
màng nhĩ nguyên vẹn. Bệnh nhân được đo thính
lực, nhĩ lượng, phản xạ cơ bàn đạp bằng máy
hiệu Maico (MA 52).

KẾT QUẢ VÀ NHẬN XÉT
Qua nghiên cứu chúng tôi có 143 bệnh nhân
đáp ứng tiêu chuẩn chọn mẫu

Đặc điểm chung
Giới
Bảng 1: Đặc điểm của đối tượng phân bố theo giới
tính (n=143)
Giới tính
Nam
Nữ
Tổng cộng

Tần suất
105
38
143

Tỷ lệ %
73,4
27,6

100

Nhận xét: Trong 143 đối tượng nghiên cứu
có 105 nam, chiếm tỷ lệ 73,4%.

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Tuổi
Bảng 2: Đặc điểm của đối tượng phân bố theo tuổi
(n=143)
Nhóm tuổi
50 - ≤ 60 tuổi
61 - ≤ 70 tuổi
>70 tuổi

Tần suất
26
50
67

Tỷ lệ %
18,2
35
46,8

Nhận xét: Độ tuổi trung bình của đối tượng
nghiên cứu là 69,4 ± 9,1; trong đó nhỏ tuổi nhất
là 52 tuổi và lớn tuổi nhất là 87 tuổi.

Độ tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là trên 70 tuổi
(46,8%), tiếp theo là từ 61-70 tuổi (chiếm 35%).

Đặc điểm nghe kém
Bảng 3: Đặc điểm của đối tượgn nghiên cứu về mức
độ nghe kém tiếp nhận (P)
Nghe kém tiếp nhận tai phải
Độ 1
Độ 2
Độ 3
Độ 4

Tần suất
43
45
39
16

Tỷ lệ %
30,1
31,5
27,0
11,2

Bảng 4: Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu về mức
độ nghe kém tiếp nhận (T)
Nghe kém tiếp nhận tai trái
Độ 1
Độ 2
Độ 3

Độ 4
Độ 0

Tần suất
40
44
40
18
1

Tỷ lệ %
28,0
30,7
28,0
12,6
0,7

Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho
thấy:100% đối tượng nghiên cứu đều có nghe
kém ở tai phải; trong đó 61,6% nghe kém dưới
độ 3, 27% nghe kém độ 3 và 11,2% nghe kém độ
4. Đối với tai trái thì chỉ có duy nhất 1 người
không nghe kém. Có 58,7% nghe kém dưới độ 3.
Tỷ lệ nghe kém độ 3 (28%) và độ 4 (12,6%) ở tai
trái cao hơn so với tai phải.

Mối liên quan giữa mức độ nghe kém và nhóm
tuổi
Bảng 5: Mối liên quan giữa mức độ nghe kém tiếp
nhận tai phải và nhóm tuổi

Nghe kém tiếp
nhận tai phải
Độ 1
Độ 2
Độ 3

50-≤60 tuổi 61-≤70 tuổi
n=26
n=50
14 (53,9)
20 (40,0)
5 (19,2)
15 (30,0)
3 (11,5)
11 (22,0)

Tai Mũi Họng

>70 tuổi
n=67
9 (13,4)
25 (37,3)
25 (37,3)

Nghe kém tiếp
nhận tai phải
Độ 4

Nghiên cứu Y học
50-≤60 tuổi 61-≤70 tuổi

n=26
n=50
4 (15,4)
4 (8,0)

>70 tuổi
n=67
8 (12,0)

Bảng 6: Mối liên quan giữa mức độ nghe kém tiếp
nhận tai trái và nhóm tuổi
Nghe kém tiếp
nhận tai trái
Độ 1
Độ 2
Độ 3
Độ 4
Độ 0

50-≤60 tuổi
n=26
14 (53,2)
4 (15,4)
4 (15,4)
4 (15,4)
0 (0,0)

61-≤70 tuổi
n=50
18 (36,0)

17 (34,0)
10 (20,0)
5 (10,0)
0 (0,0)

>70 tuổi
n=67
8 (12,0)
23 (34,3)
26 (38,8)
9 (13,4)
1 (1,5)

Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
nghe kém tiếp nhận bên tai phải với nhóm tuổi
(p=0,002) và tai trái với nhóm tuổi (p=0,001).
Đối với tai phải, những người từ 70 tuổi
trở xuống thì chủ yếu là nghe kém tiếp nhận ở
độ 1 và độ 2. Đối với nhóm >70 tuổi thì mức
độ nghe kém tăng dần và chủ yếu là nghe
kém độ 2 và độ 3.
Đối với tai trái thì ≤ 60 tuổi chủ yếu nghe
kém tiếp nhận độ 1 (chiếm 53,2%), còn nhóm từ
61 – 70 tuổi chủ yếu nghe kém tiếp nhận độ 1
(36%) và độ 2 (34%). Riêng nhóm >70 tuổi thì tỷ
lệ chiếm cao nhất là nghe kém độ 3 (38,8%).

Mối liên quan giữa mức độ nghe kém nam giới
theo phân độ tần số

Bảng 7: Mối liên quan giữa mức độ nghe kém tai
phải của nam giới theo phân độ tần số
Nam
Phân độ 500 Hz
độ 0
0%
độ 1 29,6%
độ 2 36,1%
độ 3 28,6%
độ 4 5,7%
Ñoä 5

0

Tai Phải
1000 Hz 2000 Hz 4000 Hz
0%
1%
0%
27,6%
28,6%
18,1%
32,4%
23,8%
16,2%
25,7%
31,4%
37,1%
14,3%
15,2%

25,7%
0

0

2,9%

8000 Hz
0%
7,6%
11,4%
25,7%
45,7%
9,6%

Bảng 8: Mối liên quan giữa mức độ nghe kém tai
phải của nam giới theo phân độ tần số
Nam
Phân độ
độ 0
độ1
độ 2
độ 3

500 Hz
1%
32,4%
28,6%
31,4%


Tai trái
1000 Hz 2000 Hz 4000 Hz 8000 Hz
0%
1%
0%
1%
31,4%
25,7%
13,4%
4,8%
22,9%
23,8%
15,2%
10,5%
33,3%
30,5%
38,1%
25,7%

263


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Nam
Tai trái
Phân độ 500 Hz 1000 Hz 2000 Hz 4000 Hz 8000 Hz
độ 4

6,6%
12,4%
18,0%
27,6%
41,9%
độ 5
0%
0%
1%
5,7%
16,1%

Nhận xét: Qua 2 biểu đồ tai phải và tai trái ở
nam ta thấy:

Đặc điểm chung
Các tần số thấp 500Hz và 1000Hz, 2000Hz
thì có xu thế chiếm ưu thế các phân độ nghe
kém nhẹ và trung bình (độ 1, 2, 3) và ít dần ở các
độ nặng. Các tần số cao 4000Hz, 8000Hz phân
bố tương đối đều ở các phân độ nghe kém
nhưng có xu hướng tăng dần ở các độ nặng
(4,5).

Các tần số giảm dần tỉ lệ
+ 500Hz: tai phải từ 29,6% độ 1 còn 5,7% độ
4; tai trái 32,4% độ 1 còn 6,6% độ 4.
+ 1000Hz: tai phải từ 27,6% độ 1 còn 14,3%
độ 4; tai trái 31,4% độ 1 còn 12,4% độ 4.
+ 2000Hz: tai phải từ: 28,6% độ 1 còn 15,2%

độ 4; tai trái 25,7% độ 1 còn 18,0% độ 4.

Các tần số tăng dần tỉ lệ

Bảng 10: Mối liên quan giữa mức độ nghe kém tai
phải của nữ giới theo phân độ tần số
Nữ
Phân độ
Độ 0
Độ 1
Độ 2
Độ 3
Độ 4
Độ 5

Tai Trái
500 Hz 1000 Hz 2000 Hz 4000 Hz 8000 Hz
0%
2,6%
0%
0%
0%
36,9% 39,5% 39,5% 18,4%
7,9%
28,9% 21,1% 18,5% 26,3%
7,9%
26,3% 23,7% 28,9% 18,5%
31,6%
7,9%
13,1% 10,5% 26,3%

34,2%
0
0
2,6%
10,5%
18,4%

Nhận xét: Qua 2 biểu đồ tai phải và tai trái ở
nữ ta thấy:
Đặc điểm chung: các tần số thấp 500Hz và
1000Hz, 2000Hz cũng có xu thế chiếm ưu thế các
phân độ nghe kém nhẹ và trung bình (độ 1, 2, 3)
và ít dần ở các độ nặng. Các tần số cao 4000Hz,
8000Hz ngày càng có xu hướng phân bố ở các
độ nặng(7,6).

Các tần số giảm dần tỉ lệ
+ 500Hz: tai phải từ 31,6% độ 1 còn 19,5% độ
4; tai trái 36,9% độ 1 còn 7,9% độ 4.
+ 1000Hz: tai phải từ 47,4% độ 1 còn 15,8%
độ 4; tai trái 39,5% độ 1 còn 13,1% độ 4.

+ 4000Hz: tai phải từ 18,1% độ 1 tăng lên
25,7% độ 4; tai trái 13,4% độ 1 tăng lên27,6% độ
4

+ 2000Hz: tai phải từ 34,2% độ 1 còn 13,2%
độ 4 ; tai trái 39,5% độ 1 còn 10,5% độ 4.

+ 8000Hz: tai phải từ 7,6% độ 1 tăng lên

45,7% độ 4; tai trái 4,8% độ 1 tăng lên 41,9% độ 4

+ 4000Hz: tai phải từ 18,4% độ 1 tăng lên
26,3% độ 4; tai trái 18,4% độ 1 tăng lên26,3% độ
4.

+ Thậm chí có 2,9% tai phải và 5,7% tai trái
điếc đặc ở tần số 4000Hz và 9,6% tai phải; 16,1%
tai trái điếc đặc ở tần số 8000Hz.

Mối liên quan giữa mức độ nghe kém ở nữ
giới theo phân độ tần số
Bảng 9: Mối liên quan giữa mức độ nghe kém tai
phải của nữ giới theo phân độ tần số
Nữ
Phân độ 500 Hz
Độ 0
2,6%
Độ 1
31,6%
Độ 2
34,2%
Độ 3
21,1%
Độ 4
19,5%
Độ 5
0%

264


Tai Phải
1000 Hz 2000 Hz 4000 Hz
0
0
0
47,4%
34,2%
18,4%
21,1%
26,3%
21,1%
15,7%
23,7%
31,6%
15,8%
13,2%
26,3%
0%
2,6%
2,6%

8000 Hz
0
7,9%
21,1%
34,2%
26,3%
10,5%


Các tần số tăng dần tỉ lệ

+ 8000Hz: tai phải từ 7,6% độ 1 tăng lên
26,3% độ 4; tai trái 7,9% độ 1 tăng lên 34,2% độ 4.
+ Thậm chí có 2,6% tai phải và 10,5% tai trái
điếc đặc ở tần số 4000Hz và 10,5% tai phải;
18,4% tai trái điếc đặc ở tần số 8000Hz.

Dạng thính lực đồ
Bảng 11: Dạng thính lực đồ
Dạng thính
lực đồ

Tai phải
Tai trái
Chung
Nam Nữ Nam Nữ Tai (P) Tai (T)
38% 36,8% 40% 50% 37,8% 42,6%

Dốc xuống
(sloping)
Thẳng ngang 13,3% 23,7% 13,3% 21,1% 16,1% 15,4%
(flat)
Rớt từ từ 25,7% 23,7% 27,6% 15,8% 25,2% 24,5%
(gradually
falling)

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Dạng thính
lực đồ

Tai phải
Nam Nữ
1%
0%

Tai trái
Chung
Nam Nữ Tai (P) Tai (T)
1%
0% 0,7% 0,7%

Hình chữ U
(Trough)
Khác
21,9% 15,8% 18,1% 13,1% 20,2% 16,8%
Tổng
100% 100% 100% 100% 100% 100%

Nhận xét: Thính lực đồ dạng sloping chiếm
ưu thế ở cả hai tai: tai phải (nam: 38,1%; nữ:
36,8%; chung: 37,8%); tai trái (nam: 40%; nữ:
50%; chung: 42,7%). Kế đến dạng phẳng và rớt
từ từ chiếm tỉ lệ tương đối gần bằng nhau. Dạng
máng xối ít gặp nhất: chỉ gặp 1% (1 trường hợp)
ở nam giới ở cả hai tai.
Nghe kém độ II: chiếm tỉ lệ cao nhất ở giới

nam (34,3% và 27,6%) và tỉ lệ này lại cao hơn nữ
giới ở cả hai tai. Mặt khác, tai phải ở cả hai giới
đều cao hơn phía bên tai trái (nam: 34,3%, nữ
28,9% so với nam: 27,6%, 18,4%).
Nghe kém độ III: nữ giới thấp hơn nam giới
ở bên tai phải, nhưng lại chiếm tỉ lệ tương
đương nhau ở bên tai trái.
Đặc biệt, chỉ có duy nhất 1 trường hợp bị
điếc đặc và trường hợp này lại chỉ gặp ở nam
giới, bên tai trái.

Mối liên quan giữa nghe kém với các bệnh
lý thường gặp ở người cao tuổi
Mối liên quan giữa nghe kém với bệnh cao
huyết áp
Bảng12: Mối liên quan giữa nghe kém tiếp nhận với
bản thân, gia đình bị bệnh lý cao huyết áp (n=143).
Nghe kém Bản thân bị cao huyết Gia đình cao huyết áp
tiếp nhận
áp
Tai phải Có n=96 Không n=47 Có n=57
Không
n=86
Độ 0
20
23 (48,9%) 12 (21,1%) 31 (36,1%)
(20,8%)
Độ 1
26
19 (40,4%) 19 (33,3%) 26 (30,2%)

(27,1%)
Độ 2
37
2 (4,3%) 17 (29,8%) 22 (25,6%)
(38,5%)
Độ 3
13
3 (6,4%) 9 (15,8%) 7 (8,1%)
(13,6%)
Tai trái
Độ 0
1 (10%)
0
1 (1,8%)
0
Độ 1
19
21 (44,7%) 11 (19,3%) 29 (33,7%)
(19,8%)
Độ 2
23 (24%) 21 (44,7%) 17 (29,8%) 27 (31,4%)

Tai Mũi Họng

Độ 3
Độ 4

38
(39,6%)
15

(15,6%)

Nghiên cứu Y học
2 (4,2%)

19 (33,3%) 21 (24,4%)

3 (6,4%)

9 (15,8%) 9 (10,5%)

Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy mối
liên quan giữa bản thân, gia đình bị bệnh lý cao
huyết áp nghe kém tiếp nhận cả hai tai. Theo đó,
những người bị cao huyết áp có tỷ lệ nghe kém
độ 3 và độ 4 cao hơn những người không bị cao
huyết áp ở cả 2 tai. Sự khác biệt về tỷ lệ này có ý
nghĩa thống kê với p<0,001. Ngoài ra, bản thân
bị cao huyết áp thì nghe kém tiếp nhận ở tai trái
có tỷ lệ độ 3 (chiếm 39,6%) và độ 4 (chiếm
15,6%) cao hơn so với tai phải (nghe kém độ 3 là
38,5% và độ 4 là 13,5%).

Mối liên quan giữa nghe kém với bệnh tiểu
đường
Bảng 13: Mối liên quan giữa nghe kém tiếp nhận tai
(P) (T) với bản thân với bệnh tiểu đường
Nghe Bản thân
kém tiếp
nhận


Tai phải
n=29
Độ 0
Độ 1 3(10,4%)
Độ 2
2(6,9%)
Độ 3 15(51,7%)
Tai trái 9(31%)
Độ 0
Độ 1
0
Độ 2
2(6,9%)
Độ 3
2(6,9%)
Độ 4 15(51,7%)
10(34,5%)

tiểu đường Gia đình bị tiểu đường

Không
n=114


n=26

Không
n=117


40 (35,1%) 5(19,2%)
43(37,7%)
8(30,8)
24(21,1%) 10(38,5%)
7(6,1%)
3(11,5%)

38(32,5%)
37(31,6%)
29(24,8%)
13(11,1%)

1(0,9%)
38(33,3%)
42(36,9%)
25(21,9%)
8(7%)

1(0,8%)
35(29,9%)
38(32,5%)
29(24,8%)
14(12%)

0
5(19,2%)
6(23,1%)
11(42,3%)
4(15,4%)


Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy
không có mối liên quan giữa gia đình có người
bệnh tiểu đường với các mức độ của từng kiểu
nghe kém.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu tìm thấy mối
liên quan giữa bản thân bị tiểu đường với nghe
kém tiếp nhận ở cả hai tai. Theo đó, những
người bị tiểu đường có tỷ lệ nghe kém độ 3 và
độ 4 cao hơn những người không bị cao huyết
áp ở cả tai phải và tai trái. Sự khác biệt về tỷ lệ
này có ý nghĩa thống kê với p<0,001.

265


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012

Ngoài ra, bản thaân bị tiểu đường thì nghe
kém về tiếp nhận có tỷ lệ độ 3 ở tai trái và tai
phải là tương đương nhau (chiếm 51,7%), nhưng
tai trái thì có tỷ lệ nghe kém độ 4 (chiếm 34,5%)
cao hơn so với tai phải (chiếm 31%).

BÀN LUẬN VÀ KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ nam:
nữ = 2,7 : 1. Tỉ lệ nam giới cao hơn nhiều so với
tỉ lệ nữ giới có thể do tình trạng nghe kém ảnh
hưởng nhiều đến nam giới hơn nữ giới ở người

cao tuổi.
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
rằng: tình trạng nghe kém ở người cao tuổi
chiếm đa số ở mức độ nhẹ đến trung bình nặng.
100% đối tượng nghiên cứu đều có nghe kém
tiếp nhận ở tai phải. Đối với tai trái thì chỉ có
duy nhất 1 người không nghe kém. Chứng tỏ
những người trên 50 tuổi đều bị ảnh hưởng bởi
nghe kém tiếp nhận ở một mức độ nào đó và có
mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nghe
kém về tiếp nhận ở tai phải với nhóm tuổi
(p=0,002) và giữa tai trái với nhóm tuổi
(p=0,001). Đối với tai phải, những người từ 70
tuổi trở xuống thì chủ yếu là nghe kém tiếp
nhận ở độ 1 và độ 2. Còn những người >70 tuổi
thì mức độ nghe kém tăng dần và chủ yếu là
nghe kém độ 2 và độ 3. Đối với tai trái thì ≤60
tuổi chủ yếu là nghe kém tiếp nhận độ 1 (chiếm
53,2%), còn những người từ 61 – 70 tuổi chủ yếu
nghe kém tiếp nhận độ 1 (36%) và độ 2 (34%).
Riêng những người >70 tuổi thì tỷ lệ chiếm cao
nhất là nghe kém độ 3 (38,8%). Như vậy: tuổi
càng cao thì mức độ nghe kém càng tăng.
Dạng thính lực đồ dốc xuống (sloping) cũng
là dạng chiếm ưu thế nhất trong các dạng thính
lực: tỉ lệ chung: tai phải: 37,8% và tai trái 42,6%,
kế tiếp là dạng rớt từ từ và dạng flat (phẳng). Tỉ
lệ chung của dạng rớt ở các tần số cao bao gồm
dạng sloping và dạng rớt từ từ là 63,0% tai phải
và 67,1% tai trái. Chứng tỏ, những người cao


266

tuổi đa số dạng thính lực đồ bị ảnh hưởng ở các
tần số cao nhiều hơn tần số thấp. Ở cả hai giới,
các tần số thấp 500Hz và 1000Hz, 2000Hz thì có
xu thế chiếm ưu thế các phân độ nghe kém nhẹ
và trung bình (độ 1, 2, 3) và ít dần ở các độ nặng.
Các tần số cao 4000Hz, 8000Hz phân bố tương
đối đều ở các phân độ nghe kém nhưng có xu
hướng tăng dần ở các độ nặng(7,6).
Trong nghiên cứu của chúng tôi: tìm thấy
mối liên quan giữa bản thân bị cao tiểu đường
cũng như bệnh cao huyết áp với nghe kém về
tiếp nhận ở cả hai tai. Theo đó, những người bị
tiểu đường có tỷ lệ nghe kém độ 3 và độ 4 cao
hơn những người không bị cao huyết áp ở cả tai
phải và tai trái. Sự khác biệt về tỷ lệ này có ý
nghĩa thống kê với p<0,001. Những người bị cao
huyết áp có tỷ lệ nghe kém độ 3 và độ 4 cao hơn
những người không bị cao huyết áp ở cả tai phải
và tai trái. Sự khác biệt về tỷ lệ này có ý nghĩa
thống kê với p<0,001.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.
4.


5.

6.

7.
8.

9.

Abdulbari B (2008) "association between hearing loss and type 2
Diabetes Mellitus in elderly people in a newly developed
society". Biomedical Reseach;19(3) pp 187-193.
Đặng Xuân Hùng (2010). "Nghe kém tiếp nhận-thần kinh, nghe
kém ở lớn tuổi". Thính học lâm sàng NXB Y Học 2010, tr 227-229.
Campell KCM (2006). "Otoacoustic Emission". Otoacoustic
Emission, Illinois Library, pp 31 - 39.
Ngô Ngọc Liễn (2001). "Đo sức nghe bằng đơn âm tại ngưỡng".
Thính học Ứng Dụng, Nhà xuất bản Y học - Hà Nội-2001, tr 73 80.
Nguyễn Đình Bảng (1992). "Lão thính". Cẩm nang thực hành Tai
Mũi Họng tập1, Bộ môn Tai Mũi Họng Đại Học Y Dược TP
HCM 1992, tr169.
Nguyễn Đỉnh Bảng Võ Quang Phúc, Lương Sĩ Cần (2000). "Đo
thính lực đơn âm". Sách thực hành các xét nghiệm thính học, Trung
tâm Tai Mũi Họng TP HCM (Hội Tai Mũi Họng TP HCM
(2000)), tr 40 - 83.
Nguyễn Thị Bích Thủy (năm) "Thính lực đồ". Bài giảng thính lực
đồ - Nhĩ lượng đồ, BV Tai Mũi Họng.
Parving A, Berner B., Odum L (2000) "Age-related hearing
impairment and B vitamin status.". Acta Otolaryngol., Aug

(120(5) 633-7).
Saunders WH, Deweese DD (1968). "Text book of
otolaryngology 3rd edition". The C.V. Mosby company, pp 250 275, 314 - 340.

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng



×