Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nghiên cứu nồng độ hormon tuyến cận giáp ở bệnh nhân ghép thận tại Bệnh viện Quân y 103

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.34 KB, 6 trang )



13 - 36

28

30,5

> 36

39

42,4

Trung bình (tháng)

35,07 ± 30,67 (3 - 167)

Tỷ lệ BN ghép thận < 36 tháng là chủ yếu (57,7%).
* Phân bố BN theo nguồn thận ghép:
45 BN (48,9%) được ghép thận từ người hiến thận sống cùng huyết thống; 45 BN
(48,9%) từ người hiến thận sống không cùng huyết thống; chỉ 2 BN (2,2%) được hiến
từ người chết não. Như vậy, BN nhận thận hầu hết từ người cho sống (97,8%).
* Mức lọc cầu thận tại thời điểm nghiên cứu:
2 BN (2,2%) có mức lọc cầu thận ≥ 90 ml/phút; 46 BN (50%) có mức lọc cầu thận
60 - 89 ml/phút; 33 BN (35,8%): 45 - 59 ml/phút; 10 BN (10,9%): 30 - 44 ml/phút; 1 BN
(1,1%): 15 - 29 ml/phút. Mặc dù chỉ có 1 thận hoạt động, nhưng phần lớn BN có mức
lọc cầu thận > 45 ml/phút.
79



TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ GHÉP TẠNG - 2018
Bảng 3: Phân bố BN theo nồng độ hormon tuyến cận giáp huyết thanh.
Nồng độ hormon tuyến cận giáp (pg/ml)

Số lƣợng

Tỷ lệ (%)

< 10

0

0

10 - 60

31

33,7

> 60

61

66,3

Nồng độ trung bình

77,34 ± 35,95


Khoảng 2/3 số BN sau ghép vẫn có tăng nồng độ hormon tuyến cận giáp huyết thanh.

260

y = 0.691x + 66.78
R² = 0.139

Nồng độ PTH huyết
thanh (pg/ml)

210

160
110
60

10
0

50

100

150

Biểu đồ1: Tương quan giữa hormon tuyến cận giáp và thời gian lọc máu trước ghép.
Nồng độ hormon tuyến cận giáp có mối tương quan thuận mức độ vừa với thời gian
Thời gian lọc máu trước ghép (tháng)
lọc máu trước ghép (r = 0,36; p < 0,001).
Bảng 4: Liên quan giữa nồng độ hormon tuyến cận giáp với thời gian sau ghép.

Nồng độ hormon tuyến cận giáp
Thời gian sau
ghép (tháng)

Bình thường
Số lượng

Tăng
Tỷ lệ (%)

(n = 31)

Số lượng

Tỷ lệ (%)

(n = 61)

3 - 12

10

32,3

15

24,6

12 - 36


9

29

19

31,1

> 36

12

38,7

27

44,3

p

0,79

0,15

Không có mối liên quan có ý nghĩa giữa nồng độ hormon tuyến cận giáp huyết
thanh với thời gian sau ghép.
80


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ GHÉP TẠNG - 2018

Bảng 5: Liên quan giữa nồng độ hormon tuyến cận giáp với mức lọc cầu thận.
Nồng độ hormon tuyến cận giáp
Mức lọc cầu thận
(ml/phút)

Bình thường

Tăng

Số lượng
(n = 31)

Tỷ lệ (%)

Số lượng
(n = 61)

Tỷ lệ (%)

≥ 60

12

38,7

36

59

< 60


19

61,3

25

41

p

0,20

0,15

Chưa thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa nồng độ hormon tuyến cận giáp huyết
thanh với mức lọc cầu thận.
BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy, 33,7% BN
có nồng độ hormon tuyến cận giáp huyết
thanh trong giới hạn bình thường, giá trị
trung bình 46,49 ± 8,99 pg/ml; 66,3% BN
có nồng độ hormon tuyến cận giáp tăng,
giá trị trung bình 93,07 ± 34,32 pg/ml;
không BN nào có nồng độ hormon tuyến
cận giáp thấp hơn giá trị bình thường.
Nồng độ hormon tuyến cận giáp trung
bình (73,34 ± 35,95 pg/ml) lớn hơn có ý
nghĩa thống kê so với nồng độ hormon
tuyến cận giáp máu người bình thường

(10 - 60 pg/ml) (p < 0,01). Nguyễn Thị
Kim Thủy và CS nghiên cứu nhóm BN lọc
máu chu kỳ thấy nồng độ hormon tuyến
cận giáp trung bình cao hơn rất nhiều
(324,64 ± 287,32 pg/ml) (p < 0,001) [2],
tương đương với kết quả của Botha J.F,
Botha J.R (1997) [3]. Theo Ohood Abass
Ibrahim (2016), nồng độ hormon tuyến
cận giáp huyết thanh nhóm BN sau ghép
thận không khác biệt có ý nghĩa thống kê
so với nhóm chứng [6].
Tony Amin và CS (2016) nghiên cứu
trên 679 BN sau ghép thận ít nhất 3 tháng,
kết quả cho thấy 10% BN có nồng độ
hormon tuyến cận giáp huyết thanh trong

giới hạn bình thường, 90% BN có nồng
độ hormon tuyến cận giáp huyết thanh
cao hơn giá trị bình thường [7].
Nghiên cứu của Douthat W.G, Carlos
Raul Chiurchui, Pablo Ulises Massari ở
Argentina (2012) cho thấy cường tuyến
cận giáp sau ghép thận chiếm tỷ lệ lớn.
Trong 365 BN tại thời điểm ghép thận,
58% BN có nồng độ hormon tuyến cận
giáp cao > 250 pg/ml; 12,4% tăng canxi
huyết [4].
Nồng độ hormon tuyến cận giáp huyết
thanh ở BN ghép thận liên quan với một
số yếu tố trước và sau ghép. Chúng tôi

thấy nồng độ hormon tuyến cận giáp
huyết thanh có liên quan với thời gian lọc
máu trước ghép. Kết quả cho thấy nồng
độ hormon tuyến cận giáp huyết thanh có
mối tương quan thuận mức độ vừa, có ý
nghĩa thống kê với thời gian lọc máu
trước ghép (r = 0,36 và p = 0,001). Thời
gian lọc máu càng dài, nồng độ hormon
tuyến cận giáp càng tăng cao. Giai đoạn
đầu bệnh thận, khi nồng độ canxi máu
giảm, nồng độ hormon tuyến cận giáp
tăng, bệnh thận mạn càng kéo dài làm
cho tình trạng cường tuyến cận giáp kéo
dài, đến giai đoạn nhất định làm biến đổi
81


TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ GHÉP TẠNG - 2018
cấu trúc tuyến cận giáp. Vì vậy, sau khi
ghép thận, nồng độ canxi không giảm,
nhưng nồng độ hormon tuyến cận giáp
vẫn tăng kéo dài. Trên thế giới, nhiều
trung tâm đề nghị cắt tuyến cận giáp để
điều trị tình trạng cường tuyến cận giáp
kéo dài sau ghép thận. Tuy nhiên, chúng
tôi chưa thấy mối liên quan có ý nghĩa
giữa nồng độ hormon tuyến cận giáp
huyết thanh và thời gian sau ghép.
Một số nghiên cứu cho thấy, cường
tuyến cận giáp sau ghép thận chiếm tỷ lệ

cao, mức độ tăng hormon tuyến cận giáp
chủ yếu liên quan với thời gian điều trị
suy thận trước ghép và mức độ hormon
tuyến cận giáp tăng trong giai đoạn trước
ghép [4, 5, 6]. Trong 365 BN tại thời điểm
ghép thận thấy 58% BN có nồng độ
hormon tuyến cận giáp > 250 pg/ml;
12,4% tăng canxi huyết [4]. Theo Fredrick
(2013) [5], nồng độ hormon tuyến cận
giáp huyết thanh ở thời điểm 6 tháng sau
ghép thận giảm thấp hơn so với vừa
ghép, giảm từ 19 - 71%.
Nhiều nghiên cứu đề cập đến mối liên
quan giữa nồng độ hormon tuyến cận
giáp huyết thanh với chức năng thận
ghép cho thấy nồng độ hormon tuyến cận
giáp và mức lọc cầu thận trước và sau
ghép biến đổi rất rõ theo xu hướng ngược
nhau: khi mức lọc cầu thận cải thiện,
nồng độ hormon tuyến cận giáp giảm dần
[7]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của
chúng tôi, mối quan hệ đó chưa thể hiện.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu 92 BN sau ghép thận đang
theo dõi định kỳ tại Bệnh viện Quân y 103
chúng tôi rút ra một số kết luận:
- 33,7% BN có nồng độ hormon tuyến
cận giáp huyết thanh trong giới hạn bình
thường; 66,3% BN có hormon tuyến cận
82


giáp tăng và không BN nào có nồng độ
hormon tuyến cận giáp thấp hơn bình
thường.
- Nồng độ hormon tuyến cận giáp có
mối tương quan thuận mức độ vừa với
thời gian lọc máu trước ghép (r = 0,36 và
p = 0,001), nhưng chưa thấy mối liên
quan có ý nghĩa thống kê với thời gian
sau ghép và mức lọc cầu thận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hoàng Thanh Vân. Nghiên cứu
nồng độ beta-crosslaps, hormon tuyến cận
giáp huyết thanh ở bệnh nhân bệnh thận mạn
giai đoạn cuối. Luận án Tiến sỹ Y học.
Trường Đại học Y Dược Huế. 2015.
2. Nguyễn Thị Kim Thủy. Nồng độ Ca, P,
hormon tuyến cận giáp huyết thanh và tình
trạng loãng xương ở bệnh nhân suy thận mạn
lọc máu chu kỳ. Tạp chí Y học Thực hành.
2011, 771 (6).
3. Botha, J.R Botha. Parathyroid function
after successful renal transplantation. S Afr J
Surg. 1997, 35 (3), pp.113-116.
4. Duothat W.G, Carlos Raul Chiuchiu,
Pablo Ulises Massari et al. New options for
the management of hyperparathyroidism after
renal transplantation. World J Transplant.
2012, Jun.
5. Fredrick, M Kalokola. Serum calcium,

phosphate and parathyroid hormone levels in
kidney transplant recipients. University of
Nairobi. 2013.
6. Ohood Abass Ibrahim, Gad Allah Modawe,
Abd Elkarim A Abdrabo. Assessment of
calcium phosphorus and parathyroid hormone
in Sudanese patients with renal transplantation.
Journal of Medical and Biological Science
Research. 2016, 2 (1), pp.1-4.
7. Tony Amin, P Toby Coates, Jeffrey
Barbara. Prevalence of hypercalcaemia in a
renal transplant population: A single centre
study. International Journal of Nephrology.
2016, Article ID 7126290, 5 pages.



×