Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

39 sử dụng ruột thừa làm van chuyển lưu nước tiểu ra da có kiểm soát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (566.72 KB, 10 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

39 SỬ DỤNG RUỘT THỪA LÀM VAN CHUYỂN LƯU NƯỚC TIỂU RA DA 
CÓ KIỂM SOÁT 
Đào Quang Oánh*, Nguyễn Văn Ân**, Đỗ Văn Công* 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Nhiều bệnh lý trên bàng quang đưa đến chỉ định thực hiện phẫu thuật chuyển lưu nước tiểu 
ra da có kiểm soát. Việc lựa chọn vật liệu tạo van và phương pháp phẫu thuật sao cho vừa đạt kết quả tối ưu về 
chức năng kiểm soát nước tiểu, bền vững, lại có tính thẩm mỹ. Ruột thừa khá phù hợp. Chúng tôi sử dụng ruột 
thừa trong tạo van với một vài cải biên để đạt được những yêu cầu trên. 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phương pháp sử dụng ruột thừa làm van chuyển lưu nước tiểu ra da có 
kiểm soát. 
Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu lâm sàng, mô tả hàng loạt ca. Tất cả bệnh nhân đã 
được phẫu thuật chuyển lưu nước tiểu ra da có kiểm soát bao gồm cả mở rộng bàng quang và thay thế (túi chứa) 
bằng ruột tại 2 khoa Niệu A và B bệnh viện Bình Dân từ năm 2007‐2013, với thời gian theo dõi tối thiêu 3 tháng 
được đưa vào nghiên cứu. 
Kết quả: Tổng cộng có 25 bệnh nhân gồm 7 trường hợp (TH) bướu bàng quang và 18 TH bàng quang hỗn 
loạn thần kinh (9 TH giảm trương lực và 9 TH tăng trương lực). Tuổi trung bình là 56,2 tuổi (19 – 87). Tỷ lệ 
nam/nữ = 1,5. Thời gian theo dõi: 34,6 tháng (3‐72). Bàng quang mới có dung tích trung bình: 472ml (400‐550 
ml) và áp suất ở dung tích tối đa P (Vmax) ≤ 30 cm nước. Chức năng van ruột thừa với 3 tiêu chuẩn: thời gian 
giữa 2 lần thông, khả năng kiểm soát nước tiểu, mức độ dễ dàng khi thao tác là 80 – 92% tốt. 
Kết luận: Ruột thừa là vật liệu sẵn sàng, hữu dụng để làm van chuyển lưu trong phẫu thuật chuyển lưu ra 
da có kiểm soát với kết quả tốt và bền vững theo thời gian. 
Từ khóa: ruột thừa, van chuyển lưu ra da có kiểm soát 

ABSTRACT 
USING APPENDIX FOR CONTINENT CUTANEOUS URINARY DIVERSION 
Đao Quang Oanh, Nguyen Van An, Do Van Cong 


* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 277 ‐ 286 
Introduction:  Many bladder  pathologies  lead  to  require  continent  cutaneous  diversions.  How  to  create  a 
valve  with  optimum  results  for  continency,  sustainability  and  aesthetic  appearance,  is  still  a  question.  The 
appendix  is  quite  suitable.  We  report  the  use  of  appendix,  applying  Mitrofanoff’s  principle  with  some 
modifications to create a continent valve in order to achieve the above requirements. 
‐ Objectives: To assess the effectiveness of using appendix to create continent cutaneous continent valve. 
Patients  –  Methods:  Descriptive,  serial  clinical  cases  study.  All  cases  of  continent  cutaneous  urinary 
diversions, including augmentation and replacement bladders (pouches) realized at Urology Departments A and 
B, Binh Dan Hospital during the years 2007‐2013, with a minimum follow‐up of 3 months, were included in this 
 Khoa Niệu B, BV Bình Dân 

*

** Khoa Niệu A, BV Bình Dân 

Tác giả liên lạc: TS.Đào Quang OánhĐT: 0955012301 Email:  

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  

277


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

study. 
Results: Totally 25 patients, including 7 bladder tumors and 18 neurogenic bladders (9 hypotonic and 9 
hypertonic). Mean age = 56.2 years (19‐87). Ratio male/female = 1.5. Follow‐up time: 34.6 months (3‐72). New 
bladder mean capacity = 472ml (400‐550 ml) and Pressure at maximum capacity (PVmax) ≤ 30 cm of water. 

Functional  evaluation  of  the  appendix‐valve  based  on  3  criteria:  time  between  2  consecutive  catheterizations, 
degree of continency, and capability of self catheterization, has 80‐92% of good results. 
Conclusions:  Appendix is available, useful to create continent cutaneous valve with good and sustainable 
results over time. 
Keywords: Appendix, Continent cutaneous diversion. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Khi  chức  năng  của  đường  tiết  niệu  dưới  bị 
tổn  thương  trầm  trọng  thì  vấn  đề  chuyển  lưu 
nước tiểu được đặt ra. Chuyển lưu nước tiểu có 
kiểm  soát  đem  lại  chất  lượng  sống  và  bảo  vệ 
đường  tiết  niệu  trên  tốt  hơn  chuyển  lưu  nước 
tiểu  không  kiểm  soát.  Chọn  lựa  phương  thức 
chuyển lưu tùy thuộc vào thể trạng bệnh nhân, 
bệnh  lý  nền  (nguyên  nhân  gây  tổn  thương  cho 
đường  tiết  niệu  dưới)  cùng  tình  trạng  của  niệu 
đạo và cơ thắt vân. Lý tưởng là bàng quang thay 
thế  nối  với  niệu  đạo.  Tuy  nhiên,  trong  nhiều 
trường  hợp,  buộc  phải  chọn  lựa  chuyển  lưu  ra 
da qua một van có kiểm soát. 
Kỹ thuật tự thông tiểu sạch cách quãng được 
tác  giả  Lapides  đề  xuất  năm  1972  đã  chứng 
minh  được  tính  an  toàn,  hiệu  quả,  và  hiện  nay 
kỹ  thuật  này  đã  được  phổ  biến  rộng  rãi.  Năm 
1980,  Mitrofanoff  đề  xuất  nguyên  tắc  sử  dụng 
một  cấu  trúc  dạng  ống  nhỏ  kèm  một  cơ  chế 
chống ngược dòng dưới thanh mạc để làm van 
chuyển  lưu.  Phẫu  thuật  được  thực  hiện  trên 
bệnh nhi bị bàng quang thần kinh.  
Phẫu  thuật  chuyển  lưu  nước  tiểu  có  kiểm 

soát  có  thể  coi  là  bước  tiến  lớn  trong  sự  phát 
triển  của  ngành  niệu  khoa  do  khả  năng  giải 
phóng bệnh nhân khỏi việc mang ống thông liên 
tục dài ngày, giúp bệnh nhân nhanh chóng hòa 
nhập với xã hội. Tuy nhiên việc lựa chọn vật liệu 
tạo van và phương pháp phẫu thuật sao cho vừa 
đạt kết quả tối ưu về chức năng kiểm soát nước 
tiểu, bền vững và có tính thẩm mỹ cần được cân 

278

nhắc.  Ruột  thừa  là  cơ  quan  thuộc  ống  tiêu  hóa 
của cơ thể nằm ở hố  chậu phải, có đường kính 
nhỏ,  dài  khoảng  10cm,  có  hệ  thống  mạch  máu 
riêng nên có thể di chuyển dễ dàng. Do đó ruột 
thừa  khá  phù  hợp  về  mặt  sinh  lý  để  làm  van 
chuyển lưu.  
Van  chuyển  lưu  nước  tiểu  phải  đủ  kín  để 
không  xì  rò  nước  tiểu  trong  thì  chứa  đựng 
nhưng  không  quá  hẹp  để  bệnh  nhân  có  thể  tự 
thông  dễ  dàng.  Ngoài  ra  miệng  van  còn  phải 
đảm bảo tính thẩm mỹ. 
Ruột thừa là vật liệu khá lý tưởng để có thể 
đạt được các yêu cầu trên.  

Mục tiêu 
Đánh  giá  hiệu  quả  của  phương  pháp  sử 
dụng ruột thừa làm van chuyển lưu nước tiểu ra 
da có kiểm soát thông qua các tiêu chí:  
‐ Khả năng kiểm soát nước tiểu: kín, không 

rò rỉ.  
‐ Tự thông dễ dàng: không nghẹt, có thể tự 
làm, không cần người khác giúp đỡ. 
‐  Thẩm  mỹ:  miệng  van  chuyển  lưu  nhỏ,  có 
thể  che  dấu  dễ  dàng  với  quần  tắm  thông 
thường. 

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu lâm sàng, mô tả hàng loạt ca. 

Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh  nhân  đã  được  phẫu  thuật  chuyển  lưu 
nước  tiểu  ra  da  có  kiểm  soát  bao  gồm  cả  mở 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

rộng  bàng  quang  và  thay  thế  (túi  chứa)  bằng 
ruột tại 2 khoa Niệu A và B bệnh viện Bình Dân 
từ năm 2007‐2013 với các yêu cầu sau: 
‐ Chuyển lưu nước tiểu ra da có kiểm soát sử 
dụng ruột thừa làm van kiểm soát nước tiểu. 
‐ Thời gian theo dõi sau phẫu thuật ít nhất là 
3 tháng. 
‐  Bệnh  nhân  hợp  tác  tốt  trong  quá  trình 
nghiên cứu. 

Tiêu chuẩn loại trừ 

‐  Bệnh  nhân  không  đồng  ý  phương  pháp 
phẫu thuật hoặc không hợp tác trong quá trình 
nghiên cứu. 
‐ Bệnh nhân không có ruột thừa (đã cắt) hoặc 
không sử dụng được để làm van chuyển lưu do 
bất thường về vị trí: dưới gan, sau manh tràng... 
hay không đủ dài: ruột thừa hoặc mạc treo ruột 
thừa quá ngắn. 

Nghiên cứu Y học

Kỹ  thuật  tạo  van  chuyển  lưu  nước  tiểu  ra 
da có kiểm soát bằng ruột thừa 
Tiến  hành  cắt  ruột  thừa  có  bảo  tồn  cuống 
mạch mạc treo ruột thừa (sau khi bàng quang đã 
được  tạo  hình  gần  xong,  còn  một  đường  khâu 
cuối để đóng lại). 
Cắt  bỏ  phần  đầu  ruột  thừa,  bơm  rửa  sạch  và 
đặt 1 ống thông 10‐12Fr vào trong lòng ruột thừa.  
Ngoại phúc mạc hoá ruột thừa.  
Nối  tận‐bên  đầu  ruột  thừa  vào  thành  bàng 
quang.  Vị  trí  nối  là  ở  phần  ruột,  nơi  sát  gần 
thành bụng. 
Tạo đường hầm chéo qua thành bụng xuyên 
cân cơ thẳng bụng ra da.  
Đưa gốc ruột thừa ra da, khâu cố định ruột 
thừa vào thành bụng. Khâu cố định miệng van 
chuyển lưu trên bề mặt da. 

   

Hình 1: Ruột thừa, sau khi được cắt rời, có bảo tồn cuống mạch máu và lưu thông trong lòng. Đường hầm 
xuyên cơ thẳng bụng của van ruột thừa. 

Theo dõi và đánh giá kết quả điều trị 
Tất  cả  bệnh  nhân  đều  được  lưu  thông  qua 
van khi xuất viện để tránh bị bít miệng van. Có 
thể lưu thông qua van bằng thông Foley nhỏ loại 
thường  sử  dụng  cho  trẻ  em.  Thông  qua  van  sẽ 
được  rút  ở  lần  tái  khám  đầu  tiên,  đồng  thời 
hướng dẫn bệnh nhân cách tự thông và săn sóc 
miệng van chuyển lưu. Những bệnh nhân có tạo 
hình bàng quang bằng hồi tràng còn mang thêm 
một thông bàng quang ra da và hướng dẫn cách 
bơm rửa bàng quang mới hàng ngày để rửa chất 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  

 

nhày  do  ruột  bài  tiết  ra.  Thông  này  cũng  được 
rút ở lần tái khám 1 tháng sau. 
Các bệnh nhân khi xuất viện sẽ được hẹn tái 
khám  sau  1  tháng,  3  tháng,  6  tháng,  1  năm  để 
theo  dõi:  khả  năng  kiểm  soát  nước  tiểu,  khả 
năng tự thông tiểu sạch cách quãng qua van và 
biến chứng của miệng van chuyển lưu nếu có. 
Trong nghiên cứu này, lầy mốc kết quả thời 
gian theo dõi sau phẫu thuật ít nhất là 3 tháng. 

279



Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

Tiêu  chuẩn  đánh  giá:  Áp  dụng  theo  cách 
đánh  giá  của  các  tác  giả  Đào  Quang  Oánh, 

Nguyễn Văn Ân(3,9,10). 

Bảng 1: Tiêu chuẩn đánh giá chức năng van chuyển lưu ruột thừa, Kiểm soát được trong thì chứa đựng và Tự 
thông trong thì lấy nước tiểu. 
Chức năng

Kiểm soát

Tiêu chuẩn

Tốt

Trung bình

Xấu

Thời gian giữa 2 lần
thông tiểu liên tiếp

>3 giờ


2-3 giờ

<2 giờ

Hoàn toàn ban ngày, thỉnh Ban ngày có lúc không kiểm
Không kiểm soát được
Khả năng kiểm soát thoảng không được vào ban soát được, ban đêm không
cả ngày lẫn đêm
được
đêm

Thao tác khi tự
thông

Khó nhưng vẫn tự thông
được

Dễ dàng

Cần sự hỗ trợ từ người
khác

KẾT QUẢ 
Số liệu chung 
Trong thời gian từ tháng 7/2007 đến tháng 
4/2013  có  25  bệnh  nhân  bướu  bàng  quang  (7 
TH) và bàng quang hỗn loạn thần kinh (18 TH) 
được phẫu thuật chuyển lưu nước tiểu ra da có 
kiểm soát sử dụng van ruột thừa. 
Tuổi trung bình là 56.2 tuổi (19 – 87). Nam: 

15 TH (60%), Nữ: 10 TH (40%). Tỷ lệ nam/nữ = 

  
Biểu đồ 1. Phân bố bệnh nhân theo tuổi. 

1,5. 

Tình trạng thận trước mổ 
Bảng 2. Tình trạng chức năng thận và độ ứ nước 2 thận trước mổ. 
Bệnh lý nền Tổng số TH Chức năng thận

Bướu BQ

7

BQ giảm
trương lực

9

BQ tăng
trương lực

9

Tổng cộng

Bình thường

Creatinin

máu (µmol/l)

70 - 110

5
4

Thận P- Số Thận T- Số TH Hai thận- Số TH
TH (Độ ứ
(Độ ứ nước)
nước)
1 (độ I)

1 (độ I)

1 (độ I)

1 (độ I)

Suy thận độ I

110- <130

1 (độ I)

4

Suy thận độ II

130 - 299


1 (độ II)

1

Suy thận độ IIIa

300 - 499

Suy thận độ IIIb

500 - 900

Suy thận độ IV

> 900

4

1 (độ II)

25

Không có TH nào bị suy thận độ IIIb và độ 
IV (Creatinin máu ≥ 500 μmol/l).  

280

Độ ứ nước trên siêu âm


Số TH có ứ
nước (tỷ lệ
%)
2 (28,6)

3 (độ I-II)

5 (55,6)

3 (độ I-II-III)

4 (44,4)

3 (độ I-II-III)

4 (44,4)

3 (độ I-II-III)

4 (44,4)

1 (độ II-III)

1 (11,1)

20 (80)

Đối với Bướu bàng quang: tất cả 7 TH đều có 
chức năng thận trong giới hạn bình thường dựa 


Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

Nghiên cứu Y học

trên  kết  quả  Creatinin  máu,  trong  đó  có  2  TH 
(28,6%) có thận một bên bị ứ nước độ I. 

‐ Đối với bàng quang tăng trương lực: tất cả 
9 TH đều có tình trạng ứ nước tại thận, trong đó: 

Đối với bàng quang giảm trương lực: tất cả 9 
TH đều có tình trạng ứ nước tại thận, trong đó: 

‐  4  TH  (44,4%)  suy  thận  độ  I:  1  TH  thận  ứ 
nước 1 bên, 3 TH thận ứ nước 2 bên. 

‐ 5 TH (55,6%) chức năng thận bình thường: 
2 TH thận ứ nước 1 bên, 3 TH thận ứ nước 2 bên. 

‐  4  TH  (44,4%)  suy  thận  độ  II:  1  TH  thận  ứ 
nước 1 bên, 3 TH thận ứ nước 2 bên. 

‐  4  TH  (44,4%)  suy  thận  độ  I:  1  TH  thận  ứ 
nước 1 bên, 3 TH thận ứ nước 2 bên. 

‐ 1 TH (11,1%) suy thận độ III: với cà 2 thận 
đều ứ nước. 


Chỉ định mổ 
Bảng 3. Chỉ định mổ. 
Chẩn đoán

Số bệnh nhân Nguy cơ ung thư Bí tiểu mạn Tiểu không kiểm soát Thận ứ nước Suy thận

Bướu BQ

7

7

BQTK giảm trương lực

9

9

3

9

4

BQTK tăng trương lực

9

1


5

9

9

nghiệm sinh hóa. Đây là những tiêu chí đưa đến 
chỉ định phẫu thuật. 

Đối với Bướu bàng quang: tất cả đều là ung 
thư  tế  bào  chuyển  tiếp  của  niệu  mạc,  và  giai 
đoạn giải phẫu bệnh ≤ T2, chỉ định mổ do nguy 
cơ ung thư tiến triển. 

Đối  với  bàng  quang  tăng  trương  lực:  tất  cả 
đều  có  triệu  chứng  đường  tiết  niệu  dưới:  tiểu 
khó,  buốt  ,  lắt  nhắt,  tiểu  đêm...  ;  5  TH  bị  tiểu 
không kiểm soát trong đó 1 TH vừa tiểu không 
kiểm soát vừa có tồn lưu  nước  tiểu.  Tất  cả  đều 
có  thận  ứ  nước  và  biểu  hiện  suy  thận  qua  kết 
quả xét nghiệm sinh hóa. Những lý do trên đưa 
đến chỉ định phẫu thuật. 

Đối với bàng quang giảm trương lực: tất cả 
đều có thể tích tồn lưu nước tiểu ≥ 200 ml, trong 
đó  có  3  TH  vừa  tiểu  khó  vừa  tiểu  không  kiểm 
soát.  Tất  cả  đều  có  ứ  nước  tại  thận,  trong  đó  4 
TH  có  biểu  hiện  suy  thận  qua  kết  quả  xét 


Loại phẫu thuật thực hiện cùng lúc với tạo van ruột thừa: 
Bảng 4. Tạo hình bàng quang và cắm lại niệu quản. 
Bệnh lý

Loại phẫu thuật
BQ thay thế (túi chứa) BQ mở rộng

Bướu BQ

BQ tự nhiên

7
4

BQTK tăng trương lực

9
7

1 bên

2 bên

2

BQTK giảm trương lực
Tổng cộng

Số NQ giãn nở


12

5
6

Số NQ cắm
lại
14

3

12

9

2

14

11

7

26

34

Đối với Bướu bàng quang: có 2 TH có thận 
một bên bị ứ nước độ I (2 niệu quản).  


‐  3  TH  thận  ứ  nước  1  bên  (độ  I)  và  không 
phải cắm lại niệu quản.  

Tất cả 7 TH đều phải cắt bàng quang tận gốc 
và tạo hình thay thế chuyển lưu ra da và cắm lại 
2 niệu quản vào túi chứa (14 niệu quản). 

‐ 6 TH thận ứ  nước  2  bên  (12  niệu  quản):  2 
niệu  quản  (ứ  nước  độ  I)  không  phải  cắm  lại;  1 
niệu  quản  (ứ  nước  độ  II)  nhưng  không  nghẹt 
cũng  không  cần  phải  cắm  lại;  9  niệu  quản  (5  ứ 
nước độ II, 1 ứ nước độ III) phải cắm lại, trong 

Đối với bàng quang giảm trương lực: tất cả 9 
TH đều có tình trạng ứ nước tại thận, trong đó: 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  

281


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

đó  4  TH  thành  bàng  quang  dày,  phải  mở  rộng 
bằng hồi tràng. 

Chức năng van 


‐ Đối với bàng quang tăng trương lực: tất cả 
9 TH đều có tình trạng ứ nước tại thận, tất cả 9 
TH  đều  phải  mở  rộng  bàng  quang  bằng  hồi 
tràng trong đó: 

bàng  quang  mới  có  khả  năng  chứa  đựng  > 

+  2  TH  thận  ứ  nước  1  bên  (độ  I)  và  không 
phải cắm lại niệu quản vì không nghẹt.  
+ 7 TH thận ứ nước 2 bên (14 niệu quản): 2 
niệu  quản  (ứ  nước  độ  I)  không  phải  cắm  lại;  1 
niệu  quản  (ứ  nước  độ  II)  nhưng  không  nghẹt 
cũng không cần phải cắm lại; 12 niệu quản (8 ứ 
nước độ II, 3 ứ nước độ III) phải cắm lại. 

Thời gian theo dõi sau mổ 
Ngắn nhất: 3 tháng . 

‐  Thời  gian  giữa  2  lần  thông:  20  TH  (80%) 
3giờ,  thời  gian  tự  thông  giữa  2  lần  thông  > 
3giờ,  xếp  loại  tốt.  5  TH  (20%)  xếp  loại  trung 
bình.  Không  có  trường  hợp  nào  phỉa  thông 
dưới 2 giờ/lần. 
Bảng 5. Phân loại dựa vào thời gian giữa 2 lần 
thông. 
Thời gian giữa 2 lần
thông

Số bệnh
nhân


Tỷ lệ

Phân loại

>3 giờ

20

80%

Tốt

2-3 giờ

5

20%

Trung bình

< 2 giờ

0

0%

Kém

‐  Khả  năng  kiểm  soát:  21  TH  (82%)  được 


Dài nhất: 72 tháng. 

xếp  loại  tốt,  trong  đó  12  TH  (48%)  kiểm  soát 

Trung bình: 34,6 ± 23,5 tháng. 

được  cả  ngày  lẫn  đêm  và  9  TH  (36%)  thỉnh 

Dung tích bàng quang mới sau phẫu thuật. 
Dung tích trung bình: 472ml ± 61,3 ml (400‐
550 ml). 
Áp suất ở dung tích tối đa P (Vmax) ≤30cm nước. 
Chúng  tôi  thường  yêu  cầu  bệnh  nhân  tự 
đặt  thông  qua  van  lấy  nước  tiểu  4‐6  lần  mỗi 
ngày  và  1‐2  lần  vào  ban  đêm  nhằm  tránh  các 

thoảng nước tiểu són qua van vì ngủ quên. Có 
4  TH  (16%)  thường  són  qua  van  ban  đêm,  tất 
cả đều vì ngủ quên, thời gian giữa 2 lần thông 
còn tương đối ngắn (2‐3 giờ) và thời gian theo 
dõi sau mổ mới hơn 3 tháng. 
Bảng 6. Phân loại dựa vào khả năng kiểm soát nước 
tiểu. 
Số bệnh
Tỷ lệ Phân loại
nhân

biến  chứng  khi  nước  tiểu  quá  nhiều  trong  túi 


Kiểm soát ngày và đêm

và  thời  gian  tiếp  xúc  của  nước  tiểu  với  niêm 

Hoàn toàn cả ngày và đêm

12

48%

Hoàn toàn ban ngày, thỉnh
thoảng không được ban đêm

9

36%

Kiểm soát được ban ngày,
không kiểm soát được ban đêm

4

16%

Trung
bình

Không kiểm soát được cả ngày
lẫn đêm


0

0%

Kém

mạc ruột quá lâu. 

Tai biến – biến chứng trong và sau phẫu thuật 
Trong  khi  phẫu  thuật,  không  ghi  nhận  tai 
biến xảy ra. Có 2 TH (8%) nhiễm trùng vết mổ 
trong  thời  gian  hậu  phẫu  làm  thời  gian  nằm 
viện kéo dài. Có 2 TH (8%) nhiễm trùng đường 
tiết  niệu  trên  sau  rút  thông  bàng  quang  và 
thông  qua  van,  cả  2  đều  cải  thiện  nhanh  với 
đặt  lại  thông,  bơm  rửa  sạch  bàng  quang  với 
nước  muối  0,9%  pha  Bétadine  và  kháng  sinh. 
Đa số bệnh nhân đáp ứng tốt với điều trị. 

282

Tốt

Thao tác khi đặt thông 
Hầu hết bệnh nhân (92%) đều tự đặt thông 
dễ dàng, 1 trường hợp bị chấn thương cột sống 
cổ, liệt cả 4 chi nên cần người khác giúp đỡ. 
Bảng 7: Phân loại dựa vào độ khó khi tự thông. 
Thao tác khi đặt Dễ dàng Khó khăn Cần người trợ


Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

thông

giúp

Số trường hợp

24

0

1

Tỷ lệ

92%

0

4%

Tính thẩm mỹ của van 
Van nhỏ, có thể che dấu dưới quần lót thông 
thường. Miệng van ngay hố chậu phải, rất thuận 
lợi  đối  với  người  thuận  tay  phải.  So  sánh  với 
những van để hồi tràng còn nguyên ống thì tính 

thẩm mỹ rõ ràng hơn hẳn. 

BÀN LUẬN 
Lý do chọn ruột thừa làm vật liệu tạo van 
Từ  năm  1980,  khi  Mitrofanoff  công  bố  kỹ 
thuật  tạo  van  kiểm  soát  nước  tiểu  bằng  ruột 
thừa  thì  phương  pháp  này  nhanh  chóng  được 
phổ  biên.  Kỹ  thuật  này  chứng  minh  được  tính 
ưu  việt  so  với  các  loại  van  kiểm  soát  khác  nhờ 
tính  hiệu  quả  và  sự  đơn  giản  trong  kỹ 
thuật(1,5,7,11,15).. Hiện nay, ruột thừa vẫn là vật liệu 
được lựa chọn đầu tiên của các bác sĩ niệu khoa 
khi cần làm van chuyển lưu nước tiểu ra da có 
kiểm soát. Nhiếu tác giả, dù trong mổ mở(5,7) hay 
nội soi, thậm chí có hỗ trợ của robot(6,14) vẫn cho 
rằng dùng ruột thừa trong tạo van nên được ưu 
tiên chọn lựa. 
Ruột thừa có những đặc điểm sau: 
‐ Ruột thừa sẵn có hình dạng và kích thước 
phù hợp để tạo van, (dài 6‐10cm, lòng nhỏ, vừa 
đủ  một  thông  cỡ  10‐12  Fr)  nên  có  thể  sử  dụng 
ngay mà không cần sửa chữa do đó sẽ rút ngắn 
thời gian phẫu thuật và giảm các biến chứng sau 
mổ. 
‐  Ruột  thừa  thường  nằm  ở  vị  trí  thích  hợp, 
vùng  hố  chậu  phải,  miệng  van  đưa  ra  da  cũng 
nằm  ở  hố  chậu,  nếu  bn  thuận  tay  phải  thì  rất 
thích hợp. 
‐  Mạc  treo  ruột  thừa  dễ  phẫu  tích  và  cấp 
máu tốt. 


Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  

Nghiên cứu Y học

‐  Không  ảnh  hưởng  tới  sự  vận  chuyển  của 
đường tiêu hoá khi không sử dụng ống tiêu hoá 
để tạo hình bàng quang. 
‐  Ruột  thừa  không  có  chức  năng  thật  sự 
quan trọng, không thể thay thế trong cơ thể nên 
việc  sử  dụng  ruột  thừa  làm  van  cũng  ít  ảnh 
hưởng tới toàn bộ cơ thể. 
Có  nhiều  cách  thức  để  tạo  van  chuyển  lưu 
như  dùng  đoạn  hồi  tràng  nguyên  ống,  kết  hợp 
với  lồng  ruột  như  Kock,  làm  van  thủy  lực  như 
Benchekroun(8).  Những  kiểu  van  này  thiếu  tính 
thẩm mỹ (Kock, Benchekroun), sử dụng vật liệu 
không  tan  để  cố  định  van  và  có  nhiều  biến 
chứng  như  sa  miệng  van,  tháo  lồng  (túi  Kock). 
Kock  là  tác  giả  đầu  tiên  trong  lĩnh  vực  phẫu 
thuật  chuyển  lưu  ra  da  có  kiểm  soát(8).  Tuy 
nhiên,  vì  có  nhiều  biến  chứng  trong  tạo  van 
chuyển  lưu  lẫn  van  chống  trào  ngược  (trong 
cắm niệu quản), nên mặc dù đã được nhiều tác 
giả  như  Skinner,  Boyd,  Lieskovsky  cố  công  cải 
biên  nhưng  phương  pháp  Kock  đã  dần  bị  lãng 
quên. 
Cũng  có  những  cách  khác  tạo  van  chuyển 
lưu  có  khẩu  kính  nhỏ  như  Yang‐Monti  hay  kỹ 
thuật  Mitrofanoff  với  vật  liệu  khác  như  niệu 

quản hay tai vòi (trên phụ nữ) nhưng ruột thừa 
vẫn  là  vật  liệu  sẵn  sàng  nhất(4,7,8).  Tuy  nhiên  để 
có thể sử dụng được ruốt thừa, vẫn đòi hỏi một 
số điều kiện như: 
‐ Phải đủ dài, tối thiểu trên 6 cm. 
‐ Có mạch máu nuôi tốt và mạc treo đủ dài. 
‐ Không ở vị trí bất thường. 

Cải biên kỹ thuật tao van ruột thừa 
Vẫn theo nguyên lý của Mitrofanoff, đó là sử 
dụng ống có đường kính nhỏ và tạo một lực ép 
từ ngoài lên thành ống để khép ống và kiểm soát 
nước tiểu, chúng tôi có các cải biên sau: 
‐ Không tạo đường hầm dưới niêm mạc khi 
cắm ruột thừa vào BQ mà cắm trực tiếp tận‐bên 
ruột thừa vào bàng quang. 

283


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

‐  Tạo  đường  hầm  chéo  xuyên  cân  cơ  thẳng 
bụng là lớp cơ dày nhất của thành bụng trước. Ở 
đây, chúng tôi đã lợi dụng cơ thẳng bụng như 1 
cơ thắt vân (giống như cơ thắt vân niệu đạo) để 
khép  lại  ống  vì  bản  thân  cơ  thẳng  bụng  là  cơ 
vân, có thể vận động chủ động được.  

Việc  tạo  đường  hầm  dưới  niêm  hay  dưới 
thanh mạc trên thành ruột non khá khó. Ngược 
lại việc tạo đường chéo xuyên cân cơ thẳng đơn 
giản dễ thực hiện hơn. 
Một vấn đề nữa, có vai trò quan trọng là tính 
an  toàn  của  van  kiểm  soát.  Có  thật  sự  rất  cần 
thiết  tạo  một  van  chuyển  lưu  thật  kín  và  chịu 
được áp lực cao hay không? 
Vấn đề chính là tạo một bàng quang mới với 
áp lực thấp trong thì chứa đựng(2,7). 
Để  bảo  vệ  đường  tiết  niệu  trên,  tránh  biến 
chứng trào ngược bàng quang‐niệu quản thì áp 
lực trong lòng bàng quang phải ≤ 30‐40cm nước. 
Nguyên tắc ”mở ống ruột” trong tạo hình cũng 
là nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu này, vì vậy, 
cũng còn được gọi là tạo hình bàng quang kiều 
”áp  lực  thấp”.  Áp  lực  trong  bàng  quang  mới, 
nếu đạt yêu cầu, thì hầu như luốn < 40 cm nước. 
Để tránh rò rỉ nước tiểu qua van thì van cũng chỉ 
cần kín với áp lực > 40cm nước là đủ. 
Một điều cần chú ý nữa là nếu vì một lý do 
nào  đó  áp  lực  tròng  bàng  quang  mới  >40  cm 
nước thì van chuyển lưu kín vừa đủ sẽ an toàn 
hơn.  Rò  rỉ  nước  tiểu  sẽ  làm  giảm  áp  lực  trong 
bàng  quang  mới,  bớt  áp  lực  trào  ngưỡc  lên 
đường  tiết  niệu  trên,  đồng  thời  báo  động  cho 
bệnh nhân là đã đến lúc tự thông.  
Khi tạo hình bàng quang, cả đối với mở rộng 
lẫn  thay  thế,  thì  cảm  giác  mắc  tiểu  của  bệnh 
nhân  thường  giảm  sút  hoặc  mất.  Ban  ngày, 

người  bệnh  có  thể  cảm  thấy  tức  nặng  vùng  hạ 
vị, hẹn giờ đặt thông tiểu 3‐5giờ/lần nhưng vào 
ban đêm, ở người bình thường, việc bài tiết nước 
tiểu  thường  giảm  do  tác  dụng  của  Hormon 
chống  bài  niệu  ADH  nhưng  ở  người  tạo  hình 

284

bàng  quang  (đặc  biệt  bàng  quang  thay  thế)  thì 
lượng nước tiểu ban đêm vẫn không ít hơn ban 
ngày trong khi giấc ngủ thường kéo dài khoảng 
6‐7h liên tục, Bàng quang có thể bị căng chướng 
quá  mức  khi  bệnh  nhân  chưa  có  thói  quen  trở 
dậy  đặt  thông.  Điều  đó  có  thể  gây  nguy  hiểm 
khi van kiểm soát quá kín. 
Kỹ thuật tạo van chuyển lưu, tương tự như 
kỹ thuật cắm lại niệu quản vào ruột, nếu cố gắng 
chống ”trào ngược” có thể tăng tỷ lệ bị hẹp. Khi 
ấy, lợi bất cập hại. 
Quan  điểm  của  chúng  tôi  là  tạo  van  kiểm 
soát  đủ  kín  để  giữ  được  áp  lực  khoảng  40cm 
nước là đủ và an toàn. Việc này: 
‐  Nhằm  đảm  bảo  khả  năng  kiểm  soát  nước 
tiểu trong pha chứa đựng của bàng quang. Theo 
thới  gian,  bàng  quang  mới  sẽ  giảm  các  cơn  co 
thắt, dung tích tăng dần, đồng thời áp lực giảm 
dần.  Điều  này  có  nghĩa  là  khả  năng  kiểm  soát 
của van sẽ tăng dần theo thời gian. 
‐  Nhằm  tránh  được  các  biến  chứng  do  trào 
ngược lên niệu quản, bảo vệ thận. 


Có nên khâu kín cổ bàng quang? 
Có 2 nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu này: 
(1) chuyển lưu ra da với túi chứa đối với bướu 
bàng quang và (2) chuyển lưu ra da đối với bàng 
quang hỗn loạn thần kinh.  
Ở nhóm 1, với 7 bệnh nhân, bàng quang đã 
được cắt bỏ hoàn toàn và đầu trong niệu đạo đã 
được khâu bít lại. 
Ở nhóm 2, với 18 bệnh nhân, van ruột thừa 
được kết hợp với làm rộng bàng quang (12 TH) 
hoặc  trên  bàng  quang  tự  nhiên  (6  TH).  Đối  với 
những  TH  này,  chúng  tôi  không  chủ  trương 
đóng kín cổ bàng quang, để lại đường thông với 
niệu đạo như là một van xả an toàn. 
Mục đích chính để khâu bít cổ bàng quang là 
để  tránh  tiểu  không  kiểm  soát  sau  mổ.  Trong 
nghiên  cứu  này,  có  8  bệnh  nhân  bị  tiểu  không 
kiểm  soát  trước  mổ  (3/9  TH  bàng  quang  giảm 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 

trương  lực  và  5/9  TH  bàng  quang  tăng  trương 
lực). Tất cả đều được phẫu thuật làm rộng bàng 
quang để tăng dung tích và giảm áp lực. Chúng 
tôi cho rắng làm sao cho thể tích chức năng bàng 
quang mới (V ≈ 500ml, Pvmax ≤ 30‐40 cm nước) 

đủ để chứa nước tiểu trong khoảng 3‐5 giờ là đạt 
yêu  cầu.  Khi  đó,  đường  niệu  đạo  là  van  xả  an 
toàn:  là  lối  thoát  duy  nhất  còn  lại  trong  trường 
hợp  van  gặp  trục  trặc  không  sử  dụng  được, 
tránh được các biến chứng do tăng áp lực trong 
lòng  bàng  quang  mới,  đồng  thời  cũng  để  báo 
đông cho bệnh nhân đã đến lúc cần thông tiểu.  
Đường  niệu  đạo  đặc  biệt  cần  thiết  sau  khi 
bệnh nhân xuất viện. Lúc ấy, bệnh nhân phải tự 
chăm sóc và đặt thông ở nhà, xa các trung tâm 
niệu khoa. Nếu không đặt được thông qua van 
chuyển  lưu  thì  việc  tháo  lưu  nước  tiểu  qua 
đường  niệu  đạo  là  biện  pháp  hữu  hiệu  cho  tới 

Nghiên cứu Y học

khi quay lại với các chuyên gia để sửa chữa lại 
van kiểm soát. 

Hiệu quả của van trong nghiên cứu này 
Sau thời gian theo dõi trung bình 34,6 tháng 
± 23 trên 25 trường hợp chuyển lưu nước tiểu ra 
da  có  kiểm  soát  bằng  van  ruột  thừa  chúng  tôi 
thu được kết quả như sau: 
‐ Nếu dựa vào tiêu chuẩn thời gian giữa 2 lần 
thông: 20 TH (80%) tốt, 5 TH (20%) trung bình.  
‐ Nếu dựa vào tiêu chuẩn khả năng kiểm soát : 
21 TH (82%) tốt, 4 TH (16%) trung bình. 
‐  Nếu  dựa  vào  tiêu  chuẩn  thao  tác  khi  đặt 
thông: Hấu hết bệnh nhân (24TH = 92%) đều tự 

đặt thông dễ dàng, 1 trường hợp bị chấn thương 
cột sống cổ, liệt cả 4 chi nên cần người khác giúp 
đỡ, không phải do van có vấn đề. 

Bảng 8: Kết quả đánh giá van ruột thừa so sánh với các công trình khác. 
Tác giả
Woodhouse (1994)

15)

Số bệnh nhân

Thời gian theo dõi trung bình

Tỷ lệ % tốt

54

3 tháng

91

(5)

9

> 10 năm

100


(1)

74

46 tháng

93

28

126 tháng

89

Wille (2011)

29

14,7 tháng

97

Nghiên cứu này

25

34,6 tháng

80 – 92


Fishwick (2000)

Castellan (2004)

Sahadevan (2007)(11)
(14)

Nhiều tác giả trên thế giới đã sử  dụng ruột 
thừa  làm  van  chuyển  lưu.  Hầu  như  tất  cả  đều 
chỉ dựa vào tiêu chí mức độ dễ dàng thao tác khi 
tự đặt thông để đánh giá. Đây là tiêu chuẩn đơn 
giản,  riêng  biệt,  tự  bản  chất  của  van  ruột  thừa. 
Báo cáo của Woodhouse(15) với thời gian theo dõi 
khá ngắn, chỉ trong 3 tháng, đã cho kết quả tốt là 
91%.  Còn  với  Fishwick(5),  để  chứng  tỏ  van  ruột 
thừa bền vững theo thời gian, với thời gian theo 
dõi  trên  10  năm,  đã  cho  kết  quả  là  100%  tốt. 
Wille(14)  với  phẫu  thuật  nội  soi  có  robot  hỗ  trợ, 
cho kết quả tốt  là  97%.  Castellan(1),  với  74  bệnh 
nhân, có 93% tốt và 5 TH (7%) còn lại có vấn đề 
về van, chủ yếu là hẹp. 
Chúng  tôi  dựa  vào  3  tiêu  chí  khác  nhau  để 
đánh  giá  hiệu  quả  của  van.  Nếu  chỉ  dựa  vào 

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  

mức độ dễ dàng thao tác khi tự đặt thông thì kết 
quả tốt là 92%, tương đương với các tác giả khác, 
và không khác nhiều với kết quả của một người 
trong  nhóm  nghiên  cứu  này  với  16  TH  đã  báo 

cáo  năm  2008(10).  Nếu  đưa  thêm  2  tiêu  chí  nữa: 
thời gian giữa 2 lần thông và khả năng kiểm soát 
nước  tiểu,  nói  lên  mối  tương  quan  giữa  van 
chuyển  lưu  và  bàng  quang  mới  để  có  cái  nhìn 
toàn thể về chức năng van thì kết quả tốt cũng 
được ≥ 80%. Kết quả này chắc chắn sẽ cải thiện 
theo thới gian khi bàng quang mới giãn nở dần 
và bệnh nhân tập quen với thao tác tự đặt thông. 

KẾT LUẬN 
Ruột thừa là vật liệu sẵn sàng, hữu dụng để 
làm  van  chuyển  lưu  trong  phẫu  thuật  chuyển 

285


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013

lưu  ra  da  có  kiểm  soát  với  kết  quả  tốt  và  bền 
vững theo thời gian. 

9.

Nguyễn  Văn  Ân,  Đào  Quang  Oánh,  Vũ  Văn  Ty,  Vũ  Lê 
Chuyên, Nguyễn Tuấn Vinh, Bùi Văn Kiệt, Phan Trường Bảo, 
Dương Quang Triết (2001). Phối hợp phương pháp thông tiểu 
sạch  cách  quãng  với  phẫu  thuật  tạo  hình  bàng  quang  bằng 
ruột. Y Học TP Hồ Chí Minh 5 (1): 25‐28. 


TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Castellan MA, Gosalbez R, Labbie A, Ibrahim E, Disandro M 
(2005).  Outcomes  of  continent  catheterizable  stomas  for 
urinary and fecal incontinence: a comparison among different 
tissue options. BJU Int 95: 1053‐1057. 

10.

Nguyễn  Văn  Ân,  Hà  Văn  Bàng,  Lê  Văn  Hiếu  Nhân,  Phạm 
Hữu  Đoàn  (2008).  Áp  dụng  phương  pháp  Mitrofanoff  (cải 
biên) bằng ruột thừa để chuyển lưu nước tiểu có kiềm chế tại 
BV Bình Dân. Y Học TP HCM 12 (1): 1‐6. 

2.

Dahl MD, McDougal WS (2102). Use of intestinal segments in 
urinary  diversion.  In  Campbell  –  Walsh  Urology,  10th  Ed.  , 
Elsevier  –  Saunders,  Philadelphia  –  USA,  Chapter  85:  2411‐
2459. 

11.

Sahadevan  K,  Pickard  RS,  Neal  DE,  Hasan  TS  (2007).  Is 
continent  diversion  using  the  Mitrofanoff  principle  a  viable 
long‐term  option  for  adults  requiring  bladder  replacement? 
BJU Int 102: 236‐240. 


3.

Đào Quang Oánh (2008). Bàng quang chuyển lưu ra da: kết 
quả trên những trường hợp theo dỏi trên 3 năm tại BV Bình 
Dân. Y Học TP Hồ Chí Minh 12 (1): 251‐256. 

12.

Riedmiller  H,  Burger  R,  Muller  S,Thuroff  J,  Hohenfellner  R 
(1990).  Continent  appendix  stoma:  a  modification  of  the 
Mainz pouch technique. J Urol 143: 1115‐1117. 

4.

Fichtner  J,  Fisch  M,  Hohenfellner  R  (1996).  Appendiceal 
continence mechanisms in continent urinary diversion. World 
J Urol 14: 105‐107. 

13.

Rink M, Kluth L et al (2010). Continent catheterizable pouches 
for urinary diversion. Eur Urol Supp 9: 754‐762. 

5.

Fishwick JE, Gouggh DCS, OʹFlynn KJ (2000). The Mitrofanoff 
procedure: does it last? BJU Int 85: 496‐497. 

14.


6.

Gundeti  MS,  Acharya  SS,  Zagaja  GP,  Shalhav  AL  (2010). 
Paediatric  robotic‐assisted  laparoscopic  augmentation 
ileocystoplasty  and  Mitrofanoff  appendicovesicostomy 
(RALIMA):  feasibility  of  and  initial  experience  with  the 
University of Chicago technique. BJU Int 107: 962‐969. 

Wille MA, Jayram G, Gundeti MS (2011). Feasibility and early 
outcomes  of  roboticassisted  laparoscopic  Mitrofanoff 
appendicovesicostomy  in  patients  with  prune  belly 
syndrome. BJU Int 109: 125‐129. 

15.

Woodhouse  CRJ,  McNeil  AE  (1994).  The  Mitrofanoff 
principle: expanding upon a versatile technique. BJU 74: 447‐
453. 

16.

Zoltan KA, Daniel BD, Orsolya EO et al (2010). Complications 
after  bladder  augmentation  or  substitution  in  children:  a 
prospective study of 86 patients. BJU Int 108: 282‐289 

7.

McAndrew  HF,  Malone  PSJ  (2002).  Continent  catheterizable 
conduits:  which  stoma,  which  conduit  and  which  reservoir? 
BJU Int 89: 86‐89.  


8.

McKiernan  JM,  DeCastro  GJ,  Benson  MC  (2012).  Continent 
cutaneous diversion. In Campbell – Walsh Urology, 10th Ed. , 
Elsevier  –  Saunders,  Philadelphia  –  USA,  Chapter  86:  2460‐
2478. 

 

Ngày nhận bài báo   

 

 

Ngày phản biện nhận xét bài báo: 
Ngày bài báo được đăng: 

 

 

 

16‐05‐2013 
29‐05‐2013 
 15–07‐2013 

 


286

Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  



×