Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Kết quả của hóa dự phòng ở bệnh nhân thai trứng nguy cơ cao tại Bệnh viện Từ Dũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.24 KB, 6 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

KẾT QUẢ CỦA HÓA DỰ PHÒNG Ở BỆNH NHÂN THAI TRỨNG  
NGUY CƠ CAO TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ 
Trần Nhật Huy*, Võ Minh Tuấn*, Lê Tự Phương Chi* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: So sánh tỷ lệ tân sinh nguyên bào nuôi của bệnh nhân hậu thai trứng nguy cơ cao giữa hai nhóm 
có và không có hóa dự phòng sau 6 tháng theo dõi tại bệnh viện Từ Dũ Tp.HCM. 
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu trên toàn bộ bệnh nhân thai trứng nguy cơ cao nhập bệnh viện 
Từ Dũ từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2012. Bệnh nhân được chia thành 2 nhóm:56 được hóa dự phòng với phác 
đồ MTX – FA, 112 chỉ theo dõi mà không hóa dự phòng. Kết quả được đánh giá bằng việc so sánh tỷ lệ tân sinh 
nguyên bào nuôi giữa hai nhóm sau 6 tháng theo dõi. 
Kết quả: Tỷ lệ TSNBN ở nhóm hóa dự phòng là 14,3% so với 25% của nhóm theo dõi, tuy nhiên sự khác 
biệt này không có ý nghĩa thống kê, với giá trị P > 0,05 (KTC 95% = 0,67 – 3,45). Thời gian βhCG âm tính ở hai 
nhóm hóa dự phòng và theo dõi lần lượt là 8,5 ± 2,3 tuần và 9,5 ± 2,1 tuần,P > 0,05. Các tác dụng ngoại ý với 
phác đồ MTX – FA thường gặp bao gồm: Buồn nôn (39,3%), chán ăn (37,5%), khô miệng (37,5%). 
Kết luận:Việc sử dụng hóa dự phòng không làm giảm tỷ lệ tân sinh nguyên bào nuôi ở các bệnh nhân thai 
trứng nguy cơ cao sau 6 tháng theo dõi.  
Từ khóa: Thai trứng nguy cơ cao, tân sinh nguyên bào nuôi liên quan thai kỳ. 

ABSTRACT 
OUTCOMES OF PROPHYLACTIC CHEMOTHERAPY IN PATIENTS  
WITH HIGH – RISK HYDATIDIFORM MOLE AT TU DU HOSPITAL (2013). 
Tran Nhat Huy, Vo Minh Tuan, Le Tu Phuong Chi  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 58‐63 
Objective:  To  compare  the  rate  of  gestational  trophoblastic  neoplasia  in  patients  with  high  –  risk 
hydatidiform mole between the groups ofusing and not using prophylactic chemotherapy that following up up to 
6 months at Tu Du hospital. 


Methods:  A prospective cohort studyrecruited all paitents with high risk hydratidiform mole admitted Tu 
Du hospital between 8/2012 and 11/2012.  56 patients were undergone prophylactic chemotherapy with MTX ‐ 
FA,  while  the  other  112  patients  were  not  applied  this  regimen.  After  6  months,  the  result  was  evaluated  by 
comparing the rate of gestational trophoblastic neoplasia between two groups. 
Results: The incidence rate of gestational trophoblastic neoplasia between prophylactic chemotherapy and none 
groups were 25% versus 14.3%, however, the statistical significance was not found ( p>0.05, CI 95%: 0.67 – 3.45). 
There was speedy regression of serum βhCG levels to undectectable in chemoprophylaxis group in a mean time of 8,5 
weeks (±2.3 weeks) as against 9.5 weeks (±2.1 weeks) in group without chemoprophylaxis, (P=0.01). There were some 
side effects in the MTX‐FA aim notedsuch as nausea (39.3%), anorexia (375%), dry mouth (37.5%). 
Conclusions: Applyingprophylactic chemotherapy rountinely wouldn’t help to reduce the rate of gestational 
trophoblastic neoplasia in patients of high – risk hydatidiform mole after 6 months follow – up.  

* Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP HCM 
Tác giả liên lạc. BS Võ Minh Tuấn 
ĐT: 0909727199  Email:  

58

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

Key words: High – Risk hydatidiform mole, Gestational trophoblastic neoplasia. 
phòng ở bệnh nhân TTNCC trên thế giới và tình 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
hình  thực  tế  tại  bệnh  viện  Từ  Dũ  chúng  tôi 
Thai trứng là một dạng bệnh lý nguyên bào 

quyết định thực hiện đề tài: Kết quả của hóa dự 
nuôi liên quan đến thai kỳ. Tần suất bệnh thay 
phòng  ở  bệnh  nhân  thai  trứng  nguy  cơ  cao  tại 
đổi  khoảng  0,6‐2/1000  các  thai  kỳ  bình  thường 
bệnh  viện  Từ  Dũ.Với  câu  hỏi  nghiên  cứu:  Kết 
và  tùy  thuộc  từng  vùng  lãnh  thổ,  tập  quán  ăn 
cục hậu thai trứng nguy cơ cao giữa hai nhóm 
uống, điều kiện kinh tế xã hội(6)… Sau khi điều 
có  và  không  sử  dụng  1  đợt  hóa  dự  phòng  có 
trị  thai  trứng,  vẫn  còn  một  tỷ  lệ  đáng  kể  diễn 
khác biệt hay không?  
tiến  thành  thai  trứng  xâm  lấn  hoặc  ung  thư 
Mục tiêu nghiên cứu 
nguyên bào nuôi, thường gọi chung là tân sinh 
nguyên bào nuôi (TSNBN). Khi bệnh nhân thai 
Mục tiêu chính 
trứng diễn tiến thành TSNBN sẽ làm tăng gánh 
So sánh tỷ lệ tân sinh nguyên bào nuôi hậu 
nặng  điều  trị  cũng  như  dự  hậu  xấu  hơn  rất 
thai  trứng  nguy  cơ  cao  giữa  hai  nhóm  có  và 
nhiều.  Hóa  dự  phòng  được  xem  là  một  biện 
không có hóa dự phòng sau 6 tháng theo dõi. 
pháp  giúp  làm  giảm  tỷ  lệ  TSNBN  hậu  thai 
Mục tiêu phụ 
trứng. Tuy nhiên khi sử dụng hóa chất sẽ mang 
So sánh thời gian βhCG trở về âm tính giữa 
lại  nhiều  khuyết  điểm  như  thời  gian  nằm  viện 
hai nhóm có và không có hóa dự phòng. 
kéo dài, chi phí nằm viện tăng, tác dụng ngoại ý 
của hóa chất...Trong khi đó ưu điểmlàm giảm tỷ 

lệ  TSNBN  hậu  thai  trứng  cũng  chưa  thật  sự  rõ 
ràng. Hóa dự phòng hầu như không có tác dụng 
ở các bệnh nhân thai trứng nguy cơ thấp. Vấn đề 
dùng  hóa  dự  phòng  trên  bệnh  nhân  thai  trứng 
nguy  cơ  cao  thì  còn  nhiều  tranh  cãi.Kim  DS 
(1986)  sử  dụng  Methotrexate  để  dự  phòng  trên 
các  bệnh  nhân  TTNCC  cho  thấy  tỷ  lệ  TSNBN 
giảm  từ  47,4%  xuống  còn  14,3%(5).Uberti 
(2009)dùng  Actinomycin  D  trên  các  bệnh  nhân 
TTNCC  cũng  cho  thấy  tỷ  lệ  TSNBN  giảm  từ 
34,3%  xuống  còn  18,4%(9).  Tuy  nhiênAyhan  A 
(1990)  khi  dùng  hóa  dự  phòng  trên  bệnh  nhân 
TTNCC lại cho thấy không có sự khác biệt với tỷ 
lệ TSNBN lần lượt ở hai nhóm là 25,0% ‐ 26,2%(1). 
Kashimura  (1986)  cũng  đưa  ra  kết  luận  hóa  dự 
phòngkhông làm giảm tỷ lệ ung thư NBN ở các 
bệnh  nhân  TTNCC  mà  còn  mang  lại  các  tác 
dụng ngoại ý đáng kể(4).  
Tại bệnh viện Từ Dũ, năm 2011có 959 bệnh 
nhân  thai  trứng  nhập  viện,  trong  đó  có  754 
bệnh nhân là TTNCC. Chúng ta vẫn đang quản 
lý một số lượng bệnh nhân thai trứng tương đối 
lớn nhưng chưa có nghiên cứu nào về vấn đề sử 
dụng hóa dự phòng trên các bệnh nhân cụ thể 
tại  Việt  Nam.  Từ  những  tranh  luận  về  hóa  dự 

Sản Phụ Khoa

Mô  tả  các  tác  dụng  ngoại  ý  thường  gặp  ở 
nhóm bệnh nhân sử dụng hóa dự phòng. 


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Đoàn hệ tiền cứu. 

Dân số mục tiêu 
Bệnh nhân thai trứng nguy cơ cao theo tiêu 
chuẩn của Goldstein. 

Dân số nghiên cứu 
Bệnh nhân thai trứng nguy cơ cao điều trị và 
theo dõi tại khoa Ung Bướu Phụ Khoa bệnh viện 
Từ Dũ. 

Dân số chọn mẫu 
Bệnh nhân thai trứng nguy cơ cao điều trị và 
theo dõi tại khoa Ung Bướu Phụ Khoa bệnh viện 
Từ Dũ từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2012, đồng 
ý tham gia nghiên cứu. 

Tiêu chuẩn nhận bệnh 
Bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  là  thai  trứng 
nguy cơ cao điều trị tại bệnh viện Từ Dũ trong 
thời  gian  nghiên  cứu  được  chia  thành  hai 
nhóm.  Nhóm  hóa  dự  phòng  gọi  là  «nhóm 

59


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

không  phơi  nhiễm»  và  nhóm  theo  dõi  gọi  là 
«nhóm phơi nhiễm». 

Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh  nhân  không  đồng  ý  tham  gia 
nghiên cứu. 
Bệnh  nhân  đã  được  hút  nạo  thai  trứng  ở 
tuyến dưới chuyển lên 
Bệnh  nhân  đã  được  chẩn  đoán  là  tân  sinh 
nguyên bào nuôi. 
Chẩn đoán hoặc nghi ngờ bệnh tâm thần. 
Bất thường chức năng gan, thận. 
Bệnh nhân có chống chỉ định với MTX. 

Ước lượng cỡ mẫu  
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho việc so 
sánh hai tỷ lệ trong nghiên cứu đoàn hệ. 

n = 

 

P1:  Tỷ  lệ  các  bệnh  nhân  được  chẩn  đoán 
TSNBN trong nhóm hậu thai trứng nguy cơ cao 
được hóa dự phòng với phác đồ MTX‐FA. Theo 
số  liệu  có  được  từ  khoa  Ung  Bướu  Phụ  Khoa 
bệnh viện Từ Dũ năm 2011 thì P1 = 12,5%. 

P2:  Tỷ  lệ  các  bệnh  nhân  được  chẩn  đoán 
TSNBN  trong  nhóm  hậu  thai  trứng  nguy  cơ 
cao  không  sử  dụng  hóa  dự  phòng.  Theo 
nghiên cứu có trước của Kim DS thì P2 gấp 3.3 
lần so với P1(5).  
Năng lực mẫu: 90% nên v = 1,28. 
Mức ý nghĩa: 95% nên u= 1,96. 
Tính ra n= 51 trường hợp cho mỗi nhóm, ước 
tính tỷ lệ mất dấu khoảng 10%, vậy cỡ mẫu tối 
thiểu là 56 trường hợp cho mỗi nhóm.  

Cách tiến hành và thu thập số liệu 
Bước  1:  Theo  quy  trình  ban  đầu  tại  bệnh 
viện, bệnh nhân được nhập khoa Ung Bướu Phụ 
Khoa  bệnh  viện  Từ  Dũ  với  chẩn  đoán  là  thai 
trứng  sẽ  được  bác  sĩ  ở  khoa  thăm  khám  lại  về 
lâm  sàng  ‐  βhCG  ‐  siêu  âm  và  các  xét  nghiệm 
cần  thiết  như:  Huyết  đồ,  chức  năng  gan  thận, 
tuyến giáp, phân tích nước tiểu. Sau khi đã xác 
định  chẩn  đoán,  phân  loại  nguy  cơ,  bệnh  nhân 

60

sẽ được tiến hành hút nạo thai trứng tại phòng 
mổ.  Các  bệnh  nhân  thai  trứng  không  thuộc 
nhóm  nguy  cơ  cao  sẽ  được  cho  về  ngày  hôm 
sau,  sau  đó  sẽ  được  đưa  vào  chu  trình  quản  lý 
bệnh  nhân  hậu  thai  trứng  (sẽ  trình  bày  ở  phần 
tiếp sau). 
Bước  2:  Việc  phân  nhóm  điều  trị  cho  bệnh 

nhân là do các bác sĩ tại khoa phòng quyết định. 
Theo đó, các bệnh nhân thai trứng nguy cơ cao 
thì sẽ có hai khuynh hướng điều trị tiếp theo sau 
hút  nạo  thai  trứng.  Khuynh  hướng  thứ  nhất  là 
các bệnh nhân này sẽ được sử dụng một đợt hóa 
dự  phòng  theo  phác  đồ  MTX‐FA  trong  vòng  8 
ngày. Sau 8 ngày điều trị bệnh nhân được đánh 
giá về lâm sàng, các tác dụng ngoại ý, nếu bệnh 
nhân ổn định không có tác dụng ngoại ý nghiêm 
trọng sẽ được cho về và được theo dõi tiếp bằng 
quá  trình  quản  lý  bệnh  nhân  hậu  thai  trứng. 
Khuynh  hướng  thứ  hai  là  các  bệnh  nhân  thai 
trứng nguy cơ cao sau khi hút nạo sẽ được cho 
về ngay ngày hôm sau mà không sử dụng một 
đợt hóa dự phòng nào. Các bệnh nhân này sau 
đó  cũng  được  theo  dõi  bằng  quá  trình  quản  lý 
bệnh nhân hậu thai trứng. 
Phác  đồ  hóa  dự  phòng  được  sử  dụng  là 
Methotrexate  kết  hợp  với  Acid  Folinic  trong 
vòng 8 ngày. Theo đó, bệnh nhân được tiêm bắp 
MTX với liều 1mg/kg/ngày vào các ngày 1,3,5,7. 
Xen kẽ với đó là  Acid  Folinic  tiêm  bắp  với  liều 
0,1mg/kg/ngày vào các ngày 2,4,6,8.  
Tác dụng ngoại ý được phát hiện bằng việc 
thăm khám lâm sàng hằng ngày và làm các xét 
nghiệm cần thiết nếu có các dấu hiệu nghi ngờ 
trên lâm sàng. 
Bước  3:  Mời  bệnh  nhân  tham  gia  nghiên 
cứu.  Đây  là  nghiên  cứu  đoàn  hệ  quan  sát  tiền 
cứu,  tác  giả  không  can  thiệp  vào  phương  pháp 

điều trị. Sau khi các bệnh nhân được chẩn đoán 
là thai trứng nguy cơ cao, đã được quyết định sử 
dụng  hóa  dự  phòng  hay  không  bởi  bác  sĩ  lâm 
sàng sẽ được mời tham gia nghiên cứu. Lúc này 
tác  giả  thực  hiện  đề  tài  sẽ  đọc  bản  đồng  thuận 
tham  gia  nghiên  cứu,  giải  thích  mục  đích  và 
phương  pháp  tiến  hành  nghiên  cứu,  cũng  như 

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
giải đáp các thắc mắc của bệnh nhân về nghiên 
cứu. Nếu đồng ý tham gia bệnh nhân sẽ ký vào 
bảng đồng thuận, các bệnh nhân không đồng ý 
tham  gia  nghiên  cứu  sẽ  được  tiếp  tục  điều  trị, 
theo  dõi  theo  phác  đồ  bệnh  viện,  không  có  bất 
kỳ sự phân biệt đối xử nào. 
Bước 4: Thu thập số liệu ban đầu 
Số  liệu  sẽ  được  thu  thập  từ  việc  hỏi  bệnh, 
thăm khám lâm sàng, cũng như các xét nghiệm 
từ hồ sơ bệnh án. Đây là lần lấy số liệu đầu tiên 
lúc bệnh nhân đang nằm viện, các lần lấy số liệu 
tiếp  sau  sẽ  được  tiến  hành  lúc  bệnh  nhân  tái 
khám theo lịch khám hậu thai trứng. Mỗi hồ sơ 
sẽ  được  đánh  dấu  bằng  một  số  cụ  thể  để  dễ 
quản lý lúc tái khám. 
Bước 5: Quản lý bệnh nhân hậu thai trứng 
Quản lý bệnh nhân  hậu  thai  trứng  là  giống 
nhau  giữa  nhóm  hóa  dự  phòng  và  không  hóa 

dự phòng. Theo đó, các bệnh nhân này sẽ được 
tái  khám  mỗi  hai  tuần  một  lần  hoặc  ngay  khi 
nào có các triệu chứng nghi ngờ như: Ra huyết 
âm  đạo  bất  thường,  khó  thở,  ho  kéo  dài,  nhức 
đầu, đau bụng…. Mỗi lần tái khám, bệnh nhân 
được  đánh  giá  về  lâm  sàng,  thử  βhCG  trong 
máu,  siêu  âm  khảo  sát  tử  cung  và  phần  phụ. 
Nếu  bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  là  tân  sinh 
nguyên  bào  nuôi  thì  sẽ  được  nhập  viện  lại  và 
điều trị theo phác đồ. Nếu bệnh nhân được đánh 
giá là diễn tiến tốt sẽ cho về phép và tái khám lại 
2 tuần sau đó. Quá trình tái khám như trên được 
lặp  lại  liên  tiếp  mỗi  2  tuần  cho  đến  khi  bệnh 
nhân  được  đánh  giá  hoặc  là  khỏi  bệnh  hoặc  là 
tân sinh nguyên bào nuôi.  

Mô tả các biến số thiết yếu 
Thai trứng nguy cơ cao: 
Biến danh định, bệnh nhân được chẩn đoán 
là TTNCC khi được chẩn đoán là thai trứng kèm 
với có một trong các tiêu chuẩn sau(3) 
Tuổi mẹ ≥ 40 tuổi. 
Nồng độ βhCG máu ≥ 100.000mUI/ml. 
Tử cung lớn hơn tuổi thai. 
Nang hoàng tuyến ≥ 6cm. 

Sản Phụ Khoa

Nghiên cứu Y học


Tiền căn bệnh nguyên bào nuô.i 
Tiền sản giật, cường giáp, thuyên tắc tế bào 
nuôi. 

TSNBN 
Bệnh nhân được chẩn đoán là TSNBN khi có 
một trong các tiêu chuẩn sa (8):  
βhCG bình nguyên sau 4 lần đo trong 3 tuần 
liên tiếp (ngày 1,7,14,21). 
βhCG  tăng  sau  3  lần  đo  trong  hai  tuần  liên 
tiếp (ngày 1,7,14). 
βhCG vẫn tồn tại sau 6 tháng điều trị. 
Chẩn  đoán  mô  học  là  ung  thư  nguyên  bào 
nuôi (có được từ các mẫu bệnh phẩm lấy được 
trong quá trình theo dõi khi có chẩn đoán nghi 
ngờ trên lâm sàng). 

Khỏi bệnh 
Bệnh nhân được chẩn đoán là khỏi bệnh khi 
βhCG < 5mIU/ml sau 3 lần đo liên tiếp. 
βhCG 
Biến liên tục, bệnh viện Từ Dũ đang sử dụng 
hệ thống xét nghiệm βhCG toàn phần của hãng 
Abbot.  Phương  pháp  xét  nghiệm  là  miễn  dịch 
huỳnh  quang,  đơn  vị  đo  lường  là  mUI/ml.  Giá 
trị âm tính quy ước là < 5mUI/ml. 
Thời gian βhCG âm tính 
Biến  liên  tục,  đơn  vị  tính  bằng  tuần,  là  thời 
gian tính từ lúc hút nạo thai trứng đến khi βhCG 
< 5mUI/ml lần đầu tiên. 


KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu 
Trong thời gian từ tháng 8 – 11/2012 có 215 
bệnh nhân thai trứng được nhập viện, trong đó 
có 170 bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ cao và 45 
bệnh nhân nguy cơ thấp. Tất cả bệnh nhân thuộc 
nhóm nguy cơ cao đều đủ tiêu chuẩn chọn mẫu 
nên chúng tôi đã mời tất cả các bệnh nhân này 
tham gia vào nghiên cứu. Không có bệnh nhân 
thai  trứng  nguy  cơ  cao  nào  từ  chối  tham  gia 
nghiên  cứu.  Trong  thời  gian  nghiên  cứu  có  2 
bệnh nhân thuộc nhóm theo dõi đã bỏ điều trị, 
số còn lại đều hoàn thành nghiên cứu, tỷ lệ mất 

61


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

dấu  là  1,18%.  Như  vậy,  chúng  tôi  đã  tiến  hành 
nghiên cứu trên 168 bệnh nhân thai trứng nguy 
cơ  cao  trong  đó  có  56  bệnh  nhân  được  hóa  dự 
phòng bằng phác đồ MTX‐FA và 112 bệnh nhân 
thuộc nhóm theo dõi không dùng hóa chất. 
Bảng 1: Các đặc điểm của dân số nghiên cứu 
Đặc điểm


Tuổi

Địa chỉ

Nghề
nghiệp

Học vấn

Kinh tế

βhCG(100
0mIU/ml)
Tuổi mẹ
Kích
thước TC

< 20
20 - 34
35 – 40
> 40
Tp.HCM
Tỉnh khác
Nội trợ
Nông dân
Công nhân
Văn phòng
Buôn bán
Khác
≤ cấp 1

Cấp 2
Cấp 3
> cấp 3
Khó khăn
Đủ sống
Dư giả
<201
201 - 760
≥760
<40
≥40
Nhỏ hơn
Bằng

Lớn hơn
NHT ≥
6cm

Không


MTX-FA
n =56
12(21,4%)
30(53,6%)
2(3,6%)
12(21,4%)
49(87,5%)
7(12,5%)
17(30,4%)

17(30,4%)
9(16,1%)
2(3,6%)
7(12,5%)
4 (7,1%)
29(51,8%)
21(37,5%)
1(1,8%)
5(8,9%)
9(16,1%)
46(82,1%)
1(1,8%)
10(17,9%)
29(51,8%)
17(30,4%)
44(78,6%)
12(21,4%)
6(10,7%)
29(51,8%)
21(37,5%)
44(78,6%)
12(21,4%)

Theo dõi
n=112
9(8,0%)
78(69,6%)
6(5,4%)
19(17,0%)
98(87,5%)

14(12,5%)
24(21,4%)
28(25,0%)
27(24,1%)
9(8,0%)
12(10,7%)
12(10,7%)
46(41,1%)
41(36,6%)
9(8,0%)
16(14,3%)
8(16,1%)
87(77,7%)
7(6,2%)
32(28,6%)
55(49,1%)
25(22,3%)
90(80,4%)
22(19,6%)
9(8,0%)
53(47,3%)
50(44,6%)
99(88,4%)
13(11,6%)

P(*)
0,06

1,00
0,48


đã  thực  hiện  phân  tích  đa  biến  nhằm  tìm  mối 
liên quan giữa các yếu tố với tỷ lệ TSNBN sau 6 
tháng theo dõi. Kết quả thu được cho thấy tỷ lệ 
TSNBN  ở  nhóm  hóa  dự  phòng  và  theo  dõi  lần 
lượt là 14,3% và 25%. Sự khác biệt này không có 
ý nghĩa thống kê, với giá trị P > 0,05. Kết quả này 
tương  đương  với  nghiên  cứu  của  Ayhan  A  với 
tỷ lệ tương ứng là 25% và 26,2%, nhưng khác với 
nghiên  cứu  của  Kim  DS  hay  Uberti.  Vì  những 
điều kiện khách quan, chúng tôi không thể thực 
hiện  thiết  kế  thử  nghiệm  lâm  sàng  cũng  như 
thời gian theo dõi chỉ dừng lại sau 6 tháng. Đây 
là những điểm cần khắc phục để kết luận đưa ra 
được mạnh mẽ, thuyết phục hơn. 
Bảng2: Tỷ lệ TSNBN sau 6 tháng theo dõi 
Kết quả
MTX-FA
Theo dõi
Tổng

0,23

TSNBN
8(14,3%)
28(25,0%)
36(21,4%)

Khỏi
48(85,7%)

84(75,0%)
132(78,6%)

RR
Ref
1,53

P(*)
0,31

(*): Poisson đa biến 

Thời gian βhCG âm tính 
Bảng 3: Thời gian gian βhCG âm tính 
0,44

Thời gian
βhCG âm tính
(tuần)

0,26

MTX-FA
n=48
TB
8,5

ĐLC
2,30


Theo dõi
n=84
TB
9,5

ĐLC
2,14

P(*)

0,01

(*): T‐Test 
0,79
0,64

0,09

(*): Kiểm định chi bình phương 
Bảng trên mô tả các đặc điểm về dịch tễ và 
các  yếu  tố  nguy  cơ  cao  của  bệnh  nhân  trong 
nghiên  cứu.  Thực  hiện  phép  kiểm  chi  bình 
phương cho thấy không có sự khác biệt giữa hai 
nhóm hóa dự phòng và theo dõi. Về triệu chứng 
lâm  sàng,  hầu  hết  các  bệnh  nhân  đều  trễ  kinh 
với hơn 50% có chảy máu âm đạo.  

Kết quả hóa dự phòng 

Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  thời  gian 

βhCG  âm  tính  ở  hai  nhóm  hóa  dự  phòng  và 
theo  dõi  lần  lượt  là  8,5±2,3  tuần  và  9,5±2,14 
tuần. Như vậy khi dùng hóa dự phòng thì thời 
gian  khỏi  bệnh  sẽ  ngắn  hơn  1  tuần  so  với 
nhóm  theo  dõi.  Sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa 
thống  kê  với  P  <  0,05,  nhưng  không  mang 
nhiều ý nghĩa về lâm sàng 
Nghiên  cứu  của  Renu  Sharma  (2011)  cũng 
cho  thấy  kết  quả  tương  tự(7).  Thời  gian  âm  tính 
của  βhCG  trong  nhóm  hóa  dự  phòng  và  theo 
dõi lần lượt là 7,3 và 9,7 tuần so với nghiên cứu 
của chúng tôi là 8,5 và 9,5 tuần. Tác giả Geng S 
(2011)  đưa  ra  thời  gian  βhCG  âm  tính  là  10,1 
tuần  cho  nhóm  hóa  dự  phòng(2).  Sự  khác  biệt 
nhỏ này là do ngưỡng âm tính của βhCG trong 

Để kiểm soát các yếu tố gây nhiễu, chúng tôi 

62

Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
nghiên  cứu  của  Geng  S  là  2mUI/ml  so  với  5 
mUI/ml trong nghiên cứu của chúng tôi.  

Tác dụng ngoại ý 
Trong quá trình theo dõi chúng tôi ghi nhận 
các  tác  dụng  ngoại  ý  trên  bệnh  nhân  hóa  dự 

phòng gồm: Cảm giác buồn nôn chiếm 39,3% có 
tỷ lệ cao nhất, tiếp theo là chán ăn và khô miệng 
cùng  chiếm  37,5%.  Có  lẽ  do  chỉ  dùng  một  đợt 
hóa  chất  nên  các  tác  dụng  nguy  hiểm,  ảnh 
hưởng đến điều trị chưa xuất hiện. 

KẾT LUẬN 
Trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 11 năm 
2012, nghiên cứu trên 168 bệnh nhân thai trứng 
nguy cơ cao tại bệnh viện Từ Dũ trong đó có 56 
bệnh  nhân  được  hóa  dự  phòng  và  112  bệnh 
nhân theo dõi mà không hóa dự phòng. Chúng 
tôi đưa ra các kết luận sau: 
Tỷ lệ TSNBN trong nhóm hóa dự phòng là 
14,3%,  trong  nhóm  theo  dõi  là  25%.  Theo  số 
liệu nghiên cứu cho thấy: Sử dụng hay không 
sử  dụng  MTX‐FA  không  làm  ảnh  hưởng  đến 
tỷ  lệ  TSNBN  sau  khi  hút  nạo  thai  trứng  nguy 
cơ cao trong thời gian theo dõi 6 tháng, với giá 
trị P > 0,05. 
Thời gian βhCG trở về âm tính ở nhóm hóa 
dự  phòng  ngắn  hơn  1  tuần  so  với  nhóm  theo 
dõi, sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê, 
với  giá  trị  P  <  0,05  nhưng  không  có  nhiều  ý 
nghĩa trên lâm sàng.  
Khi  dùng  hóa  dự  phòng  các  bệnh  nhân 
thường gặp các tác dụng ngoại ý sau: Buồn nôn 
(39,3%), chán ăn (37,5%), khô miệng (37,5%).  

tiết  kiệm  thời  gian,  chi  phí  nằm  viện  mà  vẫn 

đảm  bảo  an  toàn  và  hiệu  quả  điều  trị  cho  các 
bệnh nhân thai trứng nguy cơ cao.  
Trong  tương  lai  nên  thực  hiện  một  nghiên 
cứu sâu hơn dựa trên nền tảng của nghiên cứu 
này. Đó là so sánh sự đáp ứng với hóa trị của các 
bệnh nhân được chẩn đoán  là  TSNBN  giữa  hai 
nhóm  có  và  không  có  sử  dụng  hóa  dự  phòng 
trước đó. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
1.

2.

3.
4.

5.

6.

7.

8.

9.

KIẾN NGHỊ 
Theo số liệu trong nghiên cứu đưa ra, chúng 
tôi kiến nghị nên xem xét việc không thực hiện 

hóa  dự  phòng  một  cách  thường  quy  cho  bệnh 
nhân  thai  trứng  nguy  cơ  cao  nữa.  Sau  khi  hút 
nạo lòng tử cung bệnh nhân thai trứng nguy cơ 
cao nên được xuất viện và theo dõi mỗi 1‐2 tuần 
cho  đến  khi  khỏi  bệnh.  Phương  thức  này  giúp 

Nghiên cứu Y học

Ayhan  A,  Ergeneli  MH,  Yuce  K,  Yapar  EG,  Kisnisci  Ah. 
(1990).  Effects  of  prophylactic  chemotherapy  for  postmolar 
trophoblastic disease in patients with complete hydatidiform 
mole.  Department  of  obstetrics  and  gynecology,  faculty  of 
medicine, Hacettepe university, Akara, Turkey. Int J Gynecol 
Obstet 32, pp. 39 – 41. 
Geng S, Feng FZ, Xiang Y, Wan XR, Zhou Y. (2011). Analysis 
of  prophylactic  chemotherapy  outcome  and  clinical 
characteristics  in  patients  of  high‐risk  hydatidiform  mole. 
Article in Chinese. 
Goldstein DP. (1971). Prophylactic chemotherapy of patients 
with molar pregnancy. Obstet Gynecol 38, pp. 817‐822. 
Kashimura  Y,  Kashimura  M.  (1986).  Prophylactic 
chemotherapy for hydatidiform mole, 5 to 15 years follow‐up. 
Cancer 58, pp. 624 – 629. 
Kim  DS,  Moon  H,  Kim  KT,  Moon  YJ,  Hwang  YY.  (1986). 
Effects  of  prophylactic  chemotherapy  for  persistent 
trophoblastic  disease  in  patients  with  hydatidiform  mole. 
Obstet Gynecol 67, pp. 690 – 694 
Ross  S.  Berkowitz,  Donald  P.  Goldstein.  Gestational 
trophoblastic  Disease.  Berek  and  Novak’s  Gynecology  14ed, 
pp. 1581‐ 1603 

Renu  S,  Chanchal  G.  (2011).  Prophylactic  chemotherapy  in 
high risk complete hydatidiform mole. The internet Journal of 
Gynecology and Obstetrics. Vol 15. No2. 
Schorge J, Schaffer J, Halvorson L, Hoffman B, Bradshaw K, 
Cunningham  F,  (2008).  Gestational  trophoblastic  disease. 
Williams’ Gynecology, chapter 17. Mac Graw Hill. 
Uberti EM, Fajardo Mdo C, da Cunha AG, Rosa MW, Ayub 
AC,  Graudenz  Mda  S,  Schmid  H.  (2009).  Prevention  of  post 
molar trophoblastic neoplasia using prophylactic single bolus 
dose  of  actinomycin  D  in  high  risk  hydatidiform  mole:  a 
simple,  effective,  secure  and  low‐cost  approach  without 
adverse  effects  on  compliance  to  general  follow‐up  or 
subsequent  treatment.  Trophoblastic  disease  center  of 
CHSCPA, Brasil. 

 
Ngày nhận bài báo:  

 

 

30/11/2013 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

02/12/2013 

Ngày bài báo được đăng:  


05/01/2014 

 

 

Sản Phụ Khoa

63



×