Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Chỉ định hiệu quả và biến chứng của thở máy rung tần số cao trong điều trị suy hô hấp ở trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 04/2006 đến tháng 04/2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.42 KB, 8 trang )

CHỈ ĐỊNH HIỆU QUẢ VÀ BIẾN CHỨNG CỦA THỞ MÁY RUNG
TẦN SỐ CAO TRONG ĐIỀU TRỊ SUY HÔ HẤP Ở TRẺ SƠ SINH
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG I TỪ THÁNG 04/2006 ĐẾN THÁNG 04/2008
Diệp Loan*, Phan Hữu Nguyệt Diễm**

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Suy hô hấp là một hội chứng rất thường gặp và là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở sơ sinh. Vì
vậy các biện pháp điều trị chống suy hô hấp hiệu quả đều thật sự cần thiết, trong đó thở máy rung tần số cao là
một chiến lược thông khí bảo vệ phổi với thể tích khí lưu thông thấp, áp lực trung bình đường thở cao và áp lực
đỉnh trong mức chấp nhận được nhằm cải thiện tốt oxy hóa máu và giảm thiểu chấn thương phổi do áp suất và
thể tích.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả các chỉ định,hiệu quả và biến chứng của thở máy rung tần số cao trong điều trị
suy hô hấp nặng ở trẻ sơ sinh.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu, mô tả hàng loạt ca những trẻ sơ sinh được điều trị thở máy rung tần
số cao tại khoa hồi sức sơ sinh Bệnh Viện Nhi Đồng I từ tháng 04/2006 đến 04/2008.
Kết quả: Có tất cả 35 trẻ sơ sinh đưa vào nghiên cứu. Hầu hết các chỉ định thở máy rung tần số cao sau thất
bại thở máy thông thường, suy hô hấp do viêm phổi có 18 ca (51,4%), bệnh màng trong có 07 ca (20%), viêm phổi
hít phân su có 05 ca (14,2%), thoát vị hoành bẩm sinh có 03 ca (8,6%), nguyên nhân khác có 02 ca (5,8%). PaO2 cải
thiện sau 3 giờ thở máy rung tần số cao, PaCO2 cải thiện sau 6 giờ, pH cải thiện sau 6 giờ, và OI cải thiện sau 24
giờ. Tỷ lệ biến chứng là 31,4% và tỷ lệ tử vong là 48,6%, tỷ lệ biến chứng và tử vong này khó quy kết do thở máy
rung tần số cao gây ra.
Kết luận: Thở máy rung tần số cao trong điều trị suy hô hấp ở trẻ sơ sinh chỉ định cho đa số bệnh viêm phổi
và bệnh màng trong sau thất bại thở máy thông thường với thở máy rung tần số cao có thể cải thiện chỉ số khí
máu và oxy hóa máu.

ABSTRACT
INDICATIONS, EFFICIENCY, AND COMPLICATIONS OF HIGH FREQUENCY OSCILLATORY
VENTILATION IN NEWBORNS WITH SEVERE RESPIRATORY FAILURE
AT CHILDREN HOSPITAL NO 1 FROM APRIL 2006 TO APRIL 2008
Diep Loan, Phan Huu Nguyet Diem
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 45 – 50


Background: Respiratory failure is a common syndrome and is the first cause of mortality in newborn.
Thus, methods need efficient management for respiratory distress, high frequency oscillatory ventilation is a lung
protective strategy with the use of smaller tidal volumes, a high mean airway pressure while maintaining an
acceptable plateau pressure and reduce incidence of barotrauma and volume trauma.
Objectives: To describe indications, efficiency, and complications of high frequency oscillatory ventilation in
newborns with severe respiratory failure.
Method: This study was retrospective description and case series in newborns treated with hi gh frequency
oscillatory ventilation at neonatal intensive care unit of Children’s hospital No.1 from April 2006 to April 2008.
* Bệnh Viện Nhi Đồng – TP. Cần Thơ, ** Bộ môn nhi ĐH Y Dược TP HCM

Chuyên Đề Nhi Khoa

1


Results: A total of 35 newborns were enrolled in the study. The most common indication for high frequency
oscillatory ventilation was oxygenation failure, which pneumonia with acute respiratory distress syndrome in 18
(51.4%), hyaline membrane disease in 07 (20%), meconium aspiration in 05 (14.2%), congenital diaphragmatic
hernia in 03 (8.6%), different causes in 02 (5.8%). PaO2 was significantly improved 3 hours after high frequency
oscillation ventilation, PaCO2 and pH improved 6 hours after HFOV, OI improved 24 hours after HFOV.
Complication rate in patients was 31.4% and mortality rate in patients was 48.6%, HFOV was not main cause of
complication and mortality rate.
Conclusion: High frequency oscillation ventilation in treatment of respiratory disease of newborns indicated
the most pneumonia and hyaline membrane disease after failure with conventional ventilation, may improve blood
gas and oxygenation index.

ĐẶT VẤN ĐỀ

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


Hội chứng suy hô hấp cấp là sự rối loạn chức
năng của phổi, gây ra thất bại trong quá trình
trao đổi khí, dẫn đến thiếu oxy và tăng CO2 máu,
do đó không còn khả năng duy trì PaO2, PaCO2
và pH ở ngưỡng có thể chấp nhận được. Thông
khí bằng máy và điều trị nguyên nhân là điều trị
chính đối với bệnh nhân suy hô hấp cấp. Tử
vong những năm gần đây giảm còn giữa 30% 40% so với trước đây là 50%. Điều này đồng
nghĩa với sự thay đổi chiến lược thông khí như
sử dụng thể tích khí lưu thông nhỏ hơn bằng
máy thở tần số cao, cải thiện được dự hậu ở
những bệnh nhân suy hô hấp cấp. Đặc điểm của
máy thở này là thông khí thể tích khí lưu thông
rất thấp và khả năng đạt áp lực trung bình
đường thở cao, duy trì áp lực đỉnh có thể chấp
nhận làm giảm chấn thương phổi do áp lực và
thể tích khi giúp thở bằng máy thở thông
thường.

Thiết kế nghiên cứu

Trên thế giới ngày càng sử dụng phổ biến
máy thở rung tần số cao trong điều trị suy hô
hấp nặng trẻ sơ sinh. Vì vậy chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này về chỉ định, hiệu quả, và biến
chứng của thở máy rung tần số cao trong điều trị
suy hô hấp ở trẻ sơ sinh từ đó rút ra được những
ưu điểm của thở máy rung tần số cao.

Mục tiêu tổng quát

Mô tả các chỉ định, hiệu quả và biến chứng
của thở máy rung tần số cao trong điều trị suy
hô hấp ở trẻ trẻ sơ sinh.

Chuyên Đề Nhi Khoa
2

Hồi cứu, mô tả hàng loạt ca.

Dân số nghiên cứu
Tất cả trẻ sơ sinh nhập vào khoa hồi sức sơ
sinh Bệnh Viện Nhi Đồng I được thở máy rung
tần số cao từ tháng 04/2006 đến 04/2008

Tiêu chí đưa vào
Tất cả hồ sơ bệnh án trẻ sơ sinh được thở
máy rung tần số cao trong thời gian từ tháng
04/2006 đến 04/2008.

Tiêu chí loại ra
Trẻ sơ sinh thở máy rung tần số cao tử vong
trong 3 giờ đầu hoặc không có kết quả khí máu
sau khi thở máy rung tần số cao.
Hồ sơ bệnh án không ghi nhận đầy đủ các
biến số nghiên cứu.

Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn tất cả trẻ sơ sinh nhập vào khoa hồi
sức sơ sinh bệnh viện Nhi Đồng 1 thỏa tiêu chí
chọn bệnh trong thời gian nghiên cứu.


KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 04 năm 2006 đến tháng 04 năm
2008 lô nghiên cứu gồm 35 bệnh nhân sử dụng
máy thở rung tần số cao sau thất bại với thở máy
thông thường, có những đặc điểm lâm sàng sau:

Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu
Trẻ suy hô hấp nặng được thở máy rung tần
số cao phần lớn là phái nam (71,4%), đa số tuổi
dưới 7 ngày tuổi (60%), 54,2% trẻ có cân nặng <
2500 gram.


Nguyên nhân suy hô hấp
Đa số trẻ bị viêm phổi nặng (51,4%) sau thất
bại thở máy thông thường, kế đến là bệnh màng
trong (20%) và viêm phổi hít phân su (14,2%),
thoát vị hoành bẩm sinh (8,6%), nguyên nhân
khác (5,8%). Nguyên nhân suy hô hấp có chỉ
định thở máy rung tần số cao trong vòng 7 ngày
tuổi là viêm phổi, bệnh màng trong, viêm phổi
hít, và thoát vị hoành bẩm sinh.

Hiệu quả của thở máy rung tần số cao
Trước thở máy rung tần số cao, đa số bệnh
nhân có tổn thương nặng ở phổi như viêm phổi
lan tỏa (62,8%), bệnh màng trong giai đoạn III,
IV (17,1%). Ngoài ra những tổn thương nặng này
đôi khi kết hợp tràn khí màng phổi, hẹp phế

quản gốc làm nặng thêm tình trạng suy hô hấp.
Bệnh nhân rối loạn khí máu nặng với pH trung
bình 7,2 ± 0,17, PaCO2 59,3 ± 21,5 mmHg, SpO2
trung bình là 69,8 ± 18,4%, PaO2 59,3 ± 32,7
mmHg, OI 25,1 ± 13,5 mmHg. Thời gian thở máy
thông thường trung bình 4,6 ngày, với thông số
áp lực đỉnh 21,7 ± 4,2 cm H2O, FiO2 87,9 ± 22,4%,
áp lực trung bình đường thở 13,2 ± 2,4 cmH2O.
42,9% có sử dụng vận mạch chống sốc trước thở
máy rung tần số cao. Ở bệnh màng trong, có 04
ca (57,1%) sử dụng surfactant trước thở máy
rung tần số cao.
Trong khi thở máy rung tần số cao, Các
thông số cài đặt với giá trị trung bình của tần số
là 9,1 ± 0,9 Hz, áp lực trung bình đường thở 17,4
± 3,2 cmH2O, I: E trong 35 bệnh nhân là 1: 2, lực
rung lồng ngực 2,9 ± 0,5. Tỷ lệ PaO2 < 60 mmHg
ban đầu trước thở máy rung tần số cao là 68,6%,
sau 3 giờ tỷ lệ này giảm đạt 40%, sau 6 giờ tỷ lệ
này còn 17,1% và trước khi cai máy tỷ lệ này là
11,4%. Tỷ lệ PaCO2 > 50 mmHg ban đầu trước
khi thở máy rung tần số cao là 65,7%, sau 3 giờ
tỷ lệ này giảm đạt 34,3%, sau 6 giờ tỷ lệ này còn
8,6% và trước khi cai máy tỷ lệ này là 8,6%. Tỷ lệ
pH < 7,35 ban đầu là 82,9%, sau 3 giờ tỷ lệ này
giảm đạt 45,7%, và trước khi cai máy tỷ lệ này là
28,6%. Tỷ lệ OI > 20 ban đầu là 62,9%, sau 3 giờ tỷ
lệ này giảm đạt 37,1%, sau 6 giờ tỷ lệ này còn
17,1% và trước khi cai máy tỷ lệ là 2,9%.


Chuyên Đề Nhi Khoa

Sau thở máy rung tần số cao, thời gian thở
máy rung tần số cao trung bình 4,67 ngày. Giá trị
trung bình các thông số thở máy rung tần số cao
khi cai máy bao gồm tần số 9 ± 1,1 Hz, áp lực
trung bình đường thở 16,5 ± 3,6 mmHg, lực rung
lồng ngực 2,9 ± 0,8, FiO2 57,3 ± 33,5%, tất cả I: E là
1: 2. Giá trị trung bình các thông số thở máy
thông thường sau cai máy rung tần số cao bao
gồm: tần số 50 ± 6,9 lần/ phút, áp lực hít vào 19,6
± 3,2 cmH2O, PEEP 5,9 ± 0,4 cmH2O, FiO2 38,5 ±
19,7%.

Biến chứng của thở máy rung tần số cao
Tỷ lệ biến chứng chiếm 31,4%, trong đó tỷ lệ
biến chứng tắc đàm chiếm 5,7%, xuất huyết nội
sọ 5,7%, viêm khí phế quản hoại tử 11,4%, quá
căng phồng phổi 2,9%, sốc 5,7%. Các biến chứng
này khó quy kết hoàn toàn do thở máy rung tần
số cao gây ra.

Tỷ lệ tử vong
Tỷ lệ tử vong chiếm 48,6%, trong đó tỷ lệ tử
vong bệnh viêm phổi chiếm 20%, bệnh màng
trong 8,6%, viêm phổi hít 5,7%, thoát vị hoành
8,6%, và nguyên nhân suy hô hấp khác là 5,7%.
Thở máy rung tần số cao không phải là nguyên
nhân chính gây tử vong.


BÀN LUẬN
Các trường hợp suy hô hấp nặng có can
thiệp thở máy rung tần số cao trong nghiên cứu
của chúng tôi gặp ở trẻ trai nhiều hơn gái 2,5 lần.
Cho thấy hội chứng suy hô hấp nặng xảy ra ở trẻ
nam nhiều hơn nữ dẫn đến tử vong đối với trẻ
nam cũng nhiều hơn trẻ nữ ở giai đoạn sơ sinh.
Theo Võ Đức Trí tỷ lệ trẻ trai gấp trẻ gái 2,33
lần(1). Tuổi trung bình trong nhóm nghiên cứu
12,5 ngày. Theo phân nhóm tuổi thì đa số trẻ từ 1
tuần tuổi trở xuống (chiếm 60%), phù hợp với tác
giả Võ Đức Trí(1). Cân nặng đáng lưu ý là dưới
2500 g chiếm 54,2%. Theo phân loại sơ sinh dựa
trên trọng lượng trẻ lúc sanh thì đây là những trẻ
sơ sinh có trọng lượng lúc sanh thấp, nên rất yếu
dễ nhiễm trùng, dễ chấn thương phổi nếu thông
khí bằng máy với áp lực đỉnh cao và nồng độ
oxy cao kéo dài.

3


Trong nhóm nghiên cứu, 4 nguyên nhân
chiếm đa số gây suy hô hấp nặng cần thở máy
rung tần số cao là viêm phổi nặng (chiếm 51,4%),
bệnh màng trong (20%), viêm phổi hít phân su
(14,2%), thoát vị hoành (8,6%). Đa số bệnh nhân có
tổn thương nặng ở phổi trên phim X quang như
viêm phổi lan tỏa 2 bên (22 ca, kể ca viêm phổi
hít phân su), bệnh màng trong giai đoạn III, IV.

Ngoài ra những tổn thương này đôi khi kết hợp
tràn khí màng phổi, hẹp phế quản gốc làm nặng
thêm tình trạng suy hô hấp.
Trước khi thở máy rung tần số cao, thời gian
thở máy thông thường trước khi thở máy rung
tần số cao là 4,6 ngày, phù hợp với tác giả Võ
Đức Trí thời gian thở máy thông thường trung
bình 5,7 ngày trước khi thở máy rung tần số
cao(1). Theo tác giả Ching - Chia Wang thời gian
thở máy thông thường trước thở máy rung tần
số cao là 4,4 ± 4,2 ngày(6). Một số nguyên nhân
suy hô hấp nặng không cải thiện oxy hóa máu
trong vài ngày đầu thở máy thông thường đáng
lưu ý là thoát vị hoành bẩm sinh, viêm phổi hít,
viêm xẹp phổi kèm hẹp phế quản gốc bẩm
sinh.Tất cả 35 bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu
đã được hỗ trợ hô hấp với thở máy thông
thường nhưng thất bại phải chuyển sang thở
máy rung tần số cao với các thông số khá cao PIP
21,7 ± 4,2 cm H2O, áp lực trung bình đường thở
13,21 cmH2O, tần số 60,9 ± 13 lần/phút, I: E (1/1,
1/1,5, 1/2) lần lượt (22 ca, 7 ca, 6 ca) với FiO2 87,9
± 22,4% vẫn không cải thiện sự oxy hóa và sự
tăng CO2. Nếu muốn cải thiện sự oxy hóa và sự
tăng CO2 phải tăng PIP và tăng tần số thở sẽ dẫn
đến chấn thương phổi. Tác giả Võ Đức Trí với
thông số PIP 25,8 ± 5,1 cmH2O, MAP 18,1 ± 5,21
cmH2O, tần số 75 ± 17,6 lần/phút, FiO2 92 ±
16,09%(1). Trong nghiên cứu của chúng tôi có
tổng cộng 15 ca sử dụng vận mạch chống sốc

trước thở máy rung tần số cao. Viêm phổi chiếm
14,3%, bệnh màng trong chiếm 11,4%, viêm phổi
hít chiếm 8,6%, thoát vị hoành chiếm 5,7%, loạn
sản phế quản phổi chiếm 2,9%. Tất cả được chống
sốc trước khi chuyển qua máy thở rung tần số
cao. Cho thấy tình trạng bệnh nhân rất nặng

Chuyên Đề Nhi Khoa
4

trước thở máy rung tần số cao suy hô hấp phối
hợp sốc nhiễm trùng. Trong nghiên cứu của
chúng tôi có tổng số 07 ca bệnh màng trong,
trong đó 04 ca (57,1%) sử dụng surfactant trước
thở máy rung tần số cao. Đối với bệnh màng
trong chúng ta cần lưu ý trong 24 giờ đầu về việc
sử dụng surfactant thay thế để góp phần cải
thiện tình trạng suy hô hấp. Ở những trẻ non
tháng bệnh màng trong càng lúc càng điều trị
nhiều với thở máy phối hợp với điều trị
surfactant thay thế(3). Trong nghiên cứu của
chúng tôi chỉ có một số ca có sử dụng surfactant
thay thế ở bệnh màng trong do điều kiện nước
ta.
Trong khi thở máy rung tần số cao, Các
thông số cài đặt ban đầu trong 35 bệnh nhân thở
máy rung tần số cao, giá trị trung bình của tần số
là 9,1 ± 0,9 Hz, áp lực trung bình đường thở 17,4
± 3,2cmH2O, I: E trong tất cả các trường hợp là 1:
2, lực rung lồng ngực 2,9 ± 0,5, FiO2 84 ± 24,9%.

Thời gian thở máy rung tần số cao trung bình
5,03 ± 4,62 ngày. Theo Ching – Chia Wang thời
gian thở máy rung tần số cao là 7,6 ± 7,9 ngày(6).
Tác giả Võ Đức Trí tần số 10,6 ± 0,5 Hz, MAP
18,1 ± 5,2 cmH2O, lực rung 2,96 ± 0,6234, FiO2 78
± 24,58%(1). Qua xét nghiệm khí máu trước và sau
khi thở máy rung tần số cao ở 35 bệnh nhân cho
thấy có sự cải thiện rõ rệt tỷ lệ PaO2 < 60 mmHg
trong máu bệnh nhân ban đầu trước thở máy
rung tần số cao là 68,6%, sau 3 giờ tỷ lệ này giảm
đạt 40%,sau 6 giờ tỷ lệ này còn 17,1% và tiếp tục
giảm đến trước cai máy tỷ lệ này là 11,4%, diễn
tiến giá trị trung bình của PaO2 cải thiện rõ sau 3
giờ và duy trì > 60 mmHg ở FiO2 và áp lực trung
bình đường thở giảm dần đến cai máy. Điều này
phù hợp với tác giả Rainer Stachow(5) và Dr
Stephen Wimbush(7). Trong nghiên cứu 35 bệnh
nhân cho thấy tỷ lệ PaCO2 > 50 mmHg trong
máu ban đầu trước khi thở máy rung tần số cao
là 65,7%, sau 3 giờ tỷ lệ này giảm đạt 34,3%, sau 6
giờ tỷ lệ này còn 8,6% và đến trước khi cai máy tỷ
lệ này là 8,6%. Diễn tiến giá trị trung bình của
PaCO2 cải thiện sau 6 giờ và duy trì ở chỉ số bình
thường 35 – 45 mmHg trong suốt quá trình thở


máy rung tần số cao, phù hợp với tác giả Ching
– Chia Wang cải thiện PaCO2 sau 4 giờ (p <
0,05)(6). Theo tác giả Stachow Rainer PaCO2 duy
trì thấp hơn 50 mmHg sau 6 giờ thở máy rung

tần số cao(5). Trong quá trình theo dõi khí máu 35
bệnh nhân cho thấy tỷ lệ pH < 7,35 ban đầu
trước khi thở máy rung tần số cao là 82,9%, sau 3
giờ tỷ lệ này giảm đạt 45,7% và trước khi cai máy
tỷ lệ này là 28,6%. Diễn tiến giá trị trung bình của
pH cải thiện sau 6 giờ và thời điểm tiến hành cai
máy và sau 3 giờ pH duy trì > 7,25. Theo tác giả
Stachow Rainer(5) và Dr Stephan Wimbush(7) pH
thấp nhất có thể chấp nhận là 7,25. Trong 35
bệnh nhân cho thấy tỷ lệ OI > 20 ban đầu trước
khi thở máy rung tần số cao là 62,9%, sau 3 giờ tỷ
lệ này giảm đạt 37,1%, sau 6 giờ tỷ lệ này còn
17,1% và trước khi cai máy tỷ lệ là 2,9%. Diễn tiến
giá trị trung bình của chỉ số oxy hóa cải thiện vào
vào thời điểm 24 giờ sau thở máy rung tần số
cao. Sau 24 giờ, những trường hợp cứu sống chỉ
số oxy hóa máu tiếp tục cải thiện trước lúc cai
máy giá trị trung bình là 7,34, còn những trường
hợp tử vong chỉ số oxy hóa máu tăng dần và tử
vong. Theo tác giả Stephen D Playfor(4) có sự cải
thiện chỉ số oxy hóa máu tại thời điểm 24 giờ
đầu sau thở máy rung tần số cao.
Sau khi thở HFOV một thời gian có sự cải
thiện PaO2, cải thiện PaCO2, cải thiện OI và các
thông số thở máy rung được điều chỉnh giảm
dần, để chuyển qua máy thở thông thường, giá
trị trung bình các thông số thở máy rung tần số
cao khi cai máy gồm tần số 9 ± 1,1 Hz, áp lực
trung bình đường thở 16,5 ± 3,6 cmH2O, lực rung
lồng ngực 2,9 ± 0,8, FiO2 57,3 ± 33,5%, tất cả I: E là

1: 2. Các thông số này đã được điều chỉnh đến
mức thấp mà bệnh nhân đảm bảo hô hấp tốt để
chuyển qua máy thở thông thường. Theo tác giả
Võ Đức Trí tần số 10,55 ± 0,52, áp lực trung bình
đường thở 14,27 ± 4,08, lực rung lồng ngực 2,43 ±
0,4, FiO2 37,73 ± 21,95%. Giá trị trung bình các
thông số thở máy thông thường sau cai máy
rung tần số cao trong nghiên cứu của chúng tôi
là tần số 50 ± 6,9 lần/phút, PIP 19,6 ± 3 cmH2O,
PEEP 5,9 ± 0,4 cmH2O, FiO2 38,5 ± 19,7%. Theo tác

Chuyên Đề Nhi Khoa

giả Võ Đức Trí tần số 49,09 ± 10,44, áp lực hít vào
16,91 ± 3,39, PEEP 5,27 ± 0,79, FiO2 39,09 ± 22,45%.
Biến chứng trong lúc thở máy rung tần số
cao chiếm 31,4% trong 35 bệnh nhân thở máy
rung tần số cao, đa phần những biến chứng xảy
ra ở những trường hợp tử vong (chiếm 25,7%
trong tổng 31,4%). Trong nghiên cứu của chúng
tôi biến chứng chiếm tỷ lệ khá cao có thể do
bệnh lý quá nặng chứ không phải do thở máy
rung tần số cao bởi vì nghiên cứu của chúng tôi
là hồi cứu chỉ ghi nhận lại những biến chứng xảy
ra trong quá trình thở máy rung tần số cao nhất
là biến chứng viêm khí phế quản hoại tử chúng
tôi không có bằng chứng chẩn đoán chắc chắn
hay do bệnh lý nặng giai đoạn cuối gây rối loạn
đông máu nên trong ống nội khí quản có máu,và
biến chứng sốc của chúng tôi cũng vậy có thể do

bệnh nặng giai đoạn cuối. Do vậy các biến chứng
chúng tôi ghi nhận khó quy kết hoàn toàn do thở
máy rung tần số cao vì bên cạnh tình trạng suy
hô hấp nặng do tổn thương phổi còn có nhiễm
trùng huyết nặng hay trẻ sanh non, rất nhhẹ cân.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ sống
51,4%, tỷ lệ tử vong 48,6% với thời gian thở máy
rung tần số cao trung bình 4,67 ± 4,1 ngày tỷ lệ tử
vong còn khá cao gần 50%, có thể do tình trạng
bệnh nhân quá nặng trước khi thở máy rung tần
số cao suy hô hấp nặng phối hợp sốc nhiễm
trùng (42,9%). Nhóm tử vong tổng cộng 18 ca bao
gồm 7 ca viêm phổi (38,89%), 3 ca bệnh màng
trong (42,9%), 2 ca viêm phổi hít (40%), 3 ca thoát
vị hoành (100%), 1ca loạn sản phế quản phổi
(100%), 1ca viêm xẹp phổi kèm hẹp phế quản gốc
(100%). Theo trọng lượng kết quả nghiên cứu cho
thấy cân nặng <1,5 kg có tổng cộng 06 bệnh
nhân, trong đó tử vong chiếm cao nhất 04 ca
(66,7%). Còn lại số ca sống chiếm tỷ lệ cao hơn tử
vong, số ca tử vong trong nhóm 1,5 – 2,5 kg
(46,15%), > 2,5 kg (43,8%). Tỷ lệ tử vong trong
nhóm nghiên cứu của chúng tôi khá cao khó quy
kết hoàn toàn do thở máy rung tần số cao vì
bệnh nền của bệnh nhân quá nặng do tổn
thương phổi kết hợp với nhiều yếu tố như
nhiễm trùng huyết nặng hay trẻ sanh non, rất

5



nhẹ cân. Ngoài ra còn có thể do chúng ta chỉ
định không đúng thời điểm chăng làm tình
trạng suy hô hấp khó có thể cải thiện được.
Trong 4 nguyên nhân suy hô hấp ở trẻ sơ sinh
(viêm phổi nặng, bệnh màng trong, thoát vị
hoành bẩm sinh, viêm phổi hít phân su) sau thất
bại thở máy thông thường đã được thở HFOV
thì cũng có sự cải thiện chỉ số oxy hóa máu lúc
thời điểm 24 giờ cả nhóm sống cũng như nhóm
tử vong, diễn tiến sau đó, nhóm sống chỉ số oxy
hóa giảm dần đến lúc cai máy còn nhóm tử vong
chỉ số oxy hóa tăng dần và tử vong. Đặc biệt 2
nhóm nguyên nhân là thoát vị hoành và viêm
phổi hít phân su nhóm tử vong thì chỉ số oxy
hóa ngay lúc bắt đầu thở máy rung tần số cao (>
30 mmHg) giá trị cao hơn những bệnh lý khác.
Hiện tại không khuyến cáo lựa chọn thở máy
rung tần số cao như biện pháp hỗ trợ đầu tiên
trong suy hô hấp sơ sinh nói chung vì thiếu bằng
chứng tiên lượng lâu dài về phát triển tâm thần,
cũng như cải thiện rõ về tỷ lệ tử vong, loạn sản
phế quản phổi(2,7)

KẾT LUẬN
Thở máy rung tần số cao trong điều trị suy
hô hấp ở trẻ sơ sinh chỉ định cho đa số bệnh
viêm phổi và bệnh màng trong sau thất bại thở
máy thông thường với thở máy rung tần số cao
có thể cải thiện chỉ số khí máu và oxy hóa máu.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.

4.

5.

6.

Võ Đức Trí (2005), Hiệu Quả Thở Máy Rung Tần Số Cao
Trong Điều Trị Suy Hô Hấp Nặng ở Trẻ Sơ Sinh, luận văn
thạc sĩ y học.
Anthony Courey, Robert C Hyzy (2008), “High-Frequency
Ventilation”, UpToDate version 16.
The neonatal ventilation study group (2002), “High –
frequency oscillation ventilation for very – low – birth –
weight infants”, The N E Journal of Medicine, pp. 643-651.
Stephen D Playfor (2005), “ The role of high – frequency
oscillatory ventilation in paediatric intensive care”, Critical
Care, 9:249-250
Rainer Stachow (1995), Effects of high – frequent oscillations,
High – fre quency ventilation basics and practical application,
Drager, pp. 7 – 67.
Ching-Chia Wang, Wei-Lun Wu, En-Ting Wu, Hung-Chieh
Chou, Frank Leigh Lu (2008), “High Frequency Oscillatory
Ventilation in Children: Experience of a Medical Center in

Taiwan”,, J Formos Med Assoc Vol 107, No 4, Elsevier &
Formosan Medical Association, pp. 311 – 315.

Chuyên Đề Nhi Khoa
6

7.

Stephen Wimbush (2005), “The Role of High-Frequency
Ventilation in the Management of Acute Respiratory Distress
Syndrome-A Critical Review”, Intersive Care Medicine, pp.143.


Chuyên Đề Nhi Khoa

7


Chuyên
Đề Nhi Khoa
8



×