Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Kết quả điều trị các gãy ổ cối có di lệch bằng phẫu thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.22 KB, 5 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008

Nghiên cứu Y học

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CÁC GÃY Ổ CỐI CÓ DI LỆCH BẰNG PHẪU THUẬT
Nguyễn Vĩnh Thống

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Gãy ổ cối và cả các gãy khung chậu, ở nước ta trước 1993, hầu như chỉ được điều trị bảo
tồn, để lại nhiều di chứng ảnh hưởng xấu đến chức năng vận động. Từ năm 1993, BV. Chợ Rẫy bắt đầu phẫu
thuật các ca gãy ổ cối và khung chậu có di lệch. Sau đó, một số cơ sở khác cũng thực hiện phẫu thuật này.
Bước đầu đã mang lại kết quả khích lệ. Tuy nhiên, các báo cáo về phẫu thuật ổ cối còn rất ít, và chưa có nghiên
cứu sâu về vấn đề này. Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm tích lũy kinh nghiệm cũng như kiến thức về
phẫu thuật gãy ổ cối có di lệch.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp tiền cứu 90 trường hợp gãy ổ cối có di lệch, nhập viện
tại BV Chợ Rẫy từ năm 2004 đến tháng 6/2007. Chẩn đoán bằng hình ảnh và điều trị bằng kết hợp xương bên
trong.
Kết quả: Có 53 nam, 37 nữ. Tuổi nhỏ nhất là 17 và lớn nhất là 71. Chẩn đoán dựa vào X-quang khớp
háng 3 tư thế của Jude, và 80% trường hợp được chụp CT đa lớp cắt. Sử dụng phân loại của AO, loại gãy 2
trụ chiếm nhiều nhất 28/90 (31,1%), và gãy ngang chiếm 25/90 (27,8%). Mổ sớm thì kết quả nắn chỉnh càng
tốt. Xác định mối liên hệ hữu cơ giữa kết quả nắn chỉnh và kết quả cơ năng lâm sàng. Kết quả cơ năng tốt 37
(41%), khá 21 (23%), trung bình 21 (23%), và xấu 11 (13%). Biến chứng nhiễm trùng có 2 ca, trong đó 1 ca
phải lấy dụng cụ. Chứng viêm khớp thoái hoá sau mổ có 5 ca, tăng theo thời gian theo dõi.
Kết luận: Trong 90 trường hợp phẫu thuật ổ cối, kết quả tốt và khá chiếm 63%. So với các tác giả khác
thì tỷ lệ trên cũng xấp xỉ. Mổ sớm thì kết quả nắn chỉnh tốt sẽ cao. Tăng tỷ lệ nắn chỉnh tốt, và hạ thấp tỷ lệ
biến chứng là mục tiêu của phẫu thuật ổ cối.

ABSTRACT
THE OUTCOME OF INTERNAL FIXATION OF DISPLACED ACETABULAR FRACTURES
Nguyen Vinh Thong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - No 2 - 2008: 88 - 92
Introduction: In the past, before 1993, in Viet Nam, the fractures of acetabulum and pelvis were almost


treated nonoperatively. That led a lot complications with deteriorated function of the hip. From 1993, at Cho
Ray hospital first, then the orthers, the surgeons began to operate the pelvic and acetabular fractures. The early
outcomes have been encouraged. But there are less reports about this special surgery, even no any formal
report. For enriching experience as well as knowledge about this kind of surgery is my goal to perform this
study.
Material and Method: Patients with displaced acetabular fracture, received in Cho Ray hospita from
2004 to June 2007, were diagnosed by X-ray and CT scan, then were dealt with internal fixation.
Results: There were 53 males and 37 females. The youngest is 17 y.o. and the oldest is 71 y.o. Diagnosis
based on X-ray with 3 three views of Judet, and CT scan (multislice). Applying AO classification: two column
fracture rate is 28/90 (31,1%), transverse is 25/90 (27, 8%). About timing of surgery, the more early timing,
the better result we get. Verfying the rational correlation between a reduction result (on X-ray) and a
functional final result. About final result, excellent 37 (41%), good 21 (23%), fair 21 (23%), and bad 11
88
* Khoa chấn thương chỉnh hình, BV. Chợ Rẫy


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008

Nghiên cứu Y học

(13%). Infected cases 2, which one had to be removed the plate and screws. We have had 5 cases of
postoperative ostoearthritis, the rate increases with length of follow-up.
Conclusion: After performing 90 cases of acetabular fractures, the final result in excellent and good are
63%. In comparison with other reports from abroad, this rate is the same. An increase in the rate of anatomical
reduction and a decrease in the rate of operative complications should be the goals of surgeons who treat these
fractures.

ĐẶT VẤNĐỀ:
Các gãy ổ cối có di lệch, nếu không được
xử lý đúng sẽ gây ảnh hưởng trầm trọng trên

cơ năng đi lại(1,4). Gãy ổ cối có di lệch cần phải
được nắn chỉnh và cố định sao cho tái lập lại
tương thích với chỏm xương đùi, có như thế
mới phục hồi chức năng sinh hoạt và lao
động cho bệnh nhân. Nếu không tái lập được
tương thích trên thì dẫn đến mất cơ năng đi
lại hay ít nhất cũng nhanh chóng dẫn đến
thoái hoá khớp(6,7,10).
Trước thực tế, một số lượng lớn nạn nhân
gãy khung chậu và ổ cối, nếu điều trị không
hiệu quả sẽ gây tàn phế hoặc mất khả năng
lao động một bộ phận của lực lượng lao động
trẻ. Xuất phát từ yêu cầu trên, từ năm 1992,
khoa chấn thương chỉnh hình bệnh viện Chợ
Rẫy, đứng đầu là GS Nguyễn Quang Long và
GS Ngô Bảo Khang đã bắt đầu tiến hành
phẫu thuật khung chậu và ổ cối. Khi quyết
định nắn chỉnh tích cực các gãy khung chậu
và ổ cối có di lệch bằng mổ xẻ, cũng là lúc hai
vị giáo sư đầu ngành chấn thương chỉnh hình
của chúng ta đã mở ra trang sử mới cho sự
phát triển chuyên ngành phẫu thuật khung
chậu và ổ cối nước nhà.

Số lượng bệnh nhân được chọn khoảng 90
trường hợp từ năm 2004 đến tháng 6/2007.

Phương pháp nghiên cứu
Chẩn đoán dựa vào khám lâm sàng và
chẩn đoán hình ảnh.


- Chẩn đoán hình ảnh(15,18)
Chẩn đoán chính xác tổn thương giải
phẫu là cần thiết để xây dựng kế hoạch điều
trị, công việc này cần phải có đánh giá bằng
hình ảnh một cách đầy đủ.
Đó là hình ảnh X-quang qui ước của
khung chậu thẳng, hình ảnh chéo chậu và
chéo bịt do Judet và Letournel đề xướng, kết
hợp phương tiện hiện đại như chụp CT, và
MRI để đánh giá chi tiết kiểu gãy xương cũng
như tổn thương mô mềm xung quanh.

Chỉ định phẫu thuật
Phẫu thuật được chỉ định khi khớp háng
mất vững hoặc mất tương thích, bất kể thuộc
loại gãy gì. Tuy nhiên, quyết định cuối cùng
để phẫu thuật lại phụ thuộc nhiều yếu tố, đặc
biệt yếu tố thể trạng bệnh nhân như tình
trạng loãng xương cũng như các bệnh lý kèm
theo.
- Mất vững: Trật khớp háng kết hợp với

Đối tượng

- Gãy di lệch của trụ sau hay vách sau.

Đối tượng nghiên cứu là các trường hợp
gãy ổ cối do chấn thương tiếp nhận tại bệnh
viện Chợ Rãy, gãy đơn thuần hay kết hợp với

gãy khung chậu, và có hay không có phối hợp
với các thương tổn khác như chấn thương sọ
nảo, chấn thương ngực bụng, tiết niệu sinh
dục...

- Gãy di lệch của vách trước hay trụ trước.
- Mất tương thích:
- Gãy xuyên qua vòm ổ cối: - Mảnh vỡ
của vòm di lệch – Gãy ngang hay chữ T
(xuyên vòm) – Gãy 2 trụ gây mất tương thích
(thường là di lệch của trụ sau).
- Còn mảnh vỡ trong khớp.

89


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008
- Gãy trật chỏm xương đùi.

Đường mổ

KẾT QUẢ
Phân bố theo tuổi
Tuổi
<20
21-30
31-40
41-50
51-60
>60

Tổng số

Tỷ lệ %
2,2
28,9
31,1
26,7
8,9
2,2
100

N
2
26
28
24
8
2
90

Tuổi nhỏ nhất là 17, lớn nhất là 71 và 62
tuổi. Hầu hết các trường hợp xảy ra ở tuổi từ
20-50, chiếm 86,7%. Như thế việc điều trị cho
những bệnh nhân trong tuổi lao động này sao
cho kết quả cơ năng tốt để trả về môi trường
lao động cũ là vấn đề mà ngành y tế chúng ta
phải giải quyết.

Kiểu gãy
Kiểu gãy

Vách sau
Trụ sau
Trụ trước
Trụ trước ngang nửa sau
Gãy ngang
Gãy chữ T
Gãy 2 trụ
Tổng số

N
12
3
2
4
25
16
28
90

Nghiên cứu Y học

Tỷ lệ %
13,3
3,3
2,2
4,4
27,8
17,8
31,1
100


Gãy vách sau có 12 ca, chiếm 13.3%; đây
là các trường hợp gãy vách sau đơn thuần.
Còn gãy vách sau có thể phối hợp với tất cả
các loại gãy, như gãy ngang và chữ T và nhất
là gãy 2 trụ; cụ thể trong 78 ca gãy ổ cối còn
lại thì có 32 ca có tổn thương phối hợp của
vách sau. Biểu hiện thường thấy là trật khớp
háng ra sau. Tuy nhiên, các trường hợp trật
khớp háng trung tâm cũng có khi bị gãy vách
sau dù không có trật khớp ra sau, cụ thể là các
gãy 2 trụ. Chẩn đoán gãy vách sau là rất cần
thiết để ưu tiên chọn đường mổ phía sau
nhằm phục hồi xương vách sau, nếu không,
sẽ bị mất vững khớp háng, và có nguy cơ trật
hoặc bán trật khớp háng ra sau.

ĐƯỜNG MỔ
Kocher-Langenbeck
Chậu bẹn
Chậu đùi
Ba tia
Tổng số

N
42
34
2
12
90


Tỷ lệ %
46,7
37,8
2,2
13,3
100

Lựa chọn đường mổ phía trước hay phía
sau dựa trên đánh giá hình ảnh ổ cối, ưu tiên
cho các mảnh gãy rời. Tùy theo vị trí của các
mảnh rời này ở phía trước hay sau mà chọn
đường mổ phù hợp.

Kết quả cơ năng
Kết quả cơ năng
Tốt
Khá
Trung bình
Xấu
Tổng số

N
37
21
21
11
90

Tỷ lệ (%)

41
23
23
13
100%

Dựa vào bảng đánh giá của Merle
d’Aubigné(1,16,17), đánh giá cơ năng khớp háng
theo tốt, khá, trung bình và xấu.

Thời gian theo dõi
Thời gian theo dõi (tháng)
N
Tỷ lệ (%)
6-12 (0,5 – 1năm)
11
12,2
>12-24 (1 – 2 năm)
21
23,3
>24-36 (2 – 3 năm)
27
30
>36-42 (3 – 3,5 năm)
31
34,5
Tổng số
90
100%
Thời gian theo dõi trung bình : 27.6 tháng


Thời gian theo dõi ngắn nhất là 6 tháng,
dài nhất là 46 tháng

BÀNLUẬN
Thời gian theo dõi kéo dài(3,11)
Letournel giải thích sự thay đổi kết quả cơ
năng theo thời gian. Sau 10-15 năm, nhóm
nắn hoàn chỉnh có một số ca đáng kể bị kết
quả xấu với viêm khớp thoái hóa. Theo Tile,
điều này phản ánh có tổn thương sụn khớp
ban đầu hơn là do điều trị. Có nhiều báo cáo

89


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008
của các phẫu thuật viên kinh nghiệm phản
ánh vấn đề này cho dù số liệu nhỏ hơn, và
cũng có cùng kết luận như trên.

Chấn thương khớp và chứng viêm khớp
thoái hoá(1,12)
Khi tổn thương ổ cối bên cạnh tác dụng
làm mất cơ năng khớp, chấn thương ban
đầu còn gây ra tổn thương không hồi phục
của tế bào sụn khớp.
Kết quả nghiên cứu trên của Joseph và
cộng sự (2005) là cơ sở khoa học để có thể lý
giải vấn đề viêm khớp thoái hóa sau phẫu

thuật gãy ổ cối chiếm tỷ lệ khá cao. Chính
Letournel (1993)(11) trong các báo cáo của mình
đã nhiều lần kết luận rằng chứng viêm khớp
thoái hóa sau phẫu thuật ổ cối tăng theo thời
gian theo dõi. M. Tile (1995) lý giải hiện tượng
trên khả năng do chấn thương sụn khớp ban
đầu. Sự lý giải khá chính xác, phù hợp với kết
quả nghiên cứu của Joseph (2005).

Phân bố tần suất tương đối các loại gãy
xương(1,6,15,18)
Loại gãy

Letour
2 Dakin et NV
(11)
Thong
nel * Matta * 3
* (%) al † (%) (%)
(%)

Hai trụ
27,9
Gãy ngang và vách
20,6
sau
Vách sau
22,4
Gãy chữ T
5,3

Gãy ngang
3,7
Gãy trụ trước
3,9
Gãy trụ trước và ngang
8,8
nửa sau
gãy trụ sau và vách
3,5
sau
Gãy trụ sau
2,3
Gãy vách trước
1,6

33,3

14,1

23,5

35,3

8,6
12,2
3,5
4,7

12,9
3,5

8,2
1,2

5,9

3,5

3,9

18,8

3,1
1,2

1,2
1,2

31,1

13,3
17,8
27,8
2,2
4,4

Nghiên cứu Y học
*n = 567.
**n = 255.
Trong số liệu của chúng tôi chỉ tính
những trường hợp gãy vách sau đơn thuần.

Như chúng ta đã biết, gãy vách sau có thể
phối hợp với hầu hết các kiểu gãy khác nhau,
cho nên chúng tôi không tính đến các trường
hợp gãy trụ sau và gãy ngang có kết hợp vách
sau như các tác giả khác đã thống kê. Một chú
ý khác, trong gãy 2 trụ, kết hợp với gãy vách
sau rất nhiều, nhưng các tác giả trên lại không
liên hệ đến.
Loại gãy ngang và gãy chữ T, theo số liệu
của chúng tôi, thì khá cao hơn so với các tác
giả khác. Sự khác biệt này chúng tôi ghi nhận
chứ không giải thích được.

Kết quả cơ năng(6,4,15,12)
Matta J. M. Heeg M. Fang-Yao C. Thống N. V.
102
26
31
37
Tốt
41%
48%
43%
41%
92
7
23
21
Khá
37%

13%
32%
23%
19
4
7
21
Trung bình
8%
8%
10%
23%
37
17
11
11
Xấu
15%
31%
15%
13%
250
54
72
90
Tổng số
100%
100%
100%
100%


Nếu tính chung kết quả tốt và khá, chúng
tôi có 64%, so với Matta 78% và Heeg 61%,
Fang-Yao 75% thì kết quả như thế chấp nhận
được.

Vai trò của thay khớp háng toàn phần
Cũng như gãy phạm khớp khác, thay
khớp háng toàn phần cho các gãy ổ cối là
không nên áp dụng khi mà mổ nắn và cố
định xương còn có khả năng.

3,3

KẾT LUẬN
Phẫu thuật các gãy ổ cối ở nước ta còn là
vấn đề cần được quan tâm. Lý do là tình hình
tai nạn giao thông còn nhiều, số lượng bệnh

90


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 2 * 2008
nhân gãy ổ cối khá lớn, kinh nghiệm của
phẫu thuật viên chỉnh hình về ổ cối chưa sâu.
Phẫu thuật ổ cối cần có bộ dụng cụ chuyên
dùng, phải chẩn đoán đầy đủ các đường gãy,
phẫu thuật viên phải quen phân tích phim Xquang 3 tư thế của ổ cối, bổ xung hình ảnh CT
có tái tạo 3 chiều. Chỉ định điều trị dựa vào
tính chất và mức độ di lệch của xương gãy kết

hợp với toàn trạng của từng bệnh nhân cụ
thể. Chọn đường mổ và đặt tư thế bệnh nhân
thích hợp. Sau cùng, phải mổ sớm, tốt nhất là
trước 7 ngày.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

10.

11.

Beaulé PE., Dorey FJ., Matta JM. (2003),”Letournel
Classification For Acetabular Fractures”, The Journal of

Bone and Joint Surgery, 1704-1709.
Borrelli J. Jr. (2006),”Assessment of clinical outcome
after acetabular fracture”, Current opinion in
orthopaedics, Lippincott Williams & Wilkins, volume
17(1), pp. 6-9.
Borelli J. Jr., Ricci W. M. (2005),”Postoperative
radiographic assessment of acetabular fractures: A
comparison of plain radiographs and CT scans”,
Journal of Orthpaedic Trauma, Lippincott Willams &
Wilkins, volume 19(5), pp. 299-304.
Carnesale PG. et al. (1975).”Acetabular disruption and
central fracture-dislocation of the hip”. The Journal of
Bone and Joint Surgery, Vol. 57-A, No. 8.
Chip RM. L. et al (1990).”Operative treatment of
complex acetabular fractures”. The Journal of Bone and
Joint Surgery, Vol. 72-A, No. 6, 897-904.
Gruson KI., Moed BR. (2003),”Injury of the femoral
nerve associated with acetabular fractures”, The Journal
of Bone and Joint Surgery, 428-432.
Heeg M, Klasen HJ., Visser JD. (1990),”Operative
treatment for acetabular fractures”, J Bone Joint
Surgery, 72-B: 383-6.
Helfet DL. et al. (1992),”Stabilisation of acetabular
fractures in elderly patients”. The Journal of Bone and
Joint Surgery, Vol. 74-A, No. 5,
Im G., Shin Y. (2005),”Fractures to the posterior wall of
the acetabulum managed with screw alone”, Journal of
Trauma-Injury Infection & Critical Care, Lippincott
Williams & Wilkins, volume 58(2), pp.300-303.
Laird A., Keating J. F. (2005),”Acetabular fractures: A

16 year prospective epidemiological study”,”, Journal
of Bone & Joint Surgery - British volume 87-B(7), pp.
969-973.
Letournel E. (2006),”The classic: Fractures of the
acetabulum: A study of a series of 75 cases”, Journal of
Orthpaedic Trauma, Lippincott Willams & Wilkins,
volume 20(1), pp. S15-S19.

Nghiên cứu Y học
12.

13.

14.

15.

16.

17.

18.

Mader TJ., Booth J (2006).”Seizure-induced acetabular
fractures: 5 – year experience and literature review”.
American Journal of Emergency Medicine, 24, 230-232.
Moed BR., Yu PH. and Gruson KI. (2003).,”Functional
outcomes of acetabular fractures”, J. Bone Joint Surg.,
Am.85: 1879 – 1883.
Philippo MJ., Schenker ML. (2006).”A new method for

acetabular rim trimming and labral repair”. Clinic in
Sports Medecine 25, 293-297.
Rodrigo P., Bruce H. Z. (2007),”Anatomy of the
pelvis”, Fractures of the pelvis and acetabulum, Informa
healthcare USA, pp. 1-10.
Scott AA., David J. H. (2007),”Classification of
acetabular fractures”,”, Fractures of the pelvis and
acetabulum, Informa healthcare USA, pp. 141-158.
Stein O and al. (2006).”Modification of the Harrs Hip
score in acetabular fracture treatment”. Injury, Int. J.
Care Injured. 04.129
Steven AO. (2007),”Diagnosis and treatment of acetabular
fractures: Historic review”, Fractures of the pelvis and
acetabulum, Informa healthcare USA, pp. 127-140.

91



×