Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Thận mất chức năng do lao có còn là chống chỉ định của cắt thận qua nội soi ổ bụng không?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 9 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

THẬN MẤT CHỨC NĂNG DO LAO CÓ CÒN LÀ CHỐNG CHỈ ĐỊNH
CỦA CẮT THẬN QUA NỘI SOI Ổ BỤNG KHÔNG?
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Vũ Lê Chuyên*, Phan Văn Hoàng**, Đỗ Anh Toàn***, Phạm Hữu Đoàn***

TÓM TẮT
Mục tiêu: Báo cáo lại và đánh giá tính khả thi của phẫu thuật cắt thận qua ngã nội soi ổ bụng – trong
và sau phúc mạc - cho thận mất chức năng do lao qua 14 trường hợp đầu tiên.
Tư liệu và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 14 trường hợp đầu tiên thực hiện cắt thận qua nội soi ổ
bụng cho thận mất chức năng do lao niệu trong thời gian từ 5/2003 đến 11/2006. Tuổi bệnh nhân trung
bình là 44,5 (16-72), với 6 nam và 8 nữ. Có 2 nhóm bệnh nhân: nhóm cắt thận qua nội soi ổ bụng trong
phúc mạc và nội soi sau phúc mạc vùng hông lưng. Chúng tôi dùng 3-4 trocar để cắt thận đơn giản. Đánh
giá kết quả phẫu thuật trong thời gian hậu phẫu.
Kết quả: 6 bệnh nhân cắt thận bên trái, 8 bệnh nhân cắt thận bên phải. Có 4 trường hợp cắt thận qua nội soi
trong phúc mạc và 10 trường hợp nội soi sau phúc mạc. Kỹ thuật mổ: bóc tách quanh thận ngoài vỏ bao thận: 13
trường hợp, bóc tách quanh thận dưới bao và ngoài bao thận: 1 trường hợp. Thời gian mổ trung bình: 163,3 phút
(140-180). Lượng máu mất ước tính: 60 ml (30–150). Tai biến trong khi mổ: 1 trường hợp thủng phúc mạc lỗ
nhỏ (nội soi sau phúc mạc). Năm trường hợp chuyển mổ hở (35,7%): 4 trường hợp do viêm dính quanh thận
nhiều tạo một bao xơ dày bao lấy thận, trong đó có trường hợp lao thận dạng bướu; 1 trường hợp chảy máu nhiều
do “oozing” do viêm dính quanh thận nhiều. Không có truyền máu quanh mổ. Rút ống dẫn lưu sau mổ 3,66
ngày (2 -7); thời gian nằm viện sau mổ: 4,3 ngày (1 -7).
Kết luận: Tuy tỉ lệ chuyển mổ hở còn cao, cắt thận mất chức năng do lao bằng nội soi ổ bụng là khả dĩ
với điều kiện hiện tượng viêm dính quanh thận không quá dày đặc. Với sự cải tiến kỹ thuật mổ, cắt thận qua
nội soi ổ bụng sẽ không còn là chống chỉ định trong thận mất chức năng do lao nữa.

ABSTRACT
ARE TUBERCULOUS NONFUNCTIONING KIDNEYS
AMENABLE TO LAPAROSCOPIC NEPHRECTOMY?


Nguyen Phuc Cam Hoang, Vu Le Chuyen, Phan Van Hoang, Do Anh Tuan, Pham Huu Doan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 283 - 289
Objectives: Report and assess the feasibility of laparoscopic nephrectomy – intraperitoneal and
retroperitoneal - for tuberculous nonfunctioning kidneys by our 14 initial cases.
Materials and Method: Review of 14 initial cases of laparoscopic nephrectomy for tuberculous
nonfunctioning kidneys from May 2003 to November 2006. Patients’ mean age: 44.5 (16 – 72), with 6 males
and 8 females. There were 2 groups: intraperitoneal and retroperitoneal laparoscopic nephrectomy. Three to 4
ports were used to perform simple nephrectomy. Outcome assessed in the postoperative recovery.
Results: 6 patients underwent left nephrectomy, 8 underwent right nephrectomy. There were 4
intraperitoneal laparoscopic nephrectomies and 10 retroperitoneoscopic nephrectomies. Operative technique:
extracapsular perirenal dissection: 13 cases, extracapsular and subcapsular perirenal dissection: 1 case.
Mean operating time: 163.3 minutes (140-180), estimated blood loss: 60 ml (30–150), intraoperative
* Khoa Niệu C, Khu Điều trị Kỹ thuật cao, bệnh viện Bình Dân
** Khoa Niệu A, bệnh viện Bình Dân
*** Phân môn Niệu Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

1


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

incident: 1 small-hole peritoneal penetration (retroperitoneoscopic nephrectomy). There were 5 conversions
(35,7%): 4 cases with dense perinephric adhesions, in which one pseudotumoral TB; 1 case with active
haemorrhage due to perinephric inflammatory oozing. There was no perioperarive blood transfusion. Drain
removal at day 3.66 post.op (2 – 7); post.op hospital stay: 4.3 days (1 – 7).
Conclusion: Although the conversion rate was quite high, laparoscopic nephrectomy for tuberculous

non functioning kidneys is possible on condition that the perinephric inflammation and adhesions are not too
dense. With the refinements of operative technique, laparoscopic nephrectomy should not be contraindicated
for tuberculous non functioning kidneys anymore.

ĐẶT VẤN ĐỀ

UIV

Thận mất chức năng do lao niệu ngày nay
là một trong những chỉ định cắt thận do bệnh
lý thận lành tính(6,10). Cắt thận trong trường
hợp này thường có những khó khăn kỹ thuật
do tình trạng viêm dính tạo nhiều mô xơ ở
vùng quanh thận(8,9,13). Một số tác giả(4,7,16) xem
đây là chống chỉ định của phẫu thuật cắt thận
nội soi. Bài viết này đánh giá tính khả thi của
phẫu thuật cắt thận qua ngã nội soi ổ bụng –
ngã trong và sau phúc mạc -qua14 trường hợp
thận mất chức năng do lao niệu.

Để xác định thận không hoạt động, chức
năng thận đối diện..…

TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP
THỰC HIỆN
Tư liệu
Hồi cứu 14 bệnh nhân được mổ cắt thận nội
soi do thận mất chức năng do lao từ tháng
5/2003 đến 11/2006. 1 bệnh nhân chẩn đoán
trước mổ là bướu thận, 6 bệnh nhân chẩn đoán

trước mổ là thận ứ nước mất chức năng, 7 bệnh
nhân chẩn đoán trước mổ là thận mất chức năng
do lao.

Phương pháp thực hiện
Chẩn đoán lao niệu bằng xét nghiệm nước tiểu
Tìm vi khuẩn kháng axít-cồn, phản ứng
PCR, cấy nước tiểu trên môi trường
Lowenstein-Jensen.
Chẩn đoán hình ảnh và chức năng thận
Siêu âm
Phát hiện thận ứ nước, niệu quản giãn, thận
teo, hoặc bướu thận đi kèm.

Xạ hình thận
Đánh giá chức năng thận riêng rẽ, xác định thận
đã mất chức năng hoặc giảm chức năng nặng.
CT scanner thận
Khi nghi ngờ có bướu thận đi kèm (siêu âm).
CT cũng giúp xác định cấu trúc thận bệnh (độ ứ
nước, thận ứ mủ,…) hoặc tổn thương lao trong
chủ mô thận.

Phẫu thuật nội soi cắt thận dùng 2 ngã vào
Nội soi ổ bụng trong phúc mạc và nội soi sau
phúc mạc vùng hông lưng(3,4,13). Kỹ thuật mổ: xử
lý cuống thận trước, cắt niệu quản và tách quanh
thận sau để tránh chảy máu.
Theo dõi hậu phẫu
Ghi nhận ngày bệnh nhân có gaz lại, ngày

rút thông dẫn lưu, biến chứng hậu phẫu, ngày
xuất viện.

KẾT QUẢ
Trong thời gian từ 5/2003 đến 11/2006 có 14
bệnh nhân.

Bệnh nhân
Tuổi
Từ 16 -72 tuổi. Trung bình: 44,5 tuổi.
Giới
Nam: 6; Nữ: 8
Bên cắt thận
Bên trái: 6 bệnh nhân; Bên phải: 8 bệnh nhân
ASA
I: 3 bệnh nhân; II: 8 bệnh nhân; III: 3 bệnh nhân

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
2


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

Lâm sàng
Đau lưng: 14 / 14 Đau vùng bìu (lao mào
tinh): 1 / 14
Sốt: 1 / 14 Rối loạn đi tiểu: 8 /14


Cận lâm sàng
Siêu âm
Thận ứ nước độ II: 3 / 14 Bướu thận phải
66mm (?): 1 / 14
Thận ứ nước độ III: 10 / 14 Thận teo bất kể
độ ứ nước: 3 / 14
UIV
1 bệnh nhân không làm UIV, chỉ làm CT vì
siêu âm nghi bướu thận (?).
Thận có vôi hóa, câm:1 / 13; Thận câm:11 /
13; Thận kém chức năng: 1 / 13 (Hình 1A).
UPR
2 trường hợp: thấy nghẹt niệu quản nội thành.

Hình 1B: Xạ hình thận: chức năng thận trái giảm
nặng (19%)

CT scanner thận
1 trường hợp là trường hợp siêu âm có bướu
thận phải: CT nghi bướu AML 5cm (?), xuất
huyết gây máu tụ dưới bao thận (Hình 2 A,B)

Xạ hình thận
1 bệnh nhân không làm xạ hình (vì CT nghi
bướu thận)
12 / 13 trường hợp thận câm trên xạ hình, 1 /
13 chức năng thận trái = 19% (Hình 1B).

Hình 2A: CT thấy tụ máu dưới bao thận phải.


A
Hình 1A: UIV chức năng thận trái kém.
Hình 2. A, CT thấy tụ máu dưới bao thận phải. B,
CT thấy bướu cực dưới thận phải

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

3


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
Phẫu thuật
Số trocar
Trừ 5 trường hợp chuyển mổ hở
3 trocar: 5 trường hợp; 4 trocar: 4 trường hợp
Ngã vào
4 / 14 trường hợp nội soi ổ bụng trong phúc mạc.
10 / 14 trường hợp nội soi sau phúc mạc
vùng hông lưng.
Kỹ thuật mổ
Bóc tách quanh thận ngoài bao thận: 13
trường hợp
Bóc tách quanh thận dưới bao và ngoài bao
thận: 1 trường hợp
Thời gian mổ (phút)
Từ 140 – 180, trung bình: 163,3
Lượng máu mất ước tính (ml)
Trừ 5 trường hợp chuyển mổ hở
Từ 30 – 150, trung bình: 60 ml

Tai biến trong khi mổ
1 trường hợp nội soi sau phúc mạc làm
thủng phúc mạc lỗ nhỏ do viêm dính quanh
thận nhiều.
Chuyển mổ hở
5 / 14 trường hợp (35,7%), đều là nội soi sau
phúc mạc.
4 trường hợp do viêm dính quanh thận
nhiều, mô viêm tạo một bao xơ dày bao lấy thận,
trong đó có 1 trường hợp lao thận dạng bướu, 1
trường hợp ca đầu tiên chưa có kinh nghiệm, tay
nghề còn non.
1 trường hợp chảy máu nhiều do “oozing”
do viêm dính quanh thận nhiều, cuống thận
nằm trong cân Gerota dày, không xử lý được
bằng nội soi.

Hậu phẫu
Nhu động ruột trờ lại (ngày)
Trung bình: 1,83 (1 -3)
Rút ống dẫn lưu (ngày)
Trung bình: 3,66 (2 – 7)

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
4

Nghiên cứu Y học

Nằm viện sau mổ (ngày)

Trung bình: 4,3 (1 – 7)

Kết quả bệnh học thận
Đại thể
Thận ứ nước: 7 / 14; Thận ứ mủ: 2 / 14
Thận ứ nước, teo: 4 /14; Dạng bướu thận: 1 / 14
Vi thể
Lao thận: 13 / 14; Viêm thận bể thận xơ hoá: 1 / 14

BÀN LUẬN
Chỉ định cắt bỏ thận mất chức năng do
lao niệu sinh dục
Quan điểm hiện nay của các tác giả đối với
thận mất chức năng do lao một bên nghiêng
nhiều về cắt bỏ thận.
Các tác giả chủ trương cắt bỏ thận:
Kerr (1969)(11) khuyến cáo cắt bỏ cơ quan tổn
thương nặng do lao.
Wong và Lau (1980)(20) chủ trương mổ thám
sát cho tất cả bệnh nhân thận mất chức năng do
lao để (1) Cứu thận trước một tổn thương bế tắc
đường tiểu trên (2) Lấy bỏ một nguồn nhiễm
trùng (3) Làm giảm thời gian điều trị và thời
gian lành bệnh.
Flechner và Gow (1980)(3) nhận thấy các biến
chứng muộn như apxe vùng lưng và cao huyết
áp xảy ra nhiều năm sau khi ngưng điều trị
thuốc lao dù bệnh nhân đã sạch trùng, có thể là
do tái hoạt các vi khuẩn. Tỉ lệ cao huyết áp ở
bệnh nhân thận mất chức năng một bên do lao là

23,2%, và 2/3 bệnh nhân sau cắt thận huyết áp
trở về bình thường.
Osterhage (1980) khảo sát trên vi thể các mẫu
bệnh phẩm cắt thận lao thấy mặc dầu bệnh nhân
đã được tiệt trùng 50% các mẫu thận vẫn có vi
khuẩn kháng axit-cồn.
Abbou (1982)(1) chủ trương cắt thận mất chức
năng do lao khi phối hợp với hóa trị lao ngắn
ngày. Nếu bệnh nhân có chống chỉ định phẫu
thuật thì phải điều trị lao dài ngày.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
Gow (1998)(6), Johnson (2002)(10) chỉ định cắt
thận khi: (1) thận mất chức năng có hay không
có vôi hóa (2) tổn thương lan tỏa ở thận, kèm
theo cao huyết áp hay hẹp khúc nối bể thận-niệu
quản (3) có bướu thận đi kèm. Đối với 2 tác giả
này, cắt bỏ thận là không bàn cãi trong thận mất
chức năng do lao niệu.
Các tác giả không chủ trương cắt bỏ thận:
Bloom (1970)(2) theo dõi lâu dài 25 trường
hợp thận mất chức năng do lao thấy hiếm khi
cần phải cắt bỏ thận vì các biến chứng muộn như
cao huyết áp, viêm thận bể thận tái phát, đau
lưng hay bệnh lao tái hoạt.
Teklu (1976)(17) chủ trương không cắt bỏ thận
khi thận mất chức năng không có triệu chứng
với điều kiện BK nước tiểu phải âm hóa trên
nuôi cấy và hóa trị lao dài ngày.

Chúng tôi thiên về cắt bỏ thận mất chức
năng do lao. Trong thực tế chúng tôi sợ bỏ sót
thận hóa mủ nếu không mổ thám sát(14).

Quan điểm về phẫu thuật cắt bỏ thận
mất chức năng do lao bằng nội soi
Một số tác giả như Gaur(4), Gupta(7),
Rassweiler(16) xem thận mất chức năng do lao là
một thách thức về kỹ thuật và là chống chỉ định
tương đối cho nội soi sau phúc mạc do hiện
tượng dính quanh thận dày đặc và tỉ lệ chuyển
mổ hở cao có thể đến 80%. Trong mổ hở cắt thận
mất chức năng do lao chúng tôi cũng đã trải
nghiệm điều này. Tuy nhiên, trong thời gian
qua, ngay trong trung tâm của chúng tôi với
kinh nghiệm qua 40 trường hợp cắt thận qua nội
soi ổ bụng trong phúc mạc của Chuyên(18) thấy
có 3 trường hợp lao thận thành công, trong đó có
trường hợp không dính quanh thận nhiều như
trong Y văn mô tả nên chúng tôi mạnh dạn áp
dụng cho nội soi cắt thận lao mất chức năng.
Hemal (2000)(8) đã thực hiện thành công 7/9
trường hợp cắt thận mất chức năng do lao qua
nội soi sau phúc mạc với tỉ lệ chuyển mổ hở là
22%. Hai trường hợp chuyển mổ hở của ông là 2
ca đầu tiên khi ông chưa cải tiến kỹ thuật mổ, thì
bóc tách quanh thận ngay từ đầu gây chảy máu

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân


Nghiên cứu Y học

nhiều phải dẫn đến mổ hở. Trong 7 trường hợp
còn lại ông đều thành công nhở cải tiến kỹ thuật
mổ: đặt túi bóc tách ngoài cân Gerota, vào bóc
tách và xử lý cuống thận từ đầu theo như Gill mô
tả(5), sau đó mới bóc tách quanh thận chủ yếu đi
ngoài cân Gerota tránh được chảy máu vì mặt
phẳng này ít chảy máu. Như vậy, kỹ thuật này
giống như cắt thận trong bướu thận. Ông cho
rằng tỉ lệ chuyển mổ hở này là chấp nhận được
tuy còn cao hơn so với các bệnh lý thận lành tính
khác. Từ đó Hemal khuyến cáo không nên xem
thận mất chức năng do lao là chống chỉ định của
phẫu thuật cắt thận nội soi nữa.

Trong 14 trường hợp của chúng tôi
9 trường hợp mổ nội soi thành công
Có 4 trường hợp nội soi trong phúc mạc đều
thành công và 5 trường hợp nội soi sau phúc
mạc: 1 trường hợp dính quanh thận nhiều phải
kết hợp tách quanh thận dưới vỏ bao và ngoài vỏ
bao thận (trường hợp này thử cố gắng tách
quanh thận ngoài cân Gerota cũng không được), 4
trường hợp còn lại không dính quanh thận
nhiều, tách quanh thận ngoài vỏ bao thận (1
trường hợp thận ứ mủ, 1 trường hợp thận ứ
nước, 2 trường hợp thận hơi teo, 1 trường hợp
thận kích thước bình thường). Trong phẫu thuật
nội soi sau phúc mạc chúng tôi luôn đặt túi bóc

tách ngoài cân Gerota, sau đó chúng tôi xẻ cân
Gerota như những trường hợp cắt thận mất chức
năng do nguyên nhân khác vào tìm thận và bóc
tách cuống thận trong cân Gerota.
Như vậy phẫu thuật nội soi thành công khi
hiện tượng viêm dính quanh thận không quá
nhiều tuy bóc tách quanh thận có gặp nhiều khó
khăn hơn bệnh lý thận khác. Ngoài kỹ thuật xử
lý mạch máu thận ngoài cân Gerota và tách quanh
thận ngoài cân Gerota như Hemal giới thiệu(8,9),
qua những trường hợp nội soi thành công của
chúng tôi, ta thấy cũng có thể cắt cuống thận
trong cân Gerota và tách quanh thận dưới vỏ bao
thận hoặc ngoài vỏ bao thận.
Nội soi trong phúc mạc có tỉ lệ thành công cao
hơn nội soi sau phúc mạc không? Vì số liệu

5


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Nghiên cứu Y học

còn ít nên chưa thể khẳng định tuy nội soi
trong phúc mạc có ưu thế phẫu trường rộng rãi
hơn, bóc tách cuống thận ở mặt trước dễ dàng
hơn?
5 trường hợp chuyển mổ hở
5 trường hợp này đều mổ sau phúc mạc. Một

trường hợp là lao thận giả bướu, 4 trường hợp
khác: 1 trường hợp là ca đầu thiếu kinh nghiệm
mổ nội soi, 3 trường hợp còn lại mô viêm dính
quanh thận dày đặc, trong đó có 2 trường hợp
không tiếp cận được cuống thận ngay từ đầu,
một trường hợp chảy máu nhiều do “oozing”
lúc bóc tách quanh thận. 3 trường hợp này lúc
chuyển mổ hở cũng gặp nhiều khó khăn.
Trường hợp chẩn đoán trước mổ là bướu thận
Chẩn đoán trước mổ là bướu AML hoặc
bướu chủ mô thận phải. Vì không khẳng định
được là bướu gì nên quyết định vào cuống thận
ngoài cân Gerota (cắt thận rộng) và sau khi kẹp cắt
động mạch thận thì không bóc tách được tĩnh
mạch thận vì bao xơ bọc quanh tĩnh mạch rất
dày. Tiến hành bóc tách quanh thận ngoài cân
Gerota thấy rất dính làm thủng phúc mạc làm
hẹp phẫu trường nên phải chuyển mổ hở. Sau
mổ thấy đại thể thận có cấu trúc như bướu chủ
mô thận cực dưới (Hình 3A,B). Mô học thận: lao
thận. Sau mổ thử vi khuẩn kháng acid-cồn trong
nước tiểu bệnh nhân thấy dương tính.

B
Hình 3. A, B, bệnh phẩm thận: lao thận đại thể dạng
bướu chủ mô thận.Vi thể: mô thận có các nang lao gồm
chất hoại tử bã đậu trung tâm, bao quanh là các limpho
bào thoái hóa và đại bào Langhans (Số tiêu bản 7267)
Đây là một trường hợp lao thận giả bướu
điển hình. Trong 14 trường hợp lao niệu thể giả

bướu của Le Guillou (12) chỉ có 1 trường hợp giả
bướu ở thận, 9 trường hợp là giả bướu bàng
quang. Trong trường hợp lao giả bướu thận ông
nhấn mạnh vai trò chẩn đoán phân biệt của CT,
tuy nhiên trường hợp của chúng tôi CT cũng
chẩn đoán nhầm là bướu thận. Chúng tôi nghĩ
rằng CT có thể giúp ích trong chẩn đoán trước
mổ mức độ viêm dính quanh thận nhiều hay ít
để tiên lượng khả năng thành công của phẫu
thuật nội soi.

So sánh với loạt cắt thận nội soi cho tất
cả các bệnh lý thận nói chung
Tác giả

Số
Số Đường Thời Ngày Thương Chuyển
bệnh trocar vào gian nằm tật
mổ hở
(%)
nhân
mổ viện (%)
(phút)
Rassweiler 482
4
Trong 188 5,5
14
9,4
(16)
, 1998

PM
Sau PM
Chuyên và 136 3 - 4 Trong 127,8 5,2
7,4
8,1
Hoàng,
PM
(19)
2006
Sau PM
Loạt này 14
3-4 Trong 163,3 4,3
0
35,7
(lao thận)
PM
Sau PM

A

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
6

Từ bảng trên ta thấy cắt thận nội soi trong
lao thận có thời gian mổ lâu hơn và tỉ lệ chuyển
mổ hở cao hơn hẳn cắt thận nội soi cho tất cả các
bệnh lý thận.



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008
KẾT LUẬN
Trong điều kiện của chúng tôi, cắt thận mất
chức năng do lao bằng nội soi ổ bụng – trong
phúc mạc và sau phúc mạc - là khả dĩ với điều
kiện hiện tượng viêm dính quanh thận không
quá dày đặc. Về kỹ thuật mổ để tránh chảy máu
nhiều và để dễ thành công nên xử lý cuống thận
trước (ngoài bao hoặc trong bao Gerota) và tách
quanh thận có thể tách ngoài bao Gerota như kỹ
thuật của Hemal hoặc dưới vỏ bao thận hoặc ngoài
vỏ bao thận như kỹ thuật của chúng tôi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

3.

4.

5.

6.
7.

8.

9.


10.

11.

12.

13.

Abbou C.C., Chopin D., Kouri G., Daloubeix H., Estève C.,
Lavarenne V., Bottine H., Auvert J.: Faut-il opérer les reins
muets tuberculeux? Ann.Urol,1982,16(4), pp. 254-56.
Bloom S., Wechsler H. and Lattimer J. K.: Results of a longterm study of non-functioning tuberculous kidneys.
J.Urol.,1970,104, pp. 654-7.
Flechner S. M., Gow J. G.: Role of nephrectomy in the
treatment of non-functioning or very poorly functioning
unilateral tuberculous kidney. J.Urol.,1980, 123,pp.822-5.
Gaur D.D.: Hội thảo phẫu thuật nội soi sau phúc mạc. Đại
học Y Dược TP.HCM, Trung tâm huấn luyện phẫu thuật
nội soi, tháng 4-2005.
Gill I.S.: Retroperitoneal laparoscopic nephrectomy.
Urologic Clinics of North America, Vol.25, 2,1998, pp. 343360.
Gow J. G.: Genitourinary tuberculosis. Campbell’s Urology,
7th ed., 1998, Vol.1, pp.807-36.
Gupta N. P., Argawal A. K. and Sood S.: Tubercular
pyelonephritic nonfunctioning kidney - another relative
contraindication for laparoscopic nephrectomy: a case
report. J Laparoendosc Adv Surg Tech, 7:131,1997.
Hemal A. K., Gupta N. P., Kumar R.: Comparison of
retroperitoneoscopic nephrectomy with open surgery for

tuberculous nonfunctioning kidney. J.Urol,Vol.164, 2000,
pp.32-35.
Hemal A. K., Gupta N. P., Wadhwa S. N., Goel A., Kumar
R.:
Retroperitoneoscopic
nephrectomy
and
nephroureterectomy for benign non-functioning kidneys:
a single-center experience. Urology, 2001:57:644-649.
Johnson W. D., Johnson C. W., Lowe F. C.: Tuberculosis
and parasitic diseases of the genitourinary system.
Campbell’s Urology, 8th ed., 2002,Vol.1, pp.743-63.
Kerr W. K., Gale G. L., Peterson K. S. S.: Reconstructive
surgery for genitourinary tuberculosis. J. Urol, 1969, 101,
pp. 254-66.
Le Guillou M., Ferrière J.M., Pourquié J., Gaston R.,
Zaranis C.: Les formes pseudotumorales de tuberculose
urogénitale. Ann Urol.,1982,16(4), pp. 249-51.
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Trần Quang Phúc, Phạm Hữu
Đoàn, Đỗ Anh Toàn: Có thể cắt thận qua ngã nội soi sau
phúc mạc cho thận mất chức năng do lao không? Y học
thành phố Hồ Chí Minh, Số đặc biệt Hội nghị Khoa học Kỹ
thuật bệnh viện Bình Dân 2006, Phụ bản của Tập 10* (1),
tr. 92-98.

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

14.

15.


16.

17.
18.

19.

20.

Nghiên cứu Y học

Nguyen Phuc Cam Hoang, Nguyen Van An, Vu Le
Chuyen, Nguyen Te Kha, Tran Thuong Phong:
Retroperitoneoscopy in Urology: The Binh Dan experience
in 276 initial cases. Urology, 28th Congress of the Société
Internationale d’Urologie, November 2006, Vol.68(5A),
pp.19.
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng: Điều trị di chứng hẹp niệu
quản đoạn cuối do lao niệu sinh dục. Luận án Tiến sỹ Y
học, trình cấp Bộ môn, Trường Đại học Y Dược TP Hồ Chí
Minh, tháng 9/2005.
Rassweiler J., Fornara P., Weber M., Janetschek G.,
Fahlenkamp D., Henkel T., Beer M.: Laparoscopic
nephrectomy: the experience of the laparoscopy group of
the German Urologic Association. J. Urol.,1998,160,18-21.
Teklu B., Ostrow J. H.: Urinary tuberculosis: a review of 44
cases treated since 1963. J.Urol,1976,115, pp.507-9.
Vũ Lê Chuyên: Các kinh nghiệm từ 40 trường hợp cắt thận
bệnh lý qua ngã nội soi ổ bụng. Tập san hội nghị nội soi và

phẫu thuật nội soi. Đại học Y Dược TPHCM-Bệnh viện
Hoàn Mỹ, tháng 10-2004, tr.313-316.
Vu Le Chuyen, Nguyen Phuc Cam Hoang, Nguyen Van
An, Nguyen Te Kha, Do Anh Toan: Laparoscopic
nephrectomy: the Binh Dan experience in 3 years.
Int.J.Urol.(2006)13(Suppl.1), A1-A22, 8th Asian Congress of
Urology.
Wong S.W., Lau W.Y.: The surgical management of nonfunctioning tuberculous kidney. J.Urol,1980,124, pp.187191.

7


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Chuyên
Đề HN KH KT BV Bình Dân
8

Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008

Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân

Nghiên cứu Y học

9




×