Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

10 giá trị của BruxChecker trong chẩn đoán nghiến răng khi ngủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.51 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

10 GIÁ TRỊ CỦA BRUXCHECKER TRONG CHẨN ĐOÁN 
NGHIẾN RĂNG KHI NGỦ 
Nguyễn Vũ Thúy Quỳnh*, Nguyễn Thị Kim Anh*, Nguyễn Phúc Diên Thảo*, Đoàn Hồng Phượng* 
 Trần Thị Nguyên Ny* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: xác định và so sánh sự mất màu đỏ trên BruxChecker giữa hai đối tượng có và không 
nghiến răng khi ngủ để đánh giá giá trị của BruxChecker trong chẩn đoán nghiến răng khi ngủ. 
Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu cắt ngang trên bệnh nhân đến khám và sinh viên của khoa Răng 
Hàm Mặt ‐ ĐH Y Dược Tp.HCM. Thu thập thông tin, trả lời bảng câu hỏi và khám lâm sàng để chọn 40 đối 
tượng cho 2 nhóm, mỗi nhóm 20 đối tượng, cho đeo BruxChecker trong 2 đêm liên tiếp, đánh giá và so sánh sự 
mất màu trên BruxChecker giữa hai nhóm sau khi chấm bằng thang điểm đánh giá BruxChecker. Phân loại các 
kiểu mẫu nghiến ở nhóm có nghiến răng khi ngủ. 
Kết  quả:  Có  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  (p<0,001)  về  sự  mất  màu  đỏ  trên  BruxChecker  ở  2  nhóm  có 
nghiến răng khi ngủ và không nghiến răng khi ngủ. Về phân loại các kiểu mẫu nghiến trên BruxChecker của 
nhóm có nghiến răng khi ngủ với tỉ lệ khá cao  
Kết luận: có thể sử dụng BruxChecker để chẩn đoán nghiến răng khi ngủ. Bên cạnh đó từ sự mất màu đỏ 
trên máng thể hiện những tiếp xúc của các răng trên hai hàm có thể phân loại các kiểu mẫu nghiến ở đối tượng 
có nghiến răng khi ngủ. 
Từ khóa: nghiến răng khi ngủ, kiểu mẫu nghiến 

ABSTRACT 
THE EFFICIENCY OF BRUXCHECKER IN THE DIAGNOSIS OF SLEEP BRUXISM 
Nguyen Vu Thuy Quynh, Nguyen Thi Kim Anh, Nguyen Phuc Dien Thao, Doan Hong Phuong,  
Tran Thi Nguyen Ny * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 325 ‐ 331 
Purpose:  The  object  to  identify  and  compare  the  loss  of  red  on  BruxChecker  between  two  groups:  no 
sleep bruxism (No SB) and sleep bruxism (SB) and to assess the efficiency of BruxChecker in the diagnosis of 


sleep bruxism. 
Materials and methods: A cross‐sectional study was conducted on 40 participants from the Clinic of 
the Faculty of Odonto‐Stomatology, University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh City. Gathering 
information,  wearing  BruxChecker  in  2  consecutive  nights,  identifying  and  comparing  between  the  two 
groups, classifying models the tooth grinding pattern. 
Results: There are significant differences (p<0.001) in discoloured level of red on BruxChecker between 
2 groups: no sleep bruxism and sleep bruxism. The result that overall rate of mediotrusive grinding is 80% 
in sleep bruxism group. 
Conclusions: It is able to diagnose sleep bruxism by BruxChecker. Besides, the BruxChecker is shown 
to be a useful tool in examining the grinding pattern during sleep bruxism. 
Keywords: Sleep bruxism, BruxChecker, the grinding pattern 
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM 
Tác giả liên lạc: TS. Trần Thị Nguyên Ny  ĐT: 01662019680 Email:   

Răng Hàm Mặt 

325


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

MỞ ĐẦU 
Chẩn đoán và kiểm soát nghiến răng luôn là 
đề tài hấp dẫn với nhiều nhà nghiên cứu và các 
bác  sĩ  lâm  sàng.  Tuy  nhiên,  hiện  nay  có  nhiều 
quan  điểm  chưa  đồng  thuận  quanh  việc  phân 
loại,  chẩn  đoán  và  định  nghĩa  về  nghiến  răng. 
Một loạt các vấn đề liên quan đến hệ thống nhai 

có  thể  một  phần  do  thói  quen  cận  chức  năng 
như  nghiến  răng  bao  gồm  chấn  thương  nhai, 
mòn  răng,  di  chuyển  răng,  rối  loạn  thái  dương 
hàm, thất bại các phục hồi nha khoa và thậm chí 
gây  ra  những  cơn  đau  vùng  mặt…(10).  Mặc  dù 
đây không phải là một rối loạn đe dọa đến tính 
mạng nhưng có thể ảnh  hưởng  đến  chất  lượng 
cuộc  sống(4).  Kể  từ  khi  nghiến  răng  được  coi  là 
một yếu tố góp phần các vấn đề về răng, xem xét 
thói quen cận chức năng đã thật cần thiết trong 
chẩn  đoán  và  lập  kế  hoạch  điều  trị  trước  khi 
thực hiện bất kỳ can thiệp nào. Tuy nhiên, hiện 
nay  việc  chẩn  đoán  nghiến  răng  vẫn  chủ  yếu 
dựa  trên  bảng  câu  hỏi  hay  đến  khi  xuất  hiện 
diện mòn trên răng, và không có phương pháp 
dứt khoát đáng tin cậy để đánh giá nghiến răng 
trên lâm sàng hợp lý, hiệu quả, chi phí thấp và 
có  tác  động  vào  quyết  định  điều  trị(4).  Những 
phương pháp mới gần  đây  như  ghi  điện  đồ  cơ 
nhai, đa ký giấc ngủ cho một cái nhìn tổng thể, 
chi tiết về nghiến răng đáng tin cậy. Tuy nhiên 
có những hạn chế nhất định, khó sử dụng  trên 
dân  số  lớn,  chi  phí  mắc,  thay  đổi  môi  trường 
giấc ngủ có thể ảnh hưởng đến hành vi thực tế 
của nghiến răng. BruxChecker là một tấm nhựa 
polyvinyl mỏng, dày 0,1 mm, được chế tạo bằng 
máy  ép  chân  không  Biostar  (Scheu  Dental  ‐ 
Đức),  các  tấm  trong  suốt  được  làm  nóng  tại 
2300C trong 15 giây và ép trên mẫu hàm, sau đó 
đã được cắt dọc theo rìa nướu, bề mặt nhai được 

sơn với thuốc nhuộm màu đỏ. Axit màu đỏ 51, 
còn  được  gọi  là  Red  số  3  hoặc  erythrosin  B,  là 
một loại thuốc nhuộm được sử dụng màu thực 
phẩm nhân tạo  [10]. Một lợi thế của BruxChecker 
đã được chứng minh hầu như không gây nhiễu 
hoặc  ảnh  hưởng  đến  hoạt  động  của  hàm  dưới, 
và không gây sự co thắt không cần thiết của cơ 

326

nhai.  Sau  thời  gian  2  đêm  liên  tiếp  mang  loại 
máng  này,  các  kiểu  mẫu  nghiến  giữa  các  mặt 
răng được thể hiện trên bề mặt máng bởi những 
nơi mất màu sơn đỏ(10, 11). Và câu hỏi được đặt ra: 
liệu  có  thể  dùng  BruxChecker  để  chẩn  đoán 
nghiến răng hay không? 
Từ  đó  chúng  tôi  tiến  hành  nghiên  cứu  cắt 
ngang, có nhóm chứng với các mục tiêu sau: Xác 
định  giá  trị  của  BruxChecker  trong  chẩn  đoán 
nghiến răng khi ngủ. Với các mục tiêu cụ thể: 
Xác  định  mức  độ  mất  màu  đỏ  trên 
BruxChecker của nhóm không nghiến răng khi 
ngủ. 
‐  Xác  định  mức  độ  mất  mch chấm: khi chấm mẫu hàm được đặt áp 
sát vào dưới tấm kính sao cho chạm tại 3 điểm: 1 
điểm  ở  răng  trước  và  2  điểm  ở  răng  sau.  Sử 
dụng  thêm  kính  lúp  để  hỗ  trợ  cho  quan  sát 
chính xác hơn. Kính và mắt người quan sát luôn 
đặt vuông góc với tấm lưới. 
Sự mất màu đỏ trên BruxChecker được đánh 

giá  theo  thang  điểm  bán  định  lượng  do  nhóm 
nghiên cứu đề nghị với các mức độ như sau:  

3: mất màu đỏ dạng diện:S3 1 ô ≤ rộng < 3 ô; 1 
ô ≤ dài.  
4:  mất  màu  đỏ  dạng  diện  lớn:  S4rộng  ≥  3  ô; 
dài ≥ 3 ô. 
5: lủng. 
Mỗi răng được cho 1 điểm, tính điểm trung 
bình của cá nhân: 
Chỉ số TB = ∑chỉ số từng răng/∑ số răng 

0: không mất màu. 
1: mất màu dạng điểm: S1 rộng <1 ô; dài <1. 
2: mất màu đỏ dạng đường: S2 rộng < 1 ô; dài 
> 1 ô. 

Răng Hàm Mặt 

327


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 
 

2

1


0

IC + MG: vùng nghiến thuộc răng nanh có 
hoặc không răng cửa có kèm vùng nghiến bên 
hướng tâm. 
ICP: vùng nghiến thuộc răng tiền cối có hoặc 
không răng nanh và răng cửa 

 

3

4

ICP + MG: vùng nghiến  thuộc  răng  tiền  cối 
có  hoặc  không  răng  nanh  và  răng  cửa  có  kèm 
vùng nghiến bên hướng tâm 

5

 

Hình 3. Các mức điểm của thang bán định lượng 

Phân loại các kiểu mẫu nghiến dựa trên sự 
mất màu đỏ trên BruxChecker của nhóm có 
nghiến răng khi ngủ. 
20  BruxChecker  của  nhóm  có  nghiến  răng 
khi  ngủ  được  xếp  loại  theo  phân  loại  các  kiểu 

mẫu  nghiến  theo  nghiên  cứu  của  Park  và  cs. 
(2008).  Mỗi  BruxChecker  được  phân  thành  2 
bên:  phải,  trái;  mỗi  bên  được  quan  sát  và  xếp 
vào 1 trong 6 loại sau: 

ICPM:  vùng  nghiến  thuộc  răng  cối  có  hoặc 
không răng tiền cối, răng nanh và răng cửa 
ICPM + MG: vùng nghiến thuộc răng cối có 
hoặc không răng tiền cối, răng nanh và răng cửa 
có kèm vùng nghiến bên hướng tâm. 

Nhập và xử lý số liệu 
Nhập số liệu bằng phần mềm Excel và xử lý 
số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. 
Dùng phép kiểm t‐test để đánh giá sự khác 
nhau giữa 2 nhóm có ý nghĩa hay không. 

KẾT QUẢ 
Xác  định  và  so  sánh  mức  độ  mất  màu  đỏ 
trên BruxChecker giữa 2 nhóm 
Sự  mất  màu  đỏ  trên  BruxChecker  giữa  2 
nhóm có khác nhau có ý nghĩa thống kê. 

(1)

Bảng 1: Điểm trung bình chấm BruxChecker của 2 
nhóm 

(2)


No SB
Trung bình
2,03 ± 0,80
p < 0,001

(3)

SB
3,36 ± 0,35

Phép kiểm định t độc lập 

Bảng 2: Tỉ lệ % số răng của 2 nhóm ứng với các mức 
điểm theo thang điểm bán định lượng 
 
Hình 4: Một số kiểu mẫu nghiến  
(1):  IC+MG  (T);  IC+MG  (P);  (2):  ICPM+MG 
(T); ICP (P); (3): IC (P); ICP (T) 
IC:  vùng  nghiến  thuộc  răng  nanh  có  hoặc 
không răng cửa. 

328

Nhóm
No SB

Điểm
0
1
2

3
4
5
X

n
47
52
32
129
12
0
8

%
16,8
18,6
11,4
46,1
4,3
0
2,8

SB
n
5
6
8
156
55

43
7

%
1,8
2,1
2,9
55,7
19,6
15,4
2,5

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Phân  loại  các  kiểu  mẫu  nghiến  dựa  trên 
sự mất màu đỏ trên BruxChecker ở nhóm 
có nghiến răng khi ngủ: 
Bảng 3: Tỉ lệ % các kiểu mẫu nghiến quan sát trên 
BruxChecker của nhóm có nghiến răng khi ngủ 
Kiểu hướng dẫn
IC
IC+MG
ICP
ICP+MG
ICPM
ICPM+MG
MG


n
1
5
2
6
5
21
32

%
2,5%
12,5%
5%
15%
12,5%
52,5%
80%

 BÀN LUẬN 
Xác  định  và  so  sánh  mức  độ  mất  màu  đỏ 
trên BruxChecker giữa 2 nhóm: 
Để giải thích sựu khác biệt giữa hai nhóm, 
chúng  tôi  xem  xét  điểm  của  từng  răng  ở  hai 
nhóm  và  nhận  thấy:  ở  nhóm  không  nghiến 
răng  khi  ngủ,  chủ  yếu  sự  mất  màu  đỏ  trên 
BruxChecker ở bốn mức điểm đầu theo thứ tự 
là điểm 3 với 46,1%; điểm 1 với 18,6%; điểm 0 
với  16,8%;  điểm  2  với  11,4%.  Số  răng  ở  mức 
điểm  4  thấp  với  4,3%,  không  có  răng  nào  ở 
mức điểm 5. Điều này cho thấy vẫn có những 

tiếp  xúc  răng  giữa  2  hàm  trong  khi  ngủ,  chủ 
yếu ở các răng sau. Sự tiếp xúc răng này có thể 
giải  thích  do  tiếp  xúc  hai  hàm  trong  một  số 
hoạt  động  xảy  ra  khi  ngủ.  Kato  và  cs.  liệt  kê 
một số hoạt động sinh lý thuộc hàm mặt có thể 
hiện  diện  trong  bất  kỳ  giai  đoạn  nào  của  giấc 
ngủ  gồm:  nuốt,  hoạt  động  nhịp  nhàng  của  cơ 
nhai,  nói  mớ,  thay  đổi  biểu  hiện  trên  khuôn 
mặt, ho, thở dài, những co giật không đặc hiệu 
của  cơ  hàm(5)…  Trong  đó,  nuốt  là  hoạt  động 
phổ  biến  nhất(5),  diễn  ra  thường  xuyên  suốt 
ngày  đêm:  khoảng  40  lần/giờ  khi  thức(1)  và 
giảm còn 6 ‐ 10 lần/giờ khi ngủ(5). Trong động 
tác nuốt trống điển hình, các răng ở vị trí lồng 
múi hoặc tiếp xúc lui sau. Như vậy, trong một 
đêm  số  lần  nuốt  khá  nhiều,  có  thể  giải  thích 
cho  kết  quả  mất  màu  trên  những  vùng  nhỏ 
mức độ 1, 2, 3. Ngoài ra, còn một số hoạt động 
khác  như:  hoạt  động  nhịp  nhàng  của  cơ  nhai 

Răng Hàm Mặt 

Nghiên cứu Y học

xảy ra từ 1 ‐ 2 lần/giờ có ở 60% dân số ‐ đây là 
hoạt động bảo vệ liên quan đến sự tăng độ ẩm 
của đường hô hấp. Nói mớ, thay đổi biểu hiện 
trên khuôn mặt cũng là hoạt động thường gặp, 
ở trẻ em nhiều hơn người lớn ‐ được giải thích 
là những biểu hiện cảm xúc liên quan đến giấc 

mơ.  Ho,  hắt  hơi,  thở  dài  là  những  hoạt  động 
với tần suất ít hơn, thường liên quan đến phản 
xạ  bảo  vệ  đường  hô  hấp.  Cuối  cùng  là  hoạt 
động co giật không đặc hiệu của cơ hàm thuộc 
phản ứng vận động để tỉnh giấc(5). Một nghiên 
cứu của Suwa và cs. (2009)(14) khảo sát trên trẻ 
em  tiểu  học  cho  thấy  tỉ  lệ  trẻ  có  một  số  hoạt 
động như ngáy, nói mớ…  khá  cao  ở  nhóm  có 
nghiến  răng  khi  ngủ.  Và  tỉ  lệ  thấp  hơn  ở  trẻ 
thuộc  nhóm  không  nghiến  răng.  Đáng  tiếc  là 
BruxChecker  chỉ  giúp  thấy  được  các  tiếp  xúc 
răng  hai  hàm  đã  xảy  ra  trong  khi  ngủ  chứ 
không  giúp  phân  biệt  tiếp  xúc  đó  là  do  hoạt 
động nào gây ra. Khắc phục điều này thì phải 
cần đến thiết bị đa ký giấc ngủ hay ghi điện cơ 
đồ cơ nhai để giúp phân biệt nghiến răng thật 
sự với các hoạt động sinh lý khác xảy ra trong 
khi ngủ.  
Ở nhóm có nghiến răng khi ngủ, sự tiếp xúc 
răng  giữa  2  hàm  xảy  ra  liên  tục  với  cường  độ 
mạnh  hơn  rất  nhiều  so  với  tiếp  xúc  răng  khi 
nuốt.  Có  nhiều  định  nghĩa  về  nghiến  răng  từ 
trước đến nay, thế nhưng tất cả đều chung nhất 
ở điểm là “có sự tiếp xúc mạnh giữa các bề mặt 
răng”  (theo  American  Academy  of  Pediatric 
Dentistry)(8) và “sự ma sát với cường độ cao và 
kéo dài” (từ điển tiếng Pháp Y học và Sinh học). 
Và  theo  phân  loại  nghiến  răng  của  Hartmann 
(1993) thì nghiến răng ban đêm thường rơi vào 
dạng nghiến răng lệch tâm, tức là có sự chuyển 

động  nhịp  nhàng  của  hàm  thực  hiện  các  vận 
động  không  theo  diện  khớp  thông  thường  mà 
phát  triển  lực  nằm  ngang  với  trục  của  răng(9). 
Chúng tôi cho rằng sự liên hệ giữa các răng như 
vậy  đã  tạo  ra  vùng  mất  màu  theo  những  diện 
trên BruxChecker. Và theo thang chấm điểm bán 
định lượng sự mất màu đó ở ba mức điểm sau 
của thang điểm là mức 3, 4, 5. Xem xét trên từng 
răng ở nhóm có nghiến răng khi ngủ có:  55,7% 

329


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

mức  điểm  3;  19,6%  mức  điểm  4;  15,4%  mức 
điểm 5. Mức điểm 4 thường thấy trên răng sau, 
nếu gặp ở các răng trước thì thường sẽ thấy diện 
mòn làm phẳng rìa cắn khá rõ trên những răng 
này.  Cuối  cùng,  mức  độ  nghiến  cao  nhất  theo 
thang điểm chúng tôi đánh giá là mức 5 tức lủng 
máng, những múi ghi nhận mức độ 5 thường ở 
đỉnh múi răng nanh hoặc múi ngoài một số răng 
sau.  Như  đã  nói  ở  trên,  trước  đây  nhiều  nhà 
nghiên  cứu  đã  dựa  vào  số  lớp  nhựa  lủng  trên 
máng  Bruxcore  để  đánh  giá  mức  độ  nghiến 
răng(4,13),  và  vì  có  nhiều  lớp  nên  Bruxcore  khá 
dày,  được  mang  trong  vòng  5  đêm.  Vì  vậy,  dù 

BruxChecker  khá  mỏng  hơn  Bruxcore,  chỉ 
0,1mm nhưng do trong thời gian ngắn hơn chỉ 2 
đêm  nên  mức  độ  nghiến  mức  lủng  máng  cũng 
có thể xếp vào mức nghiến nhiều.  

Phân loại các kiểu mẫu nghiến dựa trên sự 
mất  màu  trên  BruxChecker  ở  nhóm  có 
nghiến răng khi ngủ 
Phân loại các kiểu mẫu nghiến thể hiện trên 
BruxChecker  đã  được  báo  cáo  bởi  các  tác  giả 
Onodera  và  cs.  (2006),  Park  và  cs.  (2008), 
Sugimoto  và  cs.  (2011),  và  Atlas  Occlusion 
Diagnosis  by  BruxChecker  được  xuất  bản  bởi 
trường Kanagawa ‐ Nhật Bản(10,11,12,15). Đối với các 
tác  giả  này,  trên  lâm  sàng,  khi  thực  hiện  một 
phục  hình  hay  can  thiệp  trên  khớp  cắn,  điều 
quan trọng là các bác sĩ phải xác định được vị trí 
trên  răng  sẽ  chịu  những  lực  quá  mức  hay  nói 
cách khác là những vị trí và khu vực múi răng sẽ 
bị mòn, đặc biệt ở những người có thói quen cận 
chức năng mà cụ thể là nghiến răng. Tuy nhiên, 
thường  có  sự  khác  biệt  khi  quan  sát  giữa  mẫu 
vận  động  trên  giá  khớp  và  các  diện  mòn  xuất 
hiện  trên  lâm  sang(10).  Nói  cách  khác,  mặc  dù 
trên giá khớp hay quan sát trên lâm sàng không 
thấy có sự tiếp xúc ở một số vị trí, thế nhưng các 
diện mòn có thể thấy ở các răng này. Điều này 
chỉ ra rằng có sự khác biệt giữa hướng dẫn răng 
quan sát trên lâm sàng và hướng dẫn răng trên 
thực  tế  trong  hoạt  động  nghiến  răng  khi  ngủ. 

Một  số  khái  niệm  như  hướng  dẫn  răng  nanh, 
hướng  dẫn  nhóm,  khớp  cắn  thăng  bằng  từ  lâu 

330

đã được biết đến dựa trên quan sát trong miệng 
trên  lâm  sàng  hoặc  trên  giá  khớp.  Tuy  nhiên, 
những  hoạt  động  chức  năng  của  hàm  dưới, 
chẳng hạn như nhai  và  nói  là  những  vận  động 
tự  do  trong  “không  gian  chức  năng”(11).  Do  đó 
để quan sát/xác định chính xác răng hướng dẫn 
cần được căn cứ vào những hoạt động cận chức 
năng như nghiến răng(11).  
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thực hiện 
phân  loại  20  BruxChecker  của  đối  tượng  có 
nghiến  răng  khi  ngủ  theo  phân  loại  trong 
nghiên  cứu  của  Park  và  cs.  (2008)(11).  Với  kết 
quả  tỉ  lệ  khá  cao  của  ICPM  +  MG  đến  52,5%; 
tiếp  theo  là  ICP  +  MG  chiếm  15%,  lần  lượt  kế 
tiếp  là  ICPM  12,5%;  IC  +  MG  12,5%;  ICP  5%; 
cuối  cùng  là  IC  2,5%;  đặc  biệt  tổng  tỉ  lệ  MG 
chiếm đến 80%. Kết quả tỉ lệ MG trong nghiên 
cứu  chúng  tôi  khá  cao  tương  tự  nghiên  cứu 
của  các  tác  giả  Park  và  cs.  (2008)(11)  là  51%; 
Onodera  và  cs.  (2006)(10)  là  84%.  Các  nghiên 
cứu trên cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tỉ lệ các 
kiểu  mẫu  nghiến  với  độ  mở,  sự  di  chuyển 
khớp  thái  dương  và  những  dấu  hiệu  rối  loạn 
thái  dương  hàm.  Tuy  nhiên,  nghiên  cứu  này 
không đi sâu xem xét các mối quan hệ đó nên 

chỉ dừng ở việc đưa ra thêm kết quả phân loại 
các mẫu nghiến để tham khảo. Kết quả nghiên 
cứu  chúng  tôi  hy  vọng  góp  thêm  số  liệu  phát 
triển  những  đề  tài  xoay  quanh  sử  dụng 
BruxChecker  để  xem  xét  những  tiếp  xúc  răng 
có  liên  quan  thói  quen  cận  chức  năng  nghiến 
răng trong tương lai. 

KẾT LUẬN 
Có  thể  sử  dụng  BruxChecker  trong  chẩn 
đoán  nghiến  răng  khi  ngủ.  Kết  quả  nghiên 
cứu này đóng góp thêm thông tin về giá trị sử 
dụng  BruxChecker  trong  chẩn  đoán  nghiến 
răng khi ngủ.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.

3.

Hoàng Tử Hùng (2005), Cắn Khớp Học, Nhà xuất bản Y Học 
Thành phố Hồ Chí Minh, tr.98‐103. 
Khan  F,  Young  WG,  Daley  TJ  (1998),  “Dental  erosion  and 
bruxism.  A  tooth  wear  analysis  from  South  East 
Queensland”, Aust Dent J, 43(2), p.117‐127. 
Klasser GD, Greene CS, Lavigne GJ (2010), “Oral appliances 

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

4.

5.
6.

7.
8.

9.

10.

and the management of sleep bruxism in adults: A century of 
clinical applications and search for mechanisms”, International 
Journal of Prosthodontics, 23(5), p.453‐455. 
Koyano  K,  Tsukiyama  Y,  Ichiki  R,  Kuwata  T  (2008), 
“Assessment  of  bruxism  in  the  clinic”,  Journal  of  Oral 
Rehabilitation, 35(7), p.495‐508. 
Lavigne  GJ,  Cistulli  PA,  Smith  MT  (2012),  Odontologie  et 
Médecine du sommeil, Quintessence, p.101‐107. 
Lobbezoo  F,  Ahlberg  J,  Glaros  AG,  Kato  T,  Koyano  K, 
Lavigne GJ, Leeuw RD, Manfredini D, Svensson P, Winocur E 
(2012),  “Bruxism  defined  and  graded:  an  international 
consensus”,  Journal  of  Oral  Rehabilitation,  Blackwell 
Publishing, DOI 10.1111/joor.12011. 
Nadler SC (1957), “Bruxism, a classification: critical review”, J. 
Am. Dent. Assoc, 54(5), p.615‐622. 

Okeson  JP  (1996),  Orofacial  Pain:  Guidelinesfor  Assessment, 
Diagnosis and Management. Quintessence Publishing, Chicago, 
p.19‐44. 
Omarjee  R  (2006),  Le  Bruxisme  Du  Sommeil.  Mieux  le 
comprendre  pour  mieux  le  prendre  en  charge,  Thèse  pour 
l’obtention  du  Diplome  d’état  de  Docteuren  Chirurgie 
Dentaire, Saint‐Pierre, p.21‐40. 
Onodera K, Kawagoe T, Sasaguri K, Protacio‐Quismundo C, 
Sato S (2006), “The use of a bruxchecker in the evaluation of 
 

Răng Hàm Mặt 

11.

12.

13.
14.

15.

Nghiên cứu Y học

different  grinding  patterns  during  sleep  bruxism”,  Cranio, 
24(4), p.292‐299. 
Park  BK,  Tokiwa  O,  Takezawa  Y,  Takahashi  Y,  Sasaguri  K, 
Sato S (2008), “Relationship of tooth grinding pattern during 
sleep  bruxism  and  temporomandibular  join  status”,  The 
Journal of Craniomandibular Practice, 26(1), p.8‐15. 

Sato  S  (2005),  Atlas  occlusion  Diagnosis  by  BruxChecker, 
Kanagawa  Dental  CollegeResearch  Institute  of  Occlusion 
Medicine, p.14‐33. 
Shilpa S, Varun P, Satish B, Surendra  K  (2010),  “Bruxism:  A 
Literature Review”, J Indian Prosthodont Soc, 10(3), p.142‐147. 
Suwa  S,  Takahara  K,  Shirakawa  S,  Komada  Y,  Sasaguri  K, 
Onozuka M, Sato S (2009), “Sleep bruxism and its relationship 
to sleep habits and lifestyle of elementary school children in 
Japan”, The Authors Journal compilation, 7(2), p.93‐102. 

www.kdcnet.ac.jp/college/occmed/brux‐e.htm 
 

Ngày nhận bài báo: 22/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11/12/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

 

331



×