Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.59 KB, 6 trang )
độ tổn thương của kén khí và nhu mô phổi
dưới vùng kén khí, kẹp cắt kén khí đến giới
hạn của phần nhu mô phổi lành và nhu mô
phổi bị hủy hoại sẽ tránh cho tình trạng dò khí
sau khi phẫu thuật.
Chúng tôi đã PTNS cắt kén khí cho 8 trường
hợp (24,3%) kén khí phổi chưa vỡ và 25 trường
hợp (75,7%) kén khí vỡ gây tràn khí màng phổi.
Những trường hợp tràn khí màng phổi do
kén khí vỡ thường dính thành ngực, nhất là
những trường hợp thời gian sau khi đặt dẫn lưu
màng phổi kéo dài, trong nghiên cứu có 36,6%
kén khí vỡ gây dính ít thành ngực khi phẫu
thuật chúng tôi đã bóc tách khá dễ dàng. Có
15,1% dính thành ngực nhiều bóc tách khó khăn
dễ tổn thương màng phổi, đây cũng là một
nguyên nhân gây nên tình trạng dò khí dai dẳng
sau mổ làm thời gian rút ống dẫn lưu kéo dài.
Kẹp cắt kén khí và khâu bằng vicryl có 6
trường hợp (18,1%), sử dụng stapler 19 trường
hợp (57,5%), kết hợp stapler và khâu vicryl (8
trường hợp) cho những trường hợp stapler kẹp
chưa hết đáy kén khí hoặc khâu vicryl cho
những bóng khí nhỏ (bleb) khác. Sử dụng stapler
cắt kén khí làm rút ngắn thời gian phẫu thuật và
phổi được khâu kín hơn, ít gây tình trạng dò khí
sau mổ hơn.
Nghiên cứu của tác giả Sakamoto cho thấy
không có trường hợp nào gây dò khí sau khi cắt
bằng stapler, còn cắt và khâu kén khí bằng tay