Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Vai trò của lọc máu liên tục trong điều trị suy thận cấp tại khoa hồi sức tích cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.3 KB, 8 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Nghiên cứu Y học

VAI TRÒ CỦA LỌC MÁU LIÊN TỤC TRONG ĐIỀU TRỊ SUY THẬN CẤP
TẠI KHOA HỒI SỨC TÍCH CỰC
Lê Thị Mỹ Duyên *, Trần Thị Bích Hương**

TÓM TẮT
Mở đầu: Suy thận cấp (STC) là biến chứng thường gặp trong khoa Hồi sức và 10-70% cần liệu pháp thay
thế thận. Lọc máu liên tục (CRRT) là một phương pháp thay thế thận được chọn khá an toàn và hiệu quả trên bn
STC có huyết động không ổn định.
Mục tiêu: Nhận xét vai trò của lọc máu liên tục (CRRT) trong điều trị suy thận cấp tại khoa Hồi sức tích
cực, bệnh viện 115 trong 6 tháng năm 2009.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu đoàn hệ, tiến cứu trên 32 bn STC có chỉ định điều trị
thay thế thận.
Kết quả: Chúng tôi có 32 bn (20 nam, 12 nữ, tuổi trung bình 64) STC, với 50% STC thể thiểu niệu, trung
vị của điểm APACHE II cao (27 điểm), 71,9% có thở máy và 65,6% phải dùng vận mạch. Nhiễm khuẩn huyết/
sốc nhiễm khuẩn là nguyên nhân hàng đầu (65,6%) gây suy thận cấp. Ba mươi hai bn này được thực hiện 52 lần
CRRT, tống thời gian lọc máu 1604 giờ,thời gian lọc máu trung bình ở mỗi bn 50,12 giờ. Thời gian sử dụng
trung bình của 1 quả lọc là 30,84 giờ. Kháng đông sử dụng là heparin chuẩn 40 lượt (76,9%). Trong quá trình
CRRT, tình trạng huyết động cải thiện dần (huyết áp tăng và nhu cầu thuốc vận mạch giảm dần, thể tích nước
tiểu tăng lên) sau 24 giờ. BUN, creatinin huyết thanh về bình thường sau12 giờ. Ion đồ, thăng bằng kiềm toan
được điều chỉnh về bình thường sau 24 giờ. Khi kết thúc CRRT, chúng tôi có 14 trường hợp (43,8%) sống
chuyển khoa khác.
Kết luận: Việc chỉ định CRRT kịp thời, cùng với đội ngũ tiến hành CRRT có kinh nghiệm và các phương
tiện hồi sức khác giúp cho bn nặng có rối loạn huyết động học ở khoa Hồi sức thêm cơ hội được cứu sống.
Từ khóa: Lọc máu liên tục, suy thận cấp, khoa hồi sức tích cực (ICU).

ABSTRACT
THE ROLE OF THE CONTINUOUS RENAL REPLACEMENT THERAPY IN ACUTE RENAL FAILURE


TREATMENT IN THE INTENSIVE CARE UNIT
Le Thi My Duyen, Tran thi Bich Huong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 453 - 460
Background: Acute renal failure (ARF) is the most common complication in the Intensive Care Unit, in
which 10-70% of them need renal replacement therapy. The Continuous Renal Replacement Therapy (CRRT) is
the safest and effective renal replacement therapy to be used in ARF and unstable hemodynamic patients.
Objectives: To evaluate the role of CRRT in ARF in the ICU of People 115 Hospital over 6 months of year
2009.
Methods: A cohort, prospective study was conducted in 32 patients ARF indicated CRRT.
Results: We recruited 32 ARF patients (20 male, 12 female, mean age 64), with 50% nonoliguric ARF, high
median of APACHE II score (27), 71.9% on mechanical ventilation and 65.6% on vasopressor support. Sepsis/
septic shock were the major causes of ARF. We preceded 52 times CRRT over 32 patients; with total dialysis time
* Khoa Hồi sức tích cực, bệnh viện Nhân Dân 115, ** Bộ môn Nội, Đại Học Y Dược Tp Hồ Chí Minh
Địa chỉ liên hệ: BS Lê Thị Mỹ Duyên
ĐT: 0918912388
Email:

Chuyên Đề Nội Khoa

453


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

1604 h, mean dialysis time per patient 50.12h. Mean dialyzer time was 30.84h, 76.9% patients used heparin. The
hemodynamic status improved gradually (increased mean blood pressure, decreased number of vasopressor used,
increased urine output) in 24h post CCRT. BUN, serum creatinin were controlled after 12h, serum ionogram,
acid base disturbance were normalized after 24h of CRRT. By the end of treatment, 14 (43.8%) patients survived

and were transferred to other wards
Conclusion: The timely indication of CRRT, the CRRT experienced team combined with other resuscitated
means offered more survival opportunities to severe, unstable hemodynamic patients.
Keywords: Continuous Renal Replacement Therapy, CRRT), acute renal failure (ARF), Intensive Care
Unit (ICU)

ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy thận cấp (STC) là một hội chứng hoặc
biến chứng gặp ngoài cộng đồng, trong bệnh
viện, nói chung, hoặc tại khoa hồi sức, nói riêng.
Nếu tỷ lệ STC trong bệnh viện là 5-7%, thì tỷ lệ
STC tại khoa Hồi sức sẽ cao hơn (30%-60%) và tỉ
lệ tử vong ở nhóm bn này cũng cao (30 80%)(4,7,15). Tỷ lệ tử vong tại khoa Hồi sức tùy
thuộc vào từng loại hồi sức (nội khoa, ngoại
khoa, phẫu thuật tim...) và tùy thuộc vào số cơ
quan tổn thương ngoài thận. Khác với suy thận
mạn, suy thận cấp có khả năng hồi phục nếu
được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Xu
hướng hiện nay là tiến hành sớm liệu pháp thay
thế thận để duy trì sự ổn định nội môi, và phòng
tránh các biến chứng của suy thận cấp đe dọa
tính mạng bn(2,20,21). So với lọc máu ngắt quãng
(Intermittent hemodialysis, IHD) và lọc màng
bụng (Peritoneal dialysis, PD), lọc máu liên tục
(Continuous Renal Replacement Therapy,
CRRT) là phương pháp điều trị thay thế thận
được ưa chọn hiện nay trên bn STC ở khoa Hồi
Sức (80- 90%) nhất là trên bn có rối loạn huyết
động(18). Trên thế giới, CRRT đã được ứng dụng
rộng rãi, trở nên phổ biến trong các khoa Hồi

sức. Tại Việt Nam, CRRT mới được áp dụng
trong những năm gần đây trong các khoa hồi
sức tại 1 số bệnh viện(11). Tại BV 115, mặc dù
CRRT được áp dụng từ năm 2003 nhưng chúng
tôi chưa có đánh giá kết quả một cách khoa học
và đó là mục tiêu của đề tài này.
Câu hỏi nghiên cứu của chúng tôi là liệu
CRRT có cải thiện tình trạng rối loạn huyết động
cũng như điều chỉnh được các rối loạn do suy
thận cấp gây ra hay không?

454

Mục tiêu nghiên cứu
Chúng tôi có 2 mục tiêu chuyên biệt
- Khảo sát đặc điểm của bn STC được lọc
máu liên tục tại khoa Hồi sức
- Đánh giá hiệu quả của lọc máu liên tục
trong điều trị suy thận cấp ở khoa Hồi sức.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thiết kế đoàn hệ, tiến cứu.
Trong thời gian 6 tháng, từ tháng 6 đến tháng
12, năm 2009, chúng tôi có 32 BN STC được tiến
hành CRRT tại khoa Hồi Sức, Bệnh viện 115.
Các định nghĩa sử dụng trong nghiên cứu:
- Tổn thương thận cấp được chẩn đoán
dựa theo tiêu chuẩn RIFLE(6) dựa vào nước
tiểu và creatinine huyết tương, trong đó suy
thận cấp khi bn được xếp từ giai đoạn F trong

phân loại này.
Mức độ

R
I
F
L
E

Tiêu chuẩn độ lọc cầu thận
(GFR)

Cung lượng
nước tiểu
Creatinin tăng 1,5 lần∗ hoặc GFR < 0,5 ml/kg/giờ x
6 giờ
giảm > 25%
Creatinin tăng 2 lần hoặc GFR < 0,5 ml/kg/giờ x
giảm > 50%
12 giờ
Creatinin tăng 3 lần hoặc GFR < 0,3 ml/kg/giờ x
24 giờ hay vô
giảm > 75% hoặc Creatinin ≥ 4
niệu x 12 giờ
mg% với tăng cấp ≥ 0,5mg%
Mất chức năng thận hoàn toàn > 4 tuần
Nhu cầu trị liệu thay thế thận > 3 tháng

Hạ huyết áp khi huyết áp tâm thu
<90mmHg, hoặc huyết áp trung bình

<70mmHg hoặc huyết áp tâm thu giảm trên
40% của giá trị nền.
- STC thể không thiểu niệu khi thể tích nước
tiểu trên 400ml trong 24 giờ.

Chuyên Đề Nội Khoa


Y H Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

p (mmHg)

Thời gian từ lúc bn vào khoa Hồi sức đến lúc
tiến hành CRRT trung bình là 13,25 ± 9,2 giờ.
Chúng tôi có 1 bn từ khoa khác chuyển đến với
bệnh cảnh sốc nhiễm khuẩn suy đa tạng, trường
hợp này CRRT được tiến hành sớm nhất (1,5
giờ) và một trường hợp CRRT được tiến hành
muộn nhất (38 giờ). Đa số các trường hợp tiến
hành CRRT khi có BUN, Creatinin huyết thanh
tăng (96,8%), kế đến là suy đa cơ quan 65,6%;
thiểu niệu vô niệu 50%. Chúng tôi có 2 trường
hợp sốc nhiễm khuẩn được CRRT khi BUN và
creatinin huyết thanh chưa tăng nhưng bn có
thiểu niệu (giai đoạn R theo phân loại RIFLE).

Chúng tôi thực hiện 52 lần CRRT trên 32 bn
với tổng thời gian 1604 giờ. Thời gian CRRT
trung bình ở mỗi bn là 50,12 giờ. Phương thức
của CRRT được dùng là 80,76%. CVVHDF

(continous veno-venous hemodiafiltration) và
19,24% CVVH (continuous veno-venous
hemofiltration). Thời gian trung bình sử dụng 1
quả lọc là 30,84 giờ. Trong 52 lần CRRT, 76,9%
bn sử dụng kháng đông là heparin không phân
đoạn (40 lượt), 5,77% dùng citrate, 17,3% không
dùng kháng đông.

102.5
102
101.5
101
100.5
100
99.5
99
98.5

140
120
100
80
60
40
20
0
Trước
LMLT

12 giờ


24 giờ

48 giờ

n/ph)

Nghiên cứu Y học

HA max
HA min
HA tb
ch

72 giờ

Biểu đồ 1: Thay đổi Mạch, huyết áp trong quá trình CRRT

Biến đổi về lâm sàng trong quá trình CRRT
Sau tiến hành CRRT, sinh hiệu của bn được
cải thiện. Huyết áp từ chỗ thấp nhất (50% bn có
huyết áp trung bình 65mmHg) tại thời điểm vào
khoa Hồi sức, đến cải thiện rõ sau 12 giờ CRRT.
Sau 24 giờ, huyết áp về giới hạn bình thường, ổn
định và sau 48giờ, 57,1% bn ngưng được vận
mạch. Thể tích nước tiểu tăng dần từ 30,5 ml/giờ
lúc bắt đầu CRRT đến 84,5 và 89,4 ml/giờ sau 48
và 72 giờ. Sau 72 giờ CRRT, chúng tôi không còn
trường hợp nào vô niệu.
Bảng 3: Sử dụng vận mạch trong quá trình CRRT

Thời điểm CRRT Bắt đầu 12 giờ 24 giờ 48 giờ 72 giờ
Tổng số ca
32
32
32
32
30
Số ca dùng vận
21
21
16
9
7
mạch

456

Thời điểm CRRT Bắt đầu 12 giờ 24 giờ 48 giờ 72 giờ
Loại vận mạch
+ Dopamin
20
20
16
9
7
+ Noradrenalin
12
9
7
5

6
+ Adrenalin
1
1
0
1
1

Biến đổi về cận lâm sàng trong quá trình
CRRT
Tại thời điểm bắt đầu CRRT, BUN và
Creatinin huyết thanh tăng đáng kể so với lúc
mới vào Hồi sức (p < 0,001). Chúng tôi có 14 ca
BUN > 70 mg%, 10 ca creatinin huyết thanh
> 7 mg%. Và có 1 ca BUN < 20 mg%,1 ca
Creatinin huyết thanh < 1,5 mg% (2 trường hợp
này đều thiểu niệu, trong bệnh cảnh sốc nhiễm
khuẩn). BUN và Creatinin huyết thanh giảm
nhanh sau 12 giờ làm CRRT, có xu hướng về
giới hạn bình thường sau 24 giờ.

Chuyên Đề Nội Khoa


90
80
70
60
50
40

30
20
10
0

Nghiên cứu Y học
6
5
4
3
2
1

Creatinin (mg%)

BUN (mg%)

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

BUN
Creatinin

0
Bắt đầu
LMLT

136

6


135.5

5

135

4

134.5

3

134

2

133.5

1

133

0

K (mEq/l)

Na (mEq/l)

Biểu đồ 2: Biến đổi BUN và Creatinin huyết thanh trong quá trình CRRT


Na
K

Trước LMLT

Biểu đồ 3: Thay đổi điện giải trong quá trình CRRT
Lúc bắt đầu CRRT, 40,6% bn có rối loạn
Natri, Kali huyết thanh với 40,63% (13/32) tăng
Kali huyết thanh và 34,37% (11/32) hạ Natri

Bảng 3: Tình trạng lúc kết thúc CRRT
Cải thiện

huyết thanh. Trong đó, 2 bn có tăng Kali huyết
thanh > 6,5 mEq/L, 1 bn Natri huyết thanh 113
mEq/L. Sau 12 giờ CRRT Natri, Kali huyết thanh
được điều chỉnh về bình thường.
Trước CRRT, 78,2% (25/32) bn bị nhiễm toan,
với toan chuyển hóa chiếm đa số 68,8% (22/32),
trong đó, 31,3% bn (10/32) toan chuyển hóa nặng
(pH < 7,2). Hai mươi bốn giờ sau khi tiến hành
CRRT, tình trạng toan chuyển hóa cải thiện rõ,
và 71,9% khí máu động mạch về trong giới hạn
bình thường.

Chuyên Đề Nội Khoa

Chưa cải
thiện


Tình trạng
Huyết động ổn
Nước tiểu tăng (> 400
ml/ngày)
BUN, Creatinin giảm
Điện giải đồ ổn định
Toan chuyển hóa cải thiện
Quá tải thể tích cải thiện
Nặng hơn
Xin về

Số ca
14/21
27/32

%
66,6
84,3

30/32
32/32
19/25
3/3
5/32
2/32

93,7
100
76
100

15,6
6,3

Sau quá trình tiến hành CRRT, chúng tôi có
14 bn sống chuyển khoa khác (43,8%). Chúng tôi
ghi nhận những bn có kèm suy hô hấp phải thở
máy, huyết áp trung bình trước lọc máu < 80
mmHg, suy 3 cơ quan trở lên, toan chuyển hóa
nặng có nguy cơ tử vong cao (p < 0,05).

457


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Nghiên cứu Y học

71,9%

68,8%
80
60
40
20
0

18,8%
15,6%

9,4%

12,5%

Toan
Bình
chuyển
Toan hô
thường
hóa
hấp

Trước CRRT

Biểu đồ 4: So sánh khí máu động mạch trước và sau 24 giờ CRRT
Bảng 4: So sánh các yếu tố giữa nhóm sống và tử
vong
Các yếu tố

Tử vong
(N =18)
n, %
10 (55,6)
14 (77,8)
16 (88,9)

p
Sống
(N =14)
n, %
6 (42,9) 0,48
7 (50) 0,07

8 (57,1) 0,005*

So sánh tỉ lệ
Thiểu niệu
Sử dụng vận mạch
HA trung bình lúc CRRT< 80
mmHg
Thở máy
16 (88,9)
7 (50) 0,013*
Toan chuyển hóa nặng
7 (38,9)
3 (21,4) 0,034*
Thời gian bắt đầu lọc máu <6 3(16,7)
5 (35,7) 0,005*
giờ sau nhập Hồi sức
So sánh trung bình
Tuổi trung bình
66,06 ± 3,5 60,57± 2,7 0,16
Số cơ quan suy
3,07 ± 0,7 2,18 ± 0,87 0,006*
Creatinin huyết thanh lúc 3,54 ± 1,66 4,19 ± 3,21 0,98
vào hồi sức
BUN lúc vào hồi sức 66,16 ± 49,1 69,29 ± 50,8 0,64
APACHE II
29,5 ± 6,15 26,29 ± 6,37 0,23

(*) có ý nghĩa thống kê

BÀN LUẬN

Theo Mehta R(9), “suy thận cấp (STC) đơn
thuần” thường ít gặp ở khoa hồi sức và có tỉ lệ
tử vong từ < 5% đến 10%. Trong khi STC kèm
suy cơ quan khác thường vào khoa Hồi sức và
có tỷ lệ tử vong cao từ 50 đến 70%. Do vậy, STC
ở khoa hồi sức thường là dạng bệnh nặng, xảy ra
trên bn lớn tuổi, có điểm APACHE II
cao(5,10,13,15,18), tỉ lệ thở máy và dùng vận mạch cao,
và thường nằm trong bệnh cảnh suy đa cơ quan.
Tại đây, sốc nhiễm khuẩn là bệnh cảnh hàng
đầu gây ra biến chứng STC 65,6% (tỉ lệ này của
chúng tôi cao hơn các nghiên cứu khác(6,15).

458

STC nặng có chỉ định điều trị thay thế thận,
khi các biện pháp điều trị nội khoa không còn
hiệu quả trong duy trì cân bằng nội môi. Lọc
máu ngắt quãng (IHD) có tốc độ rút máu lớn (>
200 ml/phút) và tốc độ thải dịch, chất tan nhanh
nên được tiến hành trên bn STC có huyết động
ổn định. Nguy cơ lớn nhất của IHD là gây hạ
huyết áp. Theo O'Reilly P và Tolwani A(12) tỉ lệ hạ
huyết áp ở bn IHD là 20 – 30%. Điều đáng lo
ngại là hạ huyết áp là nguyên nhân tử vong ở bn
IHD. Như vậy, việc sử dụng IHD sẽ bị giới hạn
khi bn có hạ huyết áp, rối loạn huyết động phải
sử dụng vận mạch, nhất là BN ở khoa Hồi sức.
Theo Silverter và CS(18), tại khoa hồi sức có
khoảng 70 % bn STC cần điều trị thay thế thận,

trong đó 80-90% sử dung CRRT. CRRT với tốc
độ rút máu thấp (thậm chí chỉ cần 60 – 80
ml/phút), tốc độ thải dịch từ từ và liên tục nên có
thể tiến hành trên bn đang có rối loạn huyết
động. Tại thời điểm tiến hành CRRT, chúng tôi
có 21 ca (65,6%) phải sử dụng vận mạch, có 25 ca
(78,1%) huyết áp trung bình < 80 mmHg, và có 2
ca huyết áp không đo được. Trong quá trình lọc
máu, huyết áp ổn định dần, sau 48 giờ CRRT
chúng tôi có 12 ca (57,1%) đã ngưng được vận
mạch. Tỉ lệ tử vong của nhóm dùng vận mạch là
66,7% (14/21). Như vậy, nếu không có CRRT thì
tỉ lệ tử vong có thể lên đến100% trong điều kiện
huyết áp trung bình khá thấp, không cho phép
thực hiện IHD. Phần lớn các tác giả đều công
nhận, CRRT cải thiện nhanh và ổn định huyết
động, rút ngắn thời gian dùng vận mạch(3,10).
CRRT góp phần điều chỉnh các bất thường về

Chuyên Đề Nội Khoa


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

Nghiên cứu Y học

sinh hóa trong 24 giờ đầu phù hợp, gần giống
chức năng sinh lý của thận. Chúng tôi nhận thấy
BUN, creatinin, Kali huyết thanh được điều
chỉnh nhanh trong 12 giờ, toan chuyển hóa cải

thiện sau 24 giờ.

Ghi nhớ (Acknowledge): Xin chân thành cảm ơn tập thể
Bác sĩ, Điều dưỡng khoa Hồi sức tích cực và khoa Xét
nghiệm bệnh viện Nhân Dân 115, đã hỗ trợ chúng tôi thực
hiện đề tài này.

Tuy nhiên, hiệu quả của CRRT đối với
sống còn trên bn suy thận cấp còn nhiều tranh
cãi. Điều này theo chúng tôi là do sự thiếu
đồng bộ về tiêu chuẩn chẩn đoán làm kết quả
trong các nghiên cứu không đồng nhất, rất khó
so sánh. Barton và CS tìm thấy mối liên quan
giữa cải thiện sống còn với số năm kinh
nghiệm thực hành CRRT(1). Nhóm bn chúng tôi
khi tiến hành CRRT trong vòng 6 giờ sau nhập
Hồi Sức, có tỷ lệ tử vong thấp hơn nhóm tiến
hành trễ. Đa số các tác giả đều công nhận tiến
hành CRRT sớm sẽ giảm tỉ lệ tử vong. Song
tiêu chuẩn “sớm” trong các nghiên cứu cũng
chưa thống nhât. Cho đến nay, vẫn chưa có
đồng thuận nào của Thận học hoặc Hồi sức về
thời điểm cụ thể tiến hành CRRT.

1.

Shahawy A nghiên cứu đánh giá độ nặng
của 179 bn suy thận cấp bằng bảng điểm
APACHE II thấy APACHE II > 26 điểm thì
không bn nào sống sót (17). Bn của chúng tôi

APACHE II trung bình 28,09 ± 6,36, 50% bn có
APACHE II là 27, khi được tiến hành CRRT,
chúng tôi có tỷ lệ sống và chuyển khoa khác là
43,8%. Con số này chứng minh vai trò hỗ trợ
quan trọng của CRRT trong hồi sức Thận học.

KẾT LUẬN
Qua kết quả của 32 bn lọc máu liên tục
(CRRT) tại khoa Hồi Sức bệnh viện 115, chúng
tôi nhận thấy CRRT giữ vai trò quan trọng trên
bn STC có rối loạn huyết động,kèm suy đa cơ
quan. CRRT giúp cải thiện và duy trì huyết động
ổn định, kiểm soát tốt các rối loạn điện giải, cân
bằng kiềm toan trong vòng 24 giờ và qua đó, cải
thiện tiên lượng tử vong trên các bn này. Việc
chỉ định CRRT kịp thời, cùng với đội ngũ tiến
hành CRRT có kinh nghiệm và các phương tiện
hồi sức khác giúp cho bn nặng ở khoa Hồi sức
thêm cơ hội được cứu sống.

Chuyên Đề Nội Khoa

TÀI LIỆU THAM KHẢO

2.

3.

4.


5.
6.
7.

8.

9.
10.

11.
12.

13.

14.
15.

16.

17.

Augustine JJ., Sandy D., Seifert T. H. & Paganini E. P. (2004).
A randomized controlled trial comparing intermittent with
continuous dialysis in patients with ARF. Am J Kidney Dis,
44(6), 1000-1007.
Bagshaw S. M., Laupland K. B., Doig C. J., Mortis G., Fick G.
H., Mucenski M., et al. (2005). Prognosis for long-term
survival and renal recovery in critically ill patients with
severe acute renal failure: a population-based study. Crit Care,
9(6), R700-709.

Bùi Anh Tuấn. (2006). "Nghiên cứu suy thận cấp điều trị tại
Bệnh viện 175. Chỉ định và kết quả lọc máu". Tạp chí y học
quân sự, 28-29.
Barton I. K., Hilton P. J., Taub N. A., Warburton F. G., Swan
A. V., Dwight J., et al. (1993). Acute renal failure treated by
haemofiltration: factors affecting outcome. Q J Med, 86(2), 8190.
Biesen W. V. (2006). Defining Acute Renal Failure: RIFLE and
Beyond. Clin J Am Soc Nephrol, 1, 1314-1319.
Brenner B. M. (2007). Acute Kidney Injury. Saunders elsevier, 1,
943 – 975.
Cole L., Bellomo R., Silvester W. & Reeves J. H. (2000). A
prospective, multicenter study of the epidemiology,
management, and outcome of severe acute renal failure in a
"closed" ICU system. Am J Respir Crit Care Med, 162(1), 191196.
Dennen P., Douglas I. S. & Anderson R. (2010). Acute kidney
injury in the intensive care unit: an update and primer for the
intensivist. Crit Care Med, 38(1), 261-275.
Hugh B. (2008). Acute Renal Failure. Harrison 's Internal
Medicine. Mc Graw - Hill, 1(237).
Manish Chaturvedi & Medical College. (2004). Continuous
renal replacement therapy (CRRT). The Indian Anaesthetists, 19.
Mehta R. L. (1996). Outcomes with continuous renal
replacement therapy. Am J Kidney Dis, 28, 74-80.
Mehta R. L., MacDonald B. & B. G. F. (2001). A randomized
clinical of continuous versus intermittent dialysis for acute
renal failure. Kidney Int 60, 1154 -1163.
Nguyễn Tất Thắng & Trần Ngọc Tuấn. (2001). Ứng dụng kỹ
thuật lọc máu liên tục điều trị bn bỏng nặng biến chứng suy
thận cấp. Kỷ yếu công trình khoa học cấp cứu hồi sức chống độc
năm 1998 - 2001, 226 -229.

O'Reilly P. & Tolwani A. (2005). Renal Replacement Therapy
III: IHD, CRRT, SLED. cRIt Care Clin, 21, 367-378.
Orfeas L. (2006). Epidemiology and Outcomes of Acute Renal
Failure in Hospitalized Patient: A National Survey. Clin J Am
Soc Nephrol., 1, 43-51.
Saudan P., Niederberger M. & Seigneux S. (2006). Adding a
dialysis dose to continuous hemofiltration increases survival
in patients with acute renal failure. Kidney international 70,
1312-1317.
Saudan P., Niederberger M. & Seigneux S. (2006). Adding a
dialysis dose to continuous hemofiltration increases survival

459


Nghiên cứu Y học

18.

19.

460

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011

in patients with acute renal failure. Kidney international 70,
1312-1317.
Shahawy A., Lourdre U. & Badillo E. (1998). Severity of illness
scores and the outcome of acute renal failure. Clinical
Nephrology, 313, 124.

Silvester W., Bellomo R. & Cole L. (2001). Epidemiology,
management, and outcome of severe acute renal failure of
critical illness in Australia. Crit Care Med, 29(10), 1910-1915.

20.

21.

Uchino S., Kellum J. A., Bellomo R. & al e. (2005). Acute Renal
Failure in Critically Ill Patients: A Multinational, Multicenter
Study. JAMA, 294, 813 -818.
Vũ Văn Đính. (2000). Suy thận cấp. Hồi sức cấp cứu nội khoa tập
II. Nhà xuất bản Y học, 65 -80.

Chuyên Đề Nội Khoa



×