Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Khảo sát sự xuất hiện các phản ứng bất thường sau khi cho máu nhân đạo tại Bệnh viện Huyết học ‐ Truyền máu Cần Thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.51 KB, 4 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013

Nghiên cứu Y học 

KHẢO SÁT SỰ XUẤT HIỆN CÁC PHẢN ỨNG BẤT THƯỜNG  
SAU KHI CHO MÁU NHÂN ĐẠO  
TẠI BỆNH VIỆN HUYẾT HỌC ‐ TRUYỀN MÁU CẦN THƠ 
Nguyễn Ngọc Chi Lan*, Hồ Thị Tuyết*, Nguyễn Ngọc Huỳnh** 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Hiến máu cứu người thường có nhiều lợi ích cho cơ thể. Tuy nhiên, có một số trường hợp xuất 
hiện các phản ứng không mong muốn sau khi hiến máu (HM). Đề tài nầy nhằm tìm hiểu tỉ lệ xuất hiện các phản 
ứng sau khi HM và các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ này. 
Phương  pháp  nghiên  cứu:  Mô  tả  cắt  ngang.  Chọn  ngẫu  nhiên  900  người  hiến  máu  (chia  đều  thành  3 
nhóm: nhóm hiến 250 ml máu, nhóm hiến 350 ml máu và nhóm hiến 450 ml máu). Số liệu được ghi nhận bằng 
phương pháp khám và phỏng vấn trực tiếp thông qua bộ câu hỏi. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 18.0. 
Kết quả: Tỉ lệ xuất hiện dấu hiệu bất thường cho cả 3 nhóm chiếm 4,7%, đa số  là phản ứng nhẹ (97,6% ). 
Tỉ lệ xuất hiện dấu hiệu bất thường cho nhóm hiến 250 ml máu chiếm 9,3%; nhóm hiến 350 và 450 ml máu 
chiếm 2,3%. Tuổi, giới, số lần hiến và yếu tố tâm lý có ảnh hưởng đến sự xuất hiện các phản ứng bất thường. 
Kết luận: Tỉ lệ xuất hiện các phản ứng bất thường khi hiến 450 ml máu thấp hơn hiến 250ml máu và có 
liên quan đến yếu tố tâm lý trước khi cho máu. 
Từ  khóa  liên  quan: hiến máu, hiến máu nhân đạo, phản ứng bất thường, phản ứng không mong muốn, 
bệnh viện huyết học truyền máu Cần Thơ… 

ABSTRACT 
ADVERSE REACTIONS AFTER VOLUNTARY DONATION OF BLOOD AT CAN THO 
HEAMATOLOGY – BLOOD TRANSFUSION HOSPITAL 
Nguyen Ngoc Chi Lan, Ho Thi Tuyet, Nguyen Ngoc Huynh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 5 ‐ 2013: 108 ‐ 111 
Background:  Voluntary  donors  normally  tolerate  blood  donation  very  well,  but,  occasionally,  adverse 
reactions may occur during or after of the blood collection. The aim of this study was to estimate the prevalence 


and the cause of reactions. 
Method: Cross – sectional described study.  
Materials and methods:.The study was conducted over a period of 15 months, from March 2012 to  May 
2013. The donor population analysed consisted of 900 voluntary donors  have donated whole blood  (divided into  
three groups  donating 250 ml, 350 ml and 450 ml of blood). Data collection:  examination and direct interviews 
with a questionnaire. SPSS 18.0 software was employed to analyze the results.  
Results:  Only 47 donors (4.2% of all the volunteers) suffered some kinds of adverse reaction: 97.6% had 
mild  reactions  (agitation,  sweating,  pallor,  cold  feeling,  sense  of  weakness,  and  nausea).  The  prevalence  of 
reactions of the group donating 250 ml  was 9.3%; and the groups donating 350  and  450  ml was the same 
(2.3%).  Factors  as  age,  sex,  amount  of  blood  donated  and  psychological  factors  affected  the  rate  of 
occurrence of abnormal reactions. 
* Trường Đại học Y Dược Cần Thơ 

 

**Bệnh viện Huyết Học Truyền Máu Cần Thơ  

Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Ngọc Chi Lan, ĐT: 01285039988, Email:  

108

Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 

Nghiên cứu Y học

Conclusion: The prevalence of abnormal after donation 450 ml blood is lower than 250 ml. Psychological 
factors are related the appearance abnormal reactions. 

Key words: blood donation, donate, adverse reaction, Can Tho Hematology ‐ Blood transfution hospital.  

 ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhu cầu máu và các sản phẩm máu phục vụ 
cho điều trị ngày càng tăng. Do  vậy,  cần  nhiều 
người  cho  máu,  đặc  biệt  cho  máu  450  ml.  Tuy 
các túi máu 250ml, 350ml đều có thể tách được 3 
thành  phần:  khối  hồng  cầu,  tiểu  cầu  và  huyết 
tương để phục vụ điều trị hiệu quả hơn nhưng 
việc điều chế sẽ khó khăn hơn, nguy cơ cao hơn 
so với túi máu 450ml. 
Bên cạnh đó, đã có nhiều nghiên cứu chứng 
minh,  hiến  một  thể  tích  máu  dưới  10%  tổng 
lượng máu trong cơ thể rất an toàn, không ảnh 
hưởng  gì  đến  sức  khỏe  người  cho  máu.  Tuy 
nhiên, vẫn còn rất nhiều người hiến máu lo ngại 
khi cho 450ml máu. 
Nhằm tìm hiểu sự xuất hiện các dấu hiệu bất 
thường  sau  khi  cho  máu  và  với  những  lượng 
máu  hiến  khác  nhau  (  250,  350,  450  ml)  tại  địa 
bàn thành phố Cần Thơ, chúng tôi tiến hành đề 
tài nầy. 
Mục  tiêu  nghiên  cứu:  So  sánh  tỉ  lệ  các  dấu 
hiệu  bất  thường  xảy  ra  sau  hiến  máu  giữa  các 
nhóm  thể  tích  250,  350  và  450  ml  và  tìm  hiểu 
những yếu tố ảnh hưởng. 

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
*Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả cắt ngang có phân tích 


*Đối tượng nghiên cứu 
Người  hiến  máu  tình  nguyện  tại  bệnh  viện 
Huyết học – Truyền máu Cần Thơ. 

*Địa điểm và thời gian nghiên cứu 
Từ  tháng  3/2012  đến  5/2013  tại  bệnh  viện 
Huyết học – Truyền máu Cần Thơ. 

*Cỡ mẫu 
 
N=                                , p= 0,2  N= 300.  

Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 

Chọn  mẫu  ngẫu  hiên  900  người  hiến  máu 
(chia đều cho 3 nhóm thể tích hiến, mỗi nhóm 
300). 

*Phương pháp thu thập số liệu 
Số  liệu  được  ghi  nhận  bằng  cách  khám  và 
phỏng  vấn  trực  tiếp  tất  cả  người  hiến  máu  tại 
bệnh viện và cộng đồng sau khi hiến máu thông 
qua bộ câu hỏi. 

Các bước tiến hành 
Cuộc  điều  tra  được  tiến  hành  tại  bệnh  viện 
Huyết  học‐  Truyền  máu  Cần  Thơ  và  tại  cộng 
đồng (đi theo xe lấy máu), theo trình tự: 
Người  hiến  máu  (NHM)  sau  khi  được  tư 

vấn và khám sức khỏe => kết luận đủ điều kiện 
tham  gia  HM  (100%  là  người  hiến  máu  nhân 
đạo).  
‐  Bước  1:  điều  tra  viên  sẽ  ghi  hỏi  và  nhận 
hành chánh, bệnh sử, tiền sử, các chỉ số cá nhân 
(mạch, huyết áp, cân nặng…) của NHM đủ điều 
kiện 
‐  Bước 2: Trong quá trình lấy máu và ngay 
sau khi lấy máu xong. Điều ta viên  sẽ dựa vào 
bộ  câu  hỏi  quan  sát  và  phỏng  vấn  trực  tiếp  về 
những PƯBT xảy ra => ghi nhận vào bộ câu hỏi. 
‐  Bước 3: Sau hiến máu, NHM sẽ phải nghỉ 
tại chỗ ít nhất 10 phút 
Điều tra viên sẽ tiếp tục quan sát và phỏng 
vấn trực tiếp về những PƯBT xuất hiện, tìm hiểu 
các yếu tố liên quan => ghi nhận vào bộ câu hỏi. 
Cuối  ngày  người  NC  sẽ  tổng  hợp  thống  kê 
lại bốc thăm ngẫu nhiên để quyết định đưa vào 
mẫu. 

Tiêu chuẩn đánh giá mức độ xuất hiện dấu 
hiệu bất thường ở người hiến máu:[4] 
‐  Mức độ nhẹ: Hồi hộp, lo lắng, nhợt nhạt, 
cảm  giác  nóng  bừng,  vã  mồ  hôi,  choáng  váng, 
buồn  nôn,  nôn,  cảm  giác  khó  thở,  cảm  giác  ớn 
lạnh, mạch nhanh (tăng thêm trên 10 lần/phút so 
với trước cho máu). 

109



Nghiên cứu Y học 
‐  Mức  độ  trung  bình:    Các  dấu  hiệu  nhẹ 
kèm theo một trong các biểu hiện sau: mất nhận 
biết  (ngất  xỉu),  thở  nhanh  nông  (nhịp  thở  ≥  28 
lần/  phút),  co  giật  kiểu  tetanie,  mạch  chậm  và 
khó  bắt,  hạ  huyết  áp  (giảm  >  15  mmHg  so  với 
trước khi cho máu), co cứng cơ. 
‐  Mức  độ  nặng:  Các  dấu  hiệu  nhẹ  hoặc 
trung  bình  kèm  theo  một  trong  các  biểu  hiện 
sau:  co  giật,  đại  tiểu  tiện  không  tự  chủ,  trụy 
tim mạch. 

*Xử lý và phân tích số liệu 
Bằng phần mềm thống kê SPSS 18.0. 

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
tích  nhỏ  250  ml  (61,5%),  350  ml  (38,5%),  p  < 
0,05.(5)  Tác  giả  chưa  có  ghi  nhận  tỉ  lệ  ở  nhóm 
hiến  450  ml  vì  vào  thời  điểm  thực  hiện  nghiên 
cứu  (năm  2005  ‐  2006)  thì  thể  tích  450  ml  chưa 
được thực hiện. 
Tác  giả  Agnihotri  nghiên  cứu  trên  37.896 
người hiến máu tại Ấn Độ cũng kết luận những 
người  hiến  máu  350  ±  35  ml  có  tỉ  lệ  PƯBT  là 
3,9% cao hơn so với người hiến 450 ± 45 ml máu 
(0,7%)  (p  <  0,05).  Các  phản  ứng  thường  gặp  là: 
đổ mồ hôi ‐ 65,3%, chóng mặt ‐ 55,8%, xanh xao ‐ 

55,3%, lo lắng ‐ 51,8% (1). 
Như  vậy,  các  dấu  hiệu  bất  thường  không 
phụ thuộc vào thể tích máu hiến. 

*Đặc điểm đối tượng nghiên cứu 
Người hiến máu trong độ tuổi từ 18 đến 29 
chiếm tỉ lệ cao nhất (58,2%), nhóm tuổi ≥ 50 tuổi 
chiếm tỉ lệ thấp nhất 3%.  
Nam  giới  chiếm  đa  số  (77,7%)  trong  khi  đó 
nữ giới chỉ có 22,3%. 
Đa số (63,2%) người hiến máu là cán bộ nhà 
nước,  học  sinh  ‐  sinh  viên  chiếm  17,3%.  Nông 
dân – lao động tự do chiếm tỉ lệ rất ích (4%) dù 
chiếm đa số trong dân số với hơn 70%(7). 
Hiến  máu  nhắc  lại  chiếm  đa  số  (72,7%).  Số 
lần hiến máu trung bình là 4,4 ± 4,7. Người hiến 
máu nhiều nhất là 30 lần. 
Khoảng  cách  giữa  hai  lần  hiến  máu  trong 
khoảng  từ  4  ‐  12  tháng  (≤12  tháng)  chiếm  tỷ  lệ 
cao nhất (61%). Những người hiến máu nhắc lại 
sau 3 tháng chiếm tỷ lệ thấp nhất (5,2%). 

*Tỉ lệ phản ứng bất thường 
Tỉ  lệ  phản  ứng  bất  thường  sau  hiến  máu 
4,7%; khác biệt có ý nghĩa thống kê với kết quả 
của tác giả Trần Bích Hợp (2,8% ) (2). 
Những dấu hiệu bất thường gặp nhiều nhất 
ở  nhóm  hiến  250  ml  chiếm  9,3%;  nhóm  350  và 
450 ml đều chiếm 2,3%. Sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê với χ2 = 22,0; p < 0,05. 

Tác giả Ngô Mạnh Quân cũng ghi nhận tỉ lệ 
phản  ứng  là  2,6%  chủ  yếu  là  phản  ứng  nhẹ 
88,6%  và  dấu  hiệu  bất  thường  gặp  nhiều  ở  thể 

110

 
Biểu đồ 1: Mối liên hệ giữa tỉ lệ xuất hiện dấu hiệu 
bất thường và thể tích máu hiến. 
Bảng 2: Bảng tần suất những phản ứng bất thường 
sau khi hiến máu: 
PƯBT
Chóng mặt
Xanh xao
Hồi hộp, lo lắng
Vã mồ hôi
Đau (chỗ kim đâm)
Buồn nôn
Cảm giác nóng bừng
Chảy máu nhiều sau rút kim
Cảm giác tim đập nhanh
Nôn
Bủn rủn tay chân
Huyết áp tối đa giảm >10 mmHg
so với trước hiến máu
Co giật kiểu Tetanie/ hạ calci
Bầm tím chỗ chích

Số lượng
24

21
7
7
3
3
3
2
1
1
1

Tỷ lệ %
57,1
50,0
16,7
16,7
7,1
7,1
7,1
4,8
2,4
2,4
2,4

1

2,4

1
1


2,4
2,4

Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học  


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 
Chủ yếu là các phản ứng nhẹ trong đó chóng 
mặt có 24 trường hợp (57,1%) và 21 trường hợp 
xanh xao (50%). Ghi nhận 1 trường hợp co giật 
kiểu tetanie đồng thời có hạ huyết áp tối đa (HA 
giảm  >  10mmHg  so  với  trước  hiến)  với  tiền  sử 
từng  được  chẩn  đoán  giảm  Canxi  và  có  cơn 
tetanie trước hiến máu. 

Các  yếu  tố  liên  quan  ảnh  hưởng  đến  tỉ  lệ 
phản ứng bất thường 
Nhóm  tuổi  18‐29  tuổi  có  tỉ  lệ  phản  ứng  bất 
thường  cao  nhất  (75%),  tuy  nhiên  sự  khác  biệt 
không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. 
Nam  gặp  các  phản  ứng  bất  thường  (4,4%) 
thấp  hơn  so  với  nữ  (8,5%),  sự  khác  biệt  có  ý 
nghĩa thống kê với p < 0,05. 
Người hiến máu lần đầu gặp phản ứng bất 
thường  (56,2%)  nhiều  hơn  so  với  hiến  nhắc  lại 
(43,8%). Những người hiến máu có khoảng cách 
giữa hai lần hiến trong vòng 4 đến 12 tháng gặp 
phản  ứng  bất  thường  nhiều  nhất  (35,4%),  có  ý 
nghĩa thống kê với p < 0,05. 

Nhóm  cân  nặng  <50  kg  gặp  phản  ứng  bất 
thường nhiều hơn các nhóm khác (31,2%), có  ý 
nghĩa thống kê với p < 0,05. 

Nghiên cứu Y học
lệ  các  dấu  hiệu  bất  thường  xảy  ra  không  phụ 
thuộc vào thể tích máu hiến. 
Đa số là các phản ứng nhẹ, bao gồm: chóng 
mặt 57,1%; xanh xao 50%, hồi hộp lo lắng 16,7%; 
vã mồ hôi 16,7%... Yếu tố tuổi, giới, số lần hiến 
có ảnh hưởng đến tỉ lệ xuất hiện các phản ứng.  
Kết  quả  chúng  tôi  tương  tự  các  nghiên  cứu 
của các tác giả trong và ngoài nước. (7,4,1,3,10)  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

Agnihotri  N,  Marwaha  N,  Sharma  RR  (2012),  “Analysis  of 
adverse  events  and  predisposing  factors  in  voluntary  and 
replacement whole blood donors: A study from north India”, 
Asian J Transfus, 2 (6), 60 – 155. 
Dự án Trung tâm truyền máu khu vực Cần Thơ (2007), “Tài 
liệu tập huấn an toàn truyền máu”, Công ty in Cần Thơ, Cần 
Thơ. 
Garozzo  G,  Crocco  I,  Giussani  B,  Martinucci  A,  Monacelli  S 
and  Randi  V  (2010),  “Adverse  reactions  to  blood  donations: 
the READ project”, Blood Transfus, 1(8), 9–62. 
Ngô Mạnh Quân, Đỗ Trung Phấn và cs (2006), “Tìm hiểu một 
số yếu tố ảnh hưởng tới sự xuất hiện các phản ứng lâm sàng 
không  mong  muốn  ở  người  hiến  máu  tình  nguyện”,  Y  học 

thực hành, 1(545) 
Ngô  Mạnh  Quân,  Phạm  Tuấn  Dương,  Nguyễn  Anh  Trí 
(2011), “Những lợi ích của hiến máu”, Y học Việt Nam, số đặc 
biệt/2011, 41‐44. 
Nguyễn  Anh  Trí  và  CS  (2009),  “Cẩm  nang  vận  động  hiến 
máu tình nguyện”, NXB Y học. 
Nguyễn  Đức  Thuận,  Cù  Thị  Lan  Anh,  Ngô  Mạnh  Quân  và 
cộng  sự  (2005),  “Đánh  giá  tình  hình  người  hiến  máu  tình 
nguyện của viện huyết học – truyền máu Trung Ương năm 
2005. trang web  />người‐hiến‐máu‐tình‐nguyện‐của‐viện‐huyết‐học‐truyền‐
máu‐trung‐ương‐năm‐2005. 
Tổ chứ Y tế thế giới (WHO) (2011), “Cho máu an toàn”, NXB 
Y học, Hà Nội. 
Trần  Bích  Hợp  (1999),  “Nghiên  cứu  một  số  chỉ  số  sức  khỏe 
người cho máu”, Luận án thạc sỹ y học, Hà Nội, tr: 36‐37, 53‐
54,60‐64, 74. 
Wiltbank  TB  et.  al.(2008),  “Faint  and  prefaint  reactions  in 
whole‐blood  donors:  an  analysis  of  predonation 
measurements and their predictive value”,Transfusion, 9 (48), 
pp. 808‐ 1799. 

2.

3.

4.

5.

6.

7.

Yếu tố hồi hộp, lo lắng gặp có liên quan đến 
các  phản  ứng  bất  thường  (16,7%),  có  ý  nghĩa 
thống kê với p < 0,05. 
Chưa ghi nhận tiền sử bệnh tật có liên quan 
đến các phản ứng bất thường. 

8.
9.

KẾT LUẬN 
Khảo sát ngẫu nhiên 900 người hiến máu tại 
bệnh  viện  Huyết  Học  ‐  Truyền  máu  Cần  Thơ, 
chúng tôi có một số kết luận:  
Phản ứng bất thường xảy ra chiếm tỉ lệ 4,7%. 
Trong từng nhóm thể tích thì người hiến 250 ml 
gặp phản ứng bất thường cao nhất ( 9,3%) trong 
khi nhóm 350 và 450 ml chỉ có 2,3%. Như vậy tỉ 

10.

 
Ngày nhận bài báo:    

 30 tháng 7 năm 2013 

Ngày phản biện:  

 06 tháng 9 năm 2013 


 

Ngày bài báo được đăng:  

22 tháng 10 năm 2013 

 

Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 

111



×